Lòng Bi

18 Tháng Hai 201300:00(Xem: 13176)

LÒNG BI
Nguyễn Thế Đăng

long-bi-300x286Lòng bi là tình thương đối với nỗi khổ của người khác .

Làm người, ai trong chúng ta mà chưa có một giọt nước mắt Ngay cả những con thú tiến hóa khá cao, chúng đã biết buồn biết chảy nước mắt. Hay nước mắt là dấu hiệu cho thấy có một loại thú nào đã tiến hóa khá cao? Có phải ngày nay, chỉ số xúc cảm EQ là một trong hai tiêu chuẩn cái kia là chỉ số thông minh IQ, để đánh giá con người đã tiến hóa đã phát triển đến mức độ nào ?

Nơi nào có nước mắt, nơi đó có khổ đau, nơi đó có lòng bi.

Số phận của chúng ta là sanh già, bệnh, chết; trải qua cuộc sống mong manh ấy ai mà chưa từng khóc vì mình và vì người khác? Nơi nào có nước mắt nơi đó có khổ đau, và nơi đó có lòng bi.

Con người luôn luôn sống trong một hoàn cảnh hữu hạn, bất toại nguyện: muốn mà không được, thương yêu cũng phải chia lìa, oán ghét mà phải sống chung, thất vọng lo âu, sợ hãi ….Trong cỗi con người này, có đủ cảnh khổ trong tất cả các loài trong vũ trụ.

Trên trái đất này, có một nơi nào, có một ngày nào mà không có chiến tranh, bệnh tật, thiên tai, chết chóc? Trong xã hội từ xưa đến nay, luôn luôn có một số người chưa từng nghèo. Nhưng chưa có một ai trong tâm chưa từng khổ.

Khổ đau nằm nơi trung tâm số phận con người, âm thầm dệt nên những chất liệu cấu tạo thành con người. Thế nên hạnh phúc tương đối, ngắn ngủi mà người bình thường có được, chỉ là sự trá hình của khổ đau. Có những người háo thắng khoe khoang tự mãn, kiêu ngạo thậm chí độc ác… những tính tình “dễ ghét”, nhưng không phải thế đâu. Những tính tính dễ ghét đó chỉ là những phản ứng biểu lộ bên ngoài của những khổ đau bên trong. Người thật sự bình an, hạnh phúc thì không có những biểu lộ khó ưa đó. Cho nên thấy ai đáng ghét thì hãy thương cho họ, họ cần lòng từ bi để thoát khỏi những vết thương ẩn kín trong lòng khiến cho nhân cách của họ trở thành méo mó, tàn tật. Dù họ có đáng ghét tới đâu họ chỉ là người thua cuộc thất bại, là nạn nhân của những bệnh tật trong tâm của mình. Rồi cuối cùng họ chỉ là người thất bại nạn nhân của cái chết.

Xã hội tiêu thụ hiện đại tìm cách che dấu khổ đau, tìm cách quảng cáo cho sự hời hợt của một xã hội tiêu thụ. Những bức hình trong sách báo, toàn là những gương mặt tươi cười, mãn nguyện, đẹp đẽ. Nhưng những bức hình thật thường được giải Pulitzer: chỉ là những khuôn mặt của chiến tranh, chết đói nghèo khổ, thiên nhiên bị tàn phá …

Có một giây phút nào không có ai khổ đau trong thành phố này ? Thề nên có một giây phút nào nên dừng lòng bi ? Và có phải, lòng bi cần được mở rộng và đào sâu cho đến ngày không còn con người trên trái đất này.

Lòng bi còn cần được đào sâu và mở rộng đến những sinh thể thấp kém hơn, chẳng hạn như thù vật. Chúng không có đủ điều kiện để tìm hạnh phúc cho chúng. Chó mèo trong nhà thì cho gì ăn nấy, cho ngủ chỗ nào thì ngủ chỗ đó. Chúng không đủ trí thông minh, ngôn ngữ để hiểu hòng có thể phát triển thoát ra khỏi thân phận thấp hèn của mình. Ở dưới loài thú vật, còn có những cảnh giới khổ đau hơn nữa, nặng nề hơn nữa mà kinh điển đã nói.

Lòng bi thật sự chỉ có khi có trí đi kèm. Đó là khi thấy con người dù có là gì đi nữa thì vẫn luôn luôn mắc lưới trong vòng mười hai duyên sanh: vô minh sinh hành, hành sinh thức… cho đến già, chết. Mỗi người chính là vòng duyên sanh này, đời này sang đời khác. Dù có sống thế nào, có được gì có mất gì; cũng chỉ là dệt thêm tấm lưới duyên sanh của sanh tử mà thôi. Thấy được như vậy, lòng bi tự nhiên được sanh khởi, có được lòng bi với một người thì có được lòng bi với nhiều người. Mà chúng sanh thì vô biên nên lòng bi cũng trở thành vô biên.

Thấy được khổ đau của người khác (Chân Lý về Khổ ) là có lòng bi .

Thấy được nguyên nhân khổ đau của người khác, (Chân Lý về Tập), lòng bi càng hiện diện sâu rộng hơn nữa.

Thấy được trạng thái chấm dứt của khổ đau (Chân Lý về Diệt), lòng bi càng cụ thề và có động lực.

Thấy được và đi trên con đường chữa lành, diệt khổ cho người khác (Chân Lý về Đạo, con đường), lòng bi trở thành hiện thực và hoạt động hơn nữa.

Cũng chính lòng bi làm động lực mở mang trí tuệ để thấu hiểu và sử dụng được 4 chân lý này hầu cứu giúp người khác.

Lòng bi cho số phận con người không phải là ngẫu hứng, chợt dấy lên bất ngờ rồi sau đó biến mất. Đó phải là một thực tại của đời sống mỗi người. Thực tại đó nâng cấp cho cuộc sống mỗi người để được hoàn thiện hơn. Lòng bi ấy phải là một cái tâm trải dài suốt số phận con người, thậm chí trải dài qua những kiếp đời của một con người. Và nếu lòng bi ấy dành tặng cho nhiều con người thì hẵn nó càng rộng sâu hơn nữa. Rộng sâu cho tới mức trở thành lòng bi vô lượng ( Bi vô lượng tâm ), một trong bốn tâm vô lượng

Thấy rõ sự khổ đau, tương tục của chúng sanh, mà chúng sanh thì vô biên, nên chúng ta cần thấy rằng lòng bi không bao giờ là đủ, là thừa. Trái lại , lòng bi luôn luôn thiếu, vĩnh viễn thiếu.

Như thế lòng bi không chỉ là một bổn phận với đồng loại, với đồng nghiệp sanh tử . Lòng bi còn mở cho chúng ta đến sự giải thoát; lòng bi giải thoát khỏi số phận hữu hạn của mình bằng sự bao la vô hạn của nó ( Bi vô lượng tâm ).

Sống được với lòng bi, chúng ta sẽ cởi mở cuộc sống hạn hẹp của mình trở nên rộng lớn hơn, sâu thẳm hơn. Cho đến biết đâu một ngày nào đó nó trải rộng đến vô hạn, sâu thẳm đến vô hạn. Lúc ấy chúng ta biết , thương ai cũng là thương mình.

Sự dại dột nhất hóa ra là làm khổ người khác và không biết thương người ■


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
28 Tháng Mười Một 2018(Xem: 6966)
23 Tháng Ba 2018(Xem: 5974)
18 Tháng Mười Một 2016(Xem: 7163)
24 Tháng Năm 2016(Xem: 7377)
Tôi muốn lý giải về 10 lời nguyện này. Trong kinh hoa nghiêm, Thiện Tài Đồng Tử trên con đừờng tìm Đạo gặp gỡ và tu tập qua 53 vị thày (biểu tượng 53 bước tu tập để thành Phật bằng con đường Bồ tát Đạo) Trãi qua tất cả từ những vị thày từ nhửng kỹ nữ ăn chơi tới những Bồ tát lớn nhât Vị thày đầu tiên là Văn Thù Bồ Tát , tượng trưng cho Căn bản trí- là cái trí căn bản nằm tiển ẩn trong mọi chúng sanh nhưng không hiển lộ vì bị ngăn che bởi nhửng nghiệp lực..Vị thày thứ 53 sau cùng là Phổ Hiền Bồ Tát (tượng trưng cho hậu đắc trí là cái trí hiểu và ứng dụng được căn bản trí để có thể độ được chúng sanh-ý niệm từ Duy thức học). Sự thể hiện của hậu đắc trí có thể cảm nghiệm từ lục độ bước qua thập độ- Lục độ là bố thí, trì giới,nhẫn nhục,tinh tấn,thiền định và trí huệ. Bước qua thập độ thêm phương tiện , nguyện , lực,trí…Ta thấy lục đệ lục độ là trí mà thập đệ thập độ cũng là trí.Nhưng sự khác nhau là giữa căn bản trí và hậu đắc trí.
28 Tháng Tư 2016(Xem: 6873)
Tỳ-kheo có một nghĩa là bố ma, làm cho ma phải khiếp sợ. Ma chướng trong đường tu rất nhiều, bên trong và bên ngoài, thường gọi là nội ma ngoại chướng. Nhưng kỳ thực, có người tu không làm cho ma khiếp sợ mà ngược lại sợ ma, đi theo và làm quyến thuộc của ma. Nghĩa là bên trong không hàng phục được phiền não, bên ngoài không qua được chướng ngại. Thời Phật tại thế, Tỳ-kheo Đề-bà-đạt-đa là một điển hình.
23 Tháng Ba 2016(Xem: 7085)
Không phải ngẫu nhiên mà Đức Phật xem việc gần gũi vua quan là nạn, và mạnh mẽ cảnh tỉnh chúng Tăng: “Gần gũi bậc vua chúa vương gia có mười việc phi pháp”. Phi pháp ở đây là không phù hợp với Chánh pháp, không giúp ích cho việc thành tựu mục tiêu phạm hạnh và giải thoát của hàng xuất gia.
22 Tháng Ba 2016(Xem: 7168)
Người xuất gia mang trên mình pháp tướng đầu tròn, áo vuông, nguyện hủy hình để khác biệt với thế thường, sống đời thoát tục. Chưa nói đến tâm giải thoát hay tuệ giải thoát vốn ẩn tàng, sâu kín bên trong, hãy xem các hình thức bên ngoài như uy nghi và ứng xử trong đời sống hàng ngày thì phần nào cũng biết được công phu của hàng xuất sĩ.
20 Tháng Giêng 2016(Xem: 7806)
Thường thì khi chưa thành tựu về một điều gì chúng ta cảm thấy không vui. Nhưng khi đã toại nguyện, đã có những gì mong ước thì cũng chỉ vui được một thoáng rồi qua nhanh. Thực chất thì chưa được hay đã được đều có nỗi khổ riêng, vì cái tâm mong muốn của con người dường như không có điểm dừng.
13 Tháng Giêng 2016(Xem: 8016)
Ai cũng biết xuất gia tu hành đúng Chánh pháp thì gieo trồng được nhiều công đức, phước báo. Nhưng thực tiễn thì không phải ai cũng được xuất gia, nên Thế Tôn mới trợ duyên cho hàng Phật tử tại gia phát tâm xuất gia gieo duyên, có thời hạn, ít nhất là một ngày đêm tập sự xuất gia như tu Bát quan trai chẳng hạn.