Nhân loại ở thế kỷ 21 tự hào với nền văn minh khoa học kỹ thuật, nhưng thực tế nhãn tiền chỉ cho thấy thế giới hôm nay là cả một hành tinh ngập tràn thống hận, cuồng tín, cố chấp, và đầy tính khủng bố. Người ta thích đe dọa nhau, hãm hại nhau hơn là sự vỗ về ban phát hạnh phúc. Nhà văn hóa đánh mất phẩm cách văn hóa. Nhà chính trị chỉ biết đặc quyền và đặc lợi cá nhân phe đảng. Người hô hào cho dân chủ tự do thì ôm chặt quan điểm độc đoán và thế đứng độc quyền độc tôn của mình. Nhà tôn giáo thì lại bỏ quên vai trò lãnh đạo tinh thần để vui say với quang vinh hào nhoáng của những thành tựu chính trị thế tục…
Một
thế giới như thế, càng lúc càng bộc lộ rõ tính chất đảo
điên và huyễn ảo mà kinh Phật thường nhắc đến. Nhưng
con người, ngay cả những người con Phật chúng ta, vẫn thường
không nhìn nhận bản chất không thực ấy của cuộc đời,
hoặc biết nhưng cố tình lãng quên, bám chặt vào chính cái
huyễn ảo ấy để tồn tại, nuôi lớn những phiền não,
và tiếp tục gieo rắc khổ đau, oán kết cho mình, cho người,
cho cuộc trầm luân dằng dặc qua-lại, đi-về trong biển lớn
sinh tử.
“Tất
cả các pháp hữu vi đều như chiêm bao mộng mị, như trò
huyễn thuật, như bọt nước trôi, như bóng lồng sương, như
hạt sương sớm, như ánh chớp ban chiều…”
Lời của kinh Kim Cương đọc lên mỗi ngày, nghe như tiếng thơ ru êm những lần khổ nạn, nghe như sấm nổ vang trời giữa đêm dài mờ mịt u mê. Lời kinh cứu lấy ai những đêm lang thang tìm nơi ẩn trú. Lời kinh cứu lấy ai trong những ngày dài nơi lao tù khổ nhục. Lời kinh cứu lấy ai trong cơn đói khát, vật vờ trên biển nước mênh mông. Lời kinh cứu lấy ai khi đời gán cho gánh nặng oan ức và những lời nguyền nghiệt ngã. Lời kinh cứu lấy ai trong những cơn tủi nhục, khốn cùng, bế tắc, không còn lối nào để đi… Những oan kết, oan nghiệt, oan ức, oan khiên, tích lũy từ nhiều đời và nhiều người, như sức nặng của núi lớn đè lên phận người bé nhỏ, nếu không nhờ câu kinh thơ mộng và thượng thừa kia thì làm sao có thể vươn mình đứng dậy!
Khổ đau, oán hận kết thành những ấn tượng nặng nề gieo vào đất tâm. Ấn tượng phả hơi thở nóng bừng vào đời sống, và đôi khi ảo hiện trong những giấc mộng mịt mùng, để rồi chính ta, trong đêm dài u u minh minh, đã phải một mình đối đầu với trùng trùng ách nạn, và ngay cả phải đối diện với thần chết. Trong ảo thời và ảo cảnh ấy, tất cả đều như thật. Không ai có thể can thiệp hay cứu giúp. Chỉ có ta, đơn thân lẻ bóng, mặt đối mặt với nguy nan, bất trắc, đớn đau và thống khổ. Lối thoát duy nhất trong lúc ấy là tự đánh thức mình ra khỏi cơn mộng hãi hùng. Thức dậy, thức dậy mau, đây chỉ là giấc mộng, không phải là sự thực! Giật mình tỉnh giấc rồi, chẳng thấy đâu là điều hiểm nguy ách nạn, chẳng thấy ai là kẻ làm mình hoảng sợ hay oán ghét. Nỗi vui mừng thoát nạn thoát khổ cũng chỉ một thoáng khởi lên, rồi qua đi; vì trên thực tế, cũng chẳng có gì phải vui mừng với khổ nạn không thực và sự thoát nạn không thực.
Hạnh
phúc cũng đến và đi trong thể điệu mơ màng chiêm bao như
thế. Chúng rất thực, và cũng rất ảo. Đắm mình trong khổ
đau huyễn hóa hay trong hạnh phúc mộng ảo, đều là thể
cách mê mờ rất buồn cười của chúng ta khi đi qua cuộc
đời này.
“Thế
gian ly sinh diệt
Do
như hư không hoa
Trí
bất đắc hữu vô
Nhi
hưng đại bi tâm.” (kinh Lăng Già)
Thực chất của thế gian, vốn vượt khỏi hiện tượng của sinh-diệt, còn-mất; bởi vì tướng sinh-diệt, còn-mất cũng chỉ là hoa đốm giữa hư không.
Quán sát thâm sâu về bản chất của thế gian như vậy bằng trí tuệ giác ngộ siêu việt lên trên có-không và tất cả các tướng đối đãi, từ đó, phát khởi lòng thương vô hạn đối với chúng sinh, với cuộc đời.
Nếu trí không vượt ngoài có-không, thì lòng thương và mọi hoạt dụng nhằm cứu khổ ban vui, tranh đấu cho nhân quyền, vận động cho dân chủ, tu nhân tích đức, tu đạo, hành đạo, hoằng pháp, giáo dục, từ thiện xã hội… đều chỉ là những trò chơi ma thuật của trường mộng vô minh.