Nalanda Trường Đại Học Đầu Tiên Của Phật Giáo

10 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 25429)

NALANDA
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẦU TIÊN CỦA PHẬT GIÁO

Nguyễn Đăng

Một địa điểm đặc biệt khác nằm gần Vương Xá (Rājagaha, Rajgir) là khu di tích Đại học cổ Nalanda. Nalanda cách thủ phủ Patna 90km về hướng Đông nam, cách Vương Xá khoảng 12km. Địa danh này ngày nay được xác định nằm tại ngôi làng Bada Ganon.

Danh xưng Nalanda liên quan đến nhiều huyền thoại. Theo Tiến sĩ Hiranand Shastri, từ Nalanda xuất phát từ hai từ Sanskrit là “nalam” và “da”. “Nalam” có nghĩa là cuống hoa sen mà nó biểu trưng cho trí tuệ, và “da” có nghĩa là người trao. Gộp hai từ lại có nghĩa là “người trao trí tuệ”. Theo ngài Huyền Trang thì trước đây nơi này có một hồ nước và có một con rồng (naga) tên là Nalanda sống, nên về sau ngôi tự viện được xây dựng ở đây đã được đặt theo tên con rồng này. Và dần về sau, ngôi tự viện này đã trở thành một trung tâm học thuật, tức Đại học Nalanda, một đại học được xem là cổ nhất trên thế giới.

Theo các kinh Pāli thì Đức Phật đã viếng thăm nơi này nhiều lần. Khi đi từ Vương Xá đến Hoa Thị Thành, Ngài thường dừng chân tại vườn xoài của Pavarika và thuyết kinh tại đây. Trong kinh Upali, Nalanda được đề cập đến như là một vùng đất phồn thịnh. Cuộc đối thoại giữa Đức Phật và một vị Nigantha đã cho thấy điều đó: “Này gia chủ, ông nghĩ thế nào? Có phải Nalanda này là phú cường và phồn thịnh, dân chúng đông đúc, nhân dân trù mật?” Và vị này đã trả lời: “Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Nalanda này là phú cường và phồn thịnh, dân chúng đông đúc, nhân dân trù mật”. Và trong kinh Kevatta (Vedaddha), Trường bộ kinh, khi Đức Phật trú tại vườn Pavarikampa ở Nalanda, một cư sĩ khi đến viếng thăm Ngài cũng đã đề cập Nalanla là một nơi phồn thịnh, dân chúng đông đúc và kính tin Đức Phật. Và trong một chuyện tiền thân, Nalanda cũng là nơi mà trong một tiền kiếp, khi còn là một vị Bồ-tát, Đức Phật là vị quốc vương đóng đô ở đây. Hai vị đại đệ tử của Đức Phật là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên vốn xuất thân từ vùng này. Tôn giả Xá Lợi Phất về sau cũng tịch diệt tại nơi đây. Kỳ-na giáo cũng cho rằng, ngài Mahavira, người khai sáng nên tôn giáo này, cũng từng viếng Nalanda nhiều lần. Do vậy Nalanda cũng là một địa chỉ hành hương của người Kỳ-na.

Vua Ashoka khi quy y theo Phật giáo cũng đã viếng thăm nơi này và cho xây dựng một ngôi chùa tại đây. Một vị sư Tây Tạng tên là Raranath đã đề cập điều này trong một cuốn sách của mình viết về lịch sử Phật giáo Ấn Độ. Và ông cũng cho rằng ngài Long Thọ (Nagarjuna) cũng từng học tại Nalanda. Hai vị đệ tử của ngài Long Thọ là Chandrakirti và Shantideva cũng là những sinh viên của đại học này. Các nhà Phật học lỗi lạc khác như nhà logic vĩ đại của Phật giáo là Dignaga (tác giả của Pramanasamuccaya), Aryadeva, Asanga và Vasubandhu đều được cho là có gắn kết với đại học này. Khi Nghĩa Tịnh đến nơi này, ngài nói rằng có ba ngàn Tăng sĩ ở tại tu viện Nalanda và họ được hơn hai trăm ngôi làng ủng hộ. Trong suốt thời đại Gupta, văn học Đại thừa được nghiên cứu sâu rộng ở Nalanda, đặc biệt là tác phẩm Madhyamika của ngài Long Thọ. Nhưng từ giữa thế kỷ thứ tám, dưới triều đại Pala, thì Mật tông cũng bắt đầu được quan tâm ở đây. Và có những Tăng sĩ Tây Tạng nổi tiếng đã từng sống ở nơi đây như Abhayakaragupta và Naropa.

Nalanda là một khu đại học rất quy mô của Phật giáo suốt từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ XII. Khu đại học này từng được ghi nhận là có mười ngàn sinh viên và hai ngàn giáo sư, bao gồm nhiều ngành học khác nhau, và cũng là một trong những trường đại học mang tầm quốc tế đầu tiên. Nalanda đã phát triển rực rỡ trong thời kỳ đầu thành lập nhờ vào sự ủng hộ nhiệt tâm của các đại đế triều đại Gupta, đặc biệt là Kumaragupta, Harshavardhana (606-47), cũng như những vị vua khác của triều đại Pala.

Nalanda chính thức bị hủy diệt vào năm 1193, khi những người Hồi giáo Thổ Nhỉ Kỳ dưới sự chỉ huy của Bakhtiyar Khilji đánh phá nơi này. Họ đã đốt phá trường học, chùa viện và giết các Tăng sĩ ở đây. Sự kiện này cũng được xem là điểm mốc đánh dấu sự suy tàn của Phật giáo tại Ấn Độ, mặc dù Phật giáo đã thực sự suy yếu trước đó một vài thế kỷ, điều này có thể thấy được trong ký sự của ngài Huyền Trang. Khu đại học này được cho là bị thiêu rụi hoàn toàn và nó đã cháy hàng tháng trời, cũng như tất cả những Tăng sĩ ở đây phần lớn bị sát hại. Nhưng theo truyền thống Tây Tạng thì khi bị hủy hoại, nhiều kinh sách ở Nalanda đã được đưa vào Tây Tạng, và cũng có số vài Tăng sĩ đã sống sót sau sự kiện tang thương này. Vào năm 1235, một nhà chiêm bái Tây Tạng tên là Chag Lotsawa khi đến đây đã nhìn thấy một vị đạo sư chín mươi tuổi tên là Rahula Shribhadra cùng với một lớp học bảy mươi học sinh tại Nalanda. Vị đạo sư này đã thoát khỏi nạn tàn sát của người Hồi nhờ vào sự giúp đỡ của một vị Ba-la-môn địa phương!

Nalanda bắt đầu được biết trở lại vào thế kỷ XIX. Năm 1872, Bradley đã bắt đầu khai quật một vài nơi ở đây và cho công bố chuyên khảo của mình. Từ năm 1915 (trong suốt 1915-1937, và sau đó từ 1974-1982), Nalanda chính thức được khai quật tổng thể dưới sự chỉ đạo của Hội Khảo cổ học Ấn Độ (Archaeological Survey of India), với sự tài trợ của Hội Royal Asiatic Society của Anh. Nhiều nền chùa tháp được tìm thấy, nhiều di tích liên quan được phát hiện. Toàn khu vực Nalanda ngày nay rộng vào khoảng 14 hectas. Tuy đã được khai quật nhiều, nhưng dựa theo ký sự của ngài Huyền Trang thì những gì được biết đến chỉ là một phần nhỏ so với tổng thể của Nalanda xưa.

Những địa điểm chiêm bái

Nalanda ngày nay là một trong những địa điểm thu hút nhiều người tham quan, cả Phật tử và không phải Phật tử. Một ngôi trường gắn liền với nhiều sự kiện, đã đào tạo nên những nhà Phật học lỗi lạc, cũng như số phận sau cùng của nó, đã khiến cho nhiều người quan tâm đến. Và những di tích được khai quật hầu như liên quan đến Phật giáo. Rất nhiều những di tích khai quật được là những kiến trúc Phật giáo như chùa, tháp, trụ đá… Có đến 6 ngôi tháp và 11 tinh xá được tìm thấy ở đây.

Dù chỉ còn là những nền gạch, nhưng đến đây ta vẫn thấy được sự quy mô của Đại học Nalanda xưa. Nổi bật nhất trong số những gì khai quật được là tháp thờ Tôn giả Xá Lợi Phất. Ngôi tháp này được đánh dấu là ngôi tháp số ba. Đối diện với tháp này là hai nền tự viện (vị trí 1A và 1B), cổng của nó nằm về hướng Bắc, và xung quanh là các phòng dành cho Tăng chúng ở. Xa hơn chút nữa là chín ngôi tinh xá khác, cách bố trí đều giống nhau, chỉ trừ hướng đi là về hướng Đông…

Ngoài việc viếng thăm khu di tích Nalanda, có những địa điểm quan trọng cần tham quan khác ở vùng này là Bảo tàng Khảo cổ Nalanda (Nalanda Archaeological museum), Nhà tưởng niệm Huyền Trang (Huien Tsang/ Xuan Zang Memorial Hall)… Bảo tàng Nalanda được thành lập vào năm 1917, lưu giữ nhiều tượng Phật, Bồ-tát và tượng các thần Ấn giáo và Kỳ-na giáo, cũng như lưu giữ nhiều đồ gốm sứ, đĩa đồng, đồng tiền, những chữ viết trên gạch và đá, bích họa… Những di vật được lưu trữ và trưng bày ở bảo tàng này được cho là mang dấu ấn nghệ thuật Pala - môn nghệ thuật được giảng dạy tại Đại học cổ Nalanda trước đây. Bảo tàng Nalanda tọa lạc phía trước khu di tích Nalanda.

Nhà tưởng niệm Huyền Trang được xây dựng để tưởng niệm và vinh danh những đóng góp to lớn của ngài Huyền Trang đối với Phật giáo cũng như đối với lịch sử Ấn Độ và Trung Quốc. Công trình này được khởi công từ 1957, lúc Jawaharlal Nehru còn làm thủ tướng của Ấn, những mãi đến năm 2007, tức là sau 50 năm mới được khánh thành và mở cửa cho du khách tham quan. Nhà tưởng niệm Huyền Trang cách Viện Bảo tàng Nalanda khoảng 2km.

Cách đến Nalanda

Sân bay gần Nalanda nhất là ở Patna, thủ phủ của bang Bihar, cách địa danh này khoảng 93km. Như vậy nếu muốn đến Nalanda bằng đường hàng không, trước hết ta phải đi máy bay đến Patna, sau đó thuê hoặc đón xe đến Nalanda. Cách Nalanda khoảng 15km có một ga xe lửa. Nhưng thuận tiện hơn cả là nên đến ga Gaya, cách Nalanda khoảng 68km, và sau đó thuê hoặc đón xe đi Nalanda. Có những chuyến xe buýt qua lại giữa hai địa điểm này, và ta cũng có thể đi bằng taxi, nếu muốn. Nhưng thông thường đối với những người chiêm bái là Phật tử (đến từ các nước), hành trình chiêm bái Nalanda thường được thực hiện sau khi đã chiêm bái Bodhgaya. Như vậy cách thích hợp nhất là xuất phát bằng xe từ Bodhgaya để đi Nalanda. Về thời điểm chiêm bái, thích hợp nhất là từ đầu tháng 10 đến tháng 3 Tây lịch

Bài viết: Nguyễn Đăng (Ảnh: Tịnh Thủy)

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
09 Tháng Giêng 2018(Xem: 5890)
16 Tháng Mười 2015(Xem: 7785)
Đất nước Indonesia nổi tiếng với ngôi đền thờ Phật giáo độc đáo nhất thế giới, Borobudur (hay còn gọi là Candi Borobudur theo tiếng địa phương), nhưng đất nước này hiện vẫn còn ẩn giấu một ngôi đền thờ Phật tuyệt đẹp khác đang chìm dưới đáy biển. Vẻ nguy nga tráng lệ và trang nghiêm của di tích đền thờ Phật này không hề thua kém gì so với Borobudur, đủ để làm rung động cả thế giới.
10 Tháng Tám 2015(Xem: 6213)
Một bài phóng sự của nữ ký giả Nathalie Lamoureux về Lâm-tì-ni (Lumbini), khu vườn nơi đản sinh của Đức Phật, đã được đăng tải và đưa lên trang mạng của tạp chí hàng tuần Le Point của Pháp số ngày 21 tháng 7 năm 2015.
09 Tháng Mười Một 2014(Xem: 12348)
Một kế hoạch cuối cùng để biến khu vực ở miền nam Nepal thành một trung tâm toàn cầu cho hòa bình và một trung tâm tu học Phật giáo đã được công bố gần đây. Theo đề nghị của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hàn Quốc dự kiến vốn đầu tư gần 800 triệu USD. Phát triển mới nhất từ khi các nhà khảo cổ phát hiện ra di tích của những gì được cho là ngôi chùa Phật giáo đầu tiên nằm trong ngôi đền Maya Devi chính này.
21 Tháng Mười 2014(Xem: 8532)
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại rất hiếm có bậc lãnh đạo tinh thần - qua lời nói, hành động và khả năng thiện xảo - làm tăng động lực và tạo một chuyển hướng mới cho tôn giáo, Đức Phật là một khuôn mặt hiếm hoi trong các bậc này. Đó là điểm mà nhà thần học Thiên Chúa giáo Romano Guardini đã mô tả Ngài với lòng tôn kinh: "Ngài tạo nên điều kỳ bí.
01 Tháng Chín 2013(Xem: 133259)
Ngồi dưới gốc cây Bồ đề mà trước kia là cây Vô ưu, tôi tin mãnh liệt rằng Ngài đã được hạ sinh tại nơi đây như một con người bình thường, không có gì là thần bí như huyền thoại trong một số kinh sách từng mô tả. Điều này cũng có thể hiểu rằng việc sinh ra bình thường nhằm bác bỏ quan điểm truyền thống sai lầm đã ăn sâu trong tín ngưỡng người Ấn Độ bấy giờ là mọi chúng sinh đều do Phạm thiên, thần chủ của Bà La Môn sinh ra.