Phát Tâm Bồ Đề

02 Tháng Năm 201400:00(Xem: 12808)

Đức Đạt Lai Lạt Ma
PHÁT TÂM BỒ ĐỀ
(Tu tập trí tuệ siêu việt theo con dường bồ tát của Tịch Thiên - Bài 12)
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Bản Anh: The Dalai Lama. Practicing Wisdom.
The Perfection of Shantideva’s Bodhisattva’s Way.
Translated and edited by Geshe Thupten Jinpa. Wisdom 2005.


hhdl-by-rgmsCác lợi lạc do tôn quý người khác

Ngài Tịch Thiên tuyên bố rằng tất cả hạnh phúc và hoan hỉ đều là các hệ quả của tôn quý an lạc của các hữu tình khác, trong khi tất cả các vấn đề, các bi kịch, và các tai họa đều là các hệ quả của các thái độ tự tôn quý bản thân. Ngài hỏi, chúng ta cần nói gì nói về điều này khi thấy các tính đức của Đức Phật, người tôn quý an lạc của các hữu tình khác, và vận mệnh của chúng ta trong trạng thái hiện nay? Chúng ta dễ dàng thấy điều này bằng cách so sánh những khiếm khuyết của các hữu tình bình thường với các tính đức giác ngộ và trí tuệ của chư Phật. Trên căn bản của so sánh này, chúng ta có khả năng thấy các lợi lạc và các phúc đức của nguyện vọng tôn quý an sinh của các hữu tình khác và những sai lầm và các bất lợi của các thái độ tự tôn quý bản thân và tự kỉ.

Ngài Tịch Thiên hỏi, vì ta và các người khác đều cùng có ham muốn bẩm sinh hạnh phúc và thắng được đau khổ, tại sao chúng ta tìm kiếm lợi ích của chính chúng ta bằng sự hi sinh của các người khác -- ngay cả đến mức độ hoàn toàn không biết đến chúng? Tôi nghĩ ngài nói rất đúng. Giống như bạn, tất cả các hữu tình khác đều như nhau trong ước muốn hạnh phúc và thắng được đau khổ. Mỗi cá nhân chúng ta đều không hài lòng với bất kì mức độ hoan hỉ và hạnh phúc, và điều này đúng cho tất cả các hữu tình. Cũng như tôi, là một cá nhân, có quyền tự nhiên để hoàn thành lòng mong cầu căn bản này, tất cả các hữu tình khác cũng thế. Công nhận tính bình đẳng căn bản này là một điều quan trọng chính yếu.

Vậy sự khác biệt căn bản giữa ta và các người khác là gì? Mỗi cá nhân quan trọng và quý báu như thế nào không thành vấn đề, chúng ta chỉ nói về sự an lạc của một cá nhân. Đau khổ của họ có thể kịch liệt như thế nào không thành vấn đề, ở đây chúng ta vẫn quan tâm tới quyền lợi của một cá nhân đơn biệt. Trái lại, khi chúng ta nói về các hữu tình khác, từ ngữ khác này quy chỉ tới các hữu tình vô biên vô số. Trong trường hợp của khác này, ngay cả khi chúng ta đang giải quyết với các mức độ nhẹ nhàng của đau khổ, khi được tập hợp, chúng ta đang nói về sự đau khổ của một số lượng vô tận của các hữu tình. Thế nên, từ quan điểm về số lượng, sự an lạc của các hữu tình khác trở thành quan trọng hơn an lạc của bạn rất nhiều.

Ngay cả từ quan điểm quyền lợi tự thân của chính chúng ta, nếu các người khác hạnh phúc và hài lòng, kết quả chúng ta có thể hạnh phúc. Trên mặt khác, nếu các người khác ở trong trạng thái đau khổ kéo dài mãi, kết quả chúng ta cũng sẽ chịu đựng đau khổ từ số phận chung. Quyền lợi của các người khác thì được liên kết mật thiết với quyền lợi bản thân của chính chúng ta; điều này là đúng thực. Hơn thế nữa, căn cứ trên trải nghiệm cá nhân của chính chúng ta, chúng ta có thể quan sát rằng chúng ta càng nắm giữ quan niệm mạnh mẽ về ta -- tôn quý quyền lợi bản thân của chúng ta -- nhiều hơn thì các vấn đề tâm lí và cảm xúc của chính chúng ta càng lớn hơn.

Dĩ nhiên sự theo đuổi quyền lợi bản thân của chúng ta rất quan trọng. Tuy nhiên, chúng ta cần một tiếp cận thực tiễn hơn, đó là, không lấy quyền lợi bản thân một các quá nghiêm trọng, nhưng tiêu dùng nhiều thời gian hơn nghĩ về an lạc của các hữu tình khác. Trong tâm cảnh vị tha và trách nhiệm về các cảm thọ và an lạc của các hữu tình khác là, trong thực tế, một tiếp cận lành mạnh hơn trong sự theo đuổi các quyền lợi của chính chúng ta. Nếu chúng ta làm như thế, chúng ta sẽ thấy một thay đổi đáng chú ý. Chúng ta sẽ không còn dễ dàng bị các hoàn cảnh nho nhỏ làm cho nổi giận, nghĩ rằng mỗi mỗi sự vật ở trong rủi ro, và hành động dường như toàn thể hình ảnh, nhân cách, và hiện hữu của chúng ta bị đe dọa. Về một mặt khác, nếu chúng ta liên tục nghĩ về quyền lợi bản thân của chúng ta -- hoàn toàn không biết tới an lạc của các hữu tình khác -- kết quả ngay cả các hoàn cảnh vụn vặt có thể gây ra những cảm thọ sâu sắc về tổn thương và phiền nhiễu. Sự thật về điều này là một điều chúng ta có thể phán đoán từ trải nghiệm của chính chúng ta.

Về lâu dài, lưu xuất một tấm lòng tốt lành sẽ làm lợi ích cả cho chúng ta và các người khác. Trái lại tạo cơ hội phương tiện cho các tâm của chúng ta vẫn còn bị nô lệ bởi ích kỉ bản thân sẽ chỉ làm trường tồn các cảm thọ của chúng ta về bất mãn, thất vọng, và bất hạnh, cả trong phương diện tạm thời và cũng cả trong dài hạn. Chúng ta sẽ phí phạm cơ hội tuyệt vời này chúng ta hiện có -- sinh ra làm người, được trang bị với các khả năng thông minh có thể được sử dụng cho các mục đích tăng thượng. Thế nên thật là một điều quan trọng là có khả năng cân nhắc các hệ quả dài hạn và ngắn hạn. Cách tốt đẹp hơn là hãy làm cho hiện hữu làm người của chúng ta có ý nghĩa hơn bằng cách thiền định trên tâm bồ đề -- nguyện vọng vị tha để đạt giác ngộ vì lợi lạc tất cả các hữu tình.

Phát tâm bồ đề

Về phần tôi, tôi không thể tuyên bố đã thật chứng tâm bồ đề / tâm tỉnh biết (the awakening mind or bodhichitta). Tuy nhiên tôi có một lòng ngưỡng mộ sâu sắc tâm bồ đề. Tôi cảm thấy rằng sự ngưỡng mộ tâm bồ đề mà tôi có là sự giàu có của tôi và là một suối nguồn cho can đảm của tôi. Đây cũng là căn bản của hạnh phúc của tôi; nó có khả năng giúp tôi làm cho các người khác hạnh phúc, và nó là yếu tố làm cho tôi thấy hài lòng và vui vẻ. Tôi dốc lòng tận tụy và cam kết với lí tưởng vị tha. Bất kể đau yếu hoặc khoẻ mạnh, càng già đi, hoặc ngay cả ở vào thời điểm chết, tôi sẽ vẫn tiếp tục cam kết với lí tưởng này. Tôi tin rất chắc chắn rằng tôi sẽ vẫn luôn luôn duy trì lòng ngưỡng mộ sâu sắc của tôi với với lí tưởng phát tâm bồ đề. Về phần bạn, các bạn của tôi, tôi cũng muốn kêu gọi các bạn cố gắng có khả năng an trú với tâm bồ đề. Hãy nỗ lực, nếu bạn có thể, lưu xuất một trạng thái vị tha và đại bi của tâm như thế.

Sự thật chứng hoạt sinh của tâm bồ đề đòi hỏi nhiều năm tu tập thiền định. Trong vài trường hợp, có thể cần đến các đại kiếp để có thật chứng này. Chỉ có một sự thông hiểu trí tuệ phân biệt về tâm bồ đề là gì, thì đó là một điều chưa đủ tốt. Có một cảm thọ trực giác, “Mong ước tất cả các hữu tình đạt trạng thái toàn giác” thì cũng không là đầy đủ. Những điều này không phải là một sự thật chứng tâm bồ đề. Nếu chỉ có như thế mà bạn vẫn xem là đủ tốt và đầy đủ, tôi nghĩ nó có thể không có giá trị nhiều, ở đó có nhiều tu tập thâm mật về Pháp hay không? (Even so, I think it is worth of it, for what more profound practice of Dharma is there? || for what it’s worth: although it may not worth much; although it may not be true).

Như ngài Tịch Thiên khẳng định:

1:9. Khi tâm bồ đề sinh khởi, trong một tức thời một kẻ tả tơi bị trói buộc trong nhà tù của luân hồi thì được gọi là Con của đấng Thiện Thệ và trở thành đáng tôn kính trong các thế giới của các vị trời và các con người.

1:10. Tâm bồ đề làm chuyển biến sắc tướng nhơ nhuốm này thành hình ảnh vô giá của viên ngọc của đấng Tối Thắng. Thế nên hãy giữ vững cam lộ diệu hảo, được gọi tên tâm bồ đề, nó tác dụng làm chuyển biến hoàn toàn.

Khi chúng ta nghĩ một cách hời hợt về tâm bồ đề, nó có thể hình như hoàn toàn đơn giản; ngay cả không thể được thấy tất cả những điều bó buộc của tâm bồ đề. Trái lại, các thiền định mật tông trên các mạn đà la và chư phật Thủ Hộ (deities) hình như huyền bí, và chúng ta có thể tìm thấy chúng thiết tha ấn tượng hơn (appeal). Tuy nhiên, khi chúng ta thực sự tham dự tu tập, tâm bồ đề thì không thể cạn kiệt. Trở thành tỉnh ngộ do biết thực tế (disillusioned) hoặc mất can đảm/ mất hi vọng [thấy xa xôi, khó đạt] (disheartened) là một kết quả của tu tập tâm bồ đề, thì không là một nguy hiểm, nhưng trái lại (whereas) trong các thiền định du già chư phật Thủ Hộ, tụng đọc các mantra, v,v…, có một nguy hiểm của trở thành tỉnh ngộ do biết thực tế, bởi vì chúng ta thường đi vào các tu tập như thế với lòng mong cầu hi vọng quá cao. Sau nhiều năm dài, chúng ta có thể nghĩ, “Mặc dù tôi đã thực hành thiền định du già chư phật Thủ Hộ và tụng đọc tất cả các mantra này, chẳng có một sự thay đổi đáng kể nào; tôi chẳng có bất kì các trải nghiệm huyền bí huyền diệu”. Loại tỉnh ngộ do biết thực tế này thì không có trong trường hợp tu tập tâm bồ đề.

Bởi vì sự thật chứng tâm bồ đề đòi hỏi một thời kì dài tu tập, một khi bạn có trải nghiệm chút ít, điều cần thiết tối quan yếu là bạn tuyên bố công khai sự đào luyện tâm bồ đề xuyên qua các cầu nguyện thệ nguyện (Since the realization of bodhichitta requires a long period of practice, once you have slight experience, it is vital that you affirm your cultivation of bodhichitta through aspirational prayers). Điều này cần được thực hiện với một vị đạo sư (guru) hoặc trong sự hiện diện của một biểu trưng của một vị phật. Một sự tu tập như thế có thể nâng cấp cao hơn khả năng của bạn về phát tâm bồ đề. Bằng cách thọ nhận bồ tát giới nguyện trong một nghi lễ đặc biệt, bạn tuyên bố công khai sự phát tâm bồ đề của bạn trong sự hiện diện của một vị thầy.

Phần thứ nhất của nghi lễ này là phát tâm bồ đề nguyện (generation of aspirational bodhichitta). Cái được thể hiện ở đây là bằng cách phát bản nguyện vị tha này để thành tựu trạng thái phật cho lợi lạc của tất cả các hữu tình, bạn nghiêm trang hứa (pledge) rằng bạn sẽ không từ bỏ nó hoặc để nó thoái hoá, không những chỉ trong đời sống này, nhưng cũng cả trong các đời sống tương lai. Vì là một cam kết, có những giới nhất định để được tuân theo. Phần thứ nhì là nghi lễ thọ lãnh các giới nguyện bồ tát (ceremony for taking bodhisattva vows). Điều này sẽ được thực hiện bởi một người đã được chuẩn bị cho các giới nguyện rồi bằng cách đã tham dự giai đoạn thứ nhất.

Đã tăng trưởng lòng nhiệt thành thực hiện các hạnh bồ tát, vậy thì bạn thọ nhận các giới nguyện bồ tát. Một khi bạn đã nhận giới nguyện bồ tát, bất kể bạn thích hoặc không, bất kể nó là lạc thú hoặc không, cái được đòi hỏi là một cam kết là sẽ giữ các giới nguyện quý báu như là chính đời sống của bạn. Để hình thành thệ nguyện đó, bạn phải có sự xác quyết vững chắc như một ngọn núi; bạn đang làm một thệ nguyện rằng từ giờ trở đi bạn sẽ tuân theo các giới nguyện của bồ tát và hướng dẫn đời sống bạn theo sự đào luyện bồ tát.

Dĩ nhiên một số độc giả không là các Phật tử đang tu tập, và ngay cả giữa các Phật tử đang tu tập, một số có thể không cảm thấy bị cam kết nhận các giới nguyện bồ tát, đặc biệt là phần thứ nhì [nghi lễ hiện hành không gồm trong sách này. Chú thích của bản Anh]. Nếu bạn cảm thấy lưỡng lự về khả năng tuân theo các giới nguyện bồ tát, kết quả tốt nhất bạn không nên làm thệ nguyện; bạn vẫn có thể phát tâm vị tha và mong ước tất cả các hữu tình có thể hạnh phúc và cầu nguyện rằng bạn có khả năng đạt toàn giác cho lợi ích của tất cả các hữu tình. Điều này sẽ là đủ; bạn sẽ đạt được phúc đức về phát tâm bồ đề, nhưng bạn không phải theo các giới nguyện. Và cũng, có it nguy hiểm hơn do vi phạm các giới nguyện. Thế nên, nếu bạn không nhận bất kì giới nguyện nào, bạn chỉ tăng trưởng tâm bồ đề nguyện. Bạn có thể là kẻ phán xét của chính bạn.

Nhiệt thành bởi trí tuệ, đại bi

Ngày nay trước hiện diện của Phật

Tôi phát tâm cầu đạt toàn giác

Cho lợi lạc tất cả hữu tình.

***

“Trong bao lâu hư không vẫn còn, trong bao lâu thế giới vẫn còn, tôi mong ước sống để trục xuất các sự khốn cùng của thế giới” (Tịch Thiên) 

____________________________

Chú thích

1. Bồ Đề Tâm (Phật Quang Đại Từ Điển. Thích Quảng Độ dịch. p.663, lược trích)

Phạm: bodhi-citta. Gọi đủ: A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm. Cũng gọi là Vô thượng chính chân đạo ý, Vô thượng bồ đề tâm, Vô thượng đạo tâm, Vô thượng đạo ý, Vô thượng tâm, Đạo tâm, Đạo ý, Đạo niệm, Giác ý. Tức là tâm cầu Bồ đề vô thượng (cầu thành Phật). Tâm bồ đề là hạt giống sinh ra hết thảy chư Phật, là ruộng tốt nuôi lớn các pháp trong sạch. Nếu phát khởi tâm này mà tu hành tinh tiến, thì sẽ mau chóng được Bồ đề vô thượng. Cho nên biết tâm Bồ đề là chỗ bắt đầu của tất cả thệ nguyện chân chính, là gốc của Bồ đề, là chỗ dựa của đại bi và Bồ tát học. Bồ tát Đại thừa trước hết cần phải phát tâm rộng lớn, gọi là phát tâm Bồ đề, phát tâm, phát ý; mới bắt đầu phát tâm, gọi là sơ phát tâm, tân phát ý. Người cầu sinh về Tịnh độ, cũng phải phát tâm Bồ đề.

Tâm Bồ đề nhờ vào nhiều duyên mà phát khởi.

Mật giáo chủ trương phát tâm là một trong năm lần chuyển biến của chữ A, và dựa vào ba thứ tâm bồ đề: Hạnh nguyện, Thắng nghĩa, Tam ma địa trong luận Bồ đề tâm mà lập bốn loại phát tâm:

1. Tín tâm, chỉ cho tâm đối với việc cầu Vô thượng bồ đề không một mảy may ngờ vực. Vì tâm này là nền tảng của muôn hạnh nên cũng gọi là Bạch tịnh tín tâm (lòng tin trắng sạch).

2. Đại bi tâm, sau khi phát Bạch tịnh tín tâm, lại lập bốn thệ nguyện rộng lớn, tâm này cũng gọi là Hạnh nguyện tâm, Hạnh nguyện bồ đề tâm.

3. Thắng nghĩa tâm, trong các giáo pháp, chọn lựa giáo pháp chân thực. Tâm này cũng gọi là Thâm bát nhã tâm, Thắng nghĩa bồ đề tâm.

4. Đại bồ đề tâm, ngay lúc quyết định bỏ phần kém, chọn phần hơn, thì chư Phật mười phương liền hiện ở trước mặt để chứng minh, các ma thấy thế sợ mà rút lui. Đại bồ đề tâm này cũng gọi Tam ma địa bồ đề tâm.

Tuy chia ra bốn tâm như trên, nhưng vốn là một thể, cho đến lúc thành quả Phật cũng không giây phút nào rời nhau. Được như thế là nhờ tự hành hoá tha, thế gian xuất thế gian tu tam mật của chư tôn mà ra, nên gọi là Hữu tướng bồ đề tâm. Nhưng vì xưa nay vốn có tướng tức không tướng, cũng như hư không lìa tất cả tướng, nên khế hợp với Vô tướng bồ đề tâm.

2. Phát Bồ đề tâm (Kinh Hoa Nghiêm)

Này thiện nam tử! Bậc Bồ-tát phát lòng Vô-thượng Bồ-đề là:

Khởi lòng đại-bi cứu độ tất cả chúng sinh.

Khởi lòng cúng dường chư Phật, cứu cánh thừa sự.

Khởi lòng khắp cầu chính pháp, tất cả không sẻn tiếc.

Khởi lòng thú hướng rộng lớn, cầu Nhất thiết trí.

Khởi lòng đại từ vô lượng, khắp nhiếp tất cả chúng sinh.

Khởi lòng không bỏ rơi các loài hữu tình, mặc áo giáp kiên thệ để cầu bát nhã ba-la-mật.

Khởi lòng không siểm dối, vì cầu được trí như thật.

Khởi lòng thật hành như lời nói, để tu đạo Bồ tát.

Khởi lòng không dối với chư Phật, vì gìn giữ thệ nguyện lớn của tất cả Như Lai.

Khởi lòng nguyện cầu Nhất thiết trí, cùng tận kiếp vị lai giáo hoá chúng sinh không dừng nghỉ.

Bồ tát dùng những công đức Bồ-đề tâm nhiều như số bụi nhỏ cuả cõi Phật như thế, nên được sinh vào nhà Như Lai…

Phổ Hiền Bồ tát bảo:

Thiện nam tử! Bồ tát vì điều phục giáo hoá tất cả chúng sinh nên phát Bồ-đề tâm.

Vì trừ diệt khổ-tụ cho tất cả chúng sinh, nên phát Bồ đề tâm.

Vì đem cho tất cả chúng sinh sự an vui đầy đủ, nên phát Bồ đề tâm. 

Vì dứt trừ sự ngu tối cho tất cả chúng sinh, nên phát Bồ-đề tâm.

Vì đem lại lại Phật trí cho tất cả chúng sinh, nên phát Bồ-đề tâm.

Vì cung kính cúng dường tất cả chư Phật nên phát Bồ-đề tâm.

Vì tùy thuận lời dạy Như Lai khiến chư Phật hoan hỉ, nên phát Bồ-đề tâm.

Vì muốn thấy sắc-thân tướng hảo của tất cả chư Phật, nên phát Bồ-đề tâm.

Vì muốn vào trí-tuệ rộng lớn của tất cả chư Phật, nên phát Bồ-đề tâm.

Vì muốn hiển hiện các đức: lực, vô-úy của chư Phật, nên phát Bồ-đề tâm.

3. Kinh Hoa Nghiêm. Trụ xứ của Bồ tát 

Lúc bấy giờ, Bồ tát Di Lặc thâu nhiếp thần lực, bước vào lầu các, khảy móng tay rồi bảo Thiện Tài đồng tử như vầy: “Này thiện nam tử, hãy đứng dậy! Pháp tánh vốn như thế, do sự tích tụ và tập hợp của các nhân duyên nên hiện ra tướng như thế, tự tánh vốn như thế, không tự thành tựu, như mộng, như huyễn, như ảnh tượng”.

Ngay khi ấy, Thiện Tài vừa nghe tiếng khảy móng tay liền dậy khỏi tam muội. Di Lặc tiếp tục: “Ông có thấy không, những thần thông biến hóa của Bồ tát, những lưu xuất năng lực của Bồ tát, sự quảng bá những nguyện và trí của Bồ tát, niềm hoan hỉ tịnh lạc của Bồ tát, những công hạnh của Bồ tát, vô số trang nghiêm cõi Phật, những thệ nguyện vô thượng của các Như lai, giải thoát bất khả tư nghị của Bồ tát, ông có thấy và theo dõi thông suốt những điều đó chăng?”.

Thiện tài nói: “Bạch thánh giả, dạ có, ấy là do thần lực gia hộ của thiện tri thức. Bạch thánh giả, vậy môn giải thoát này gọi là gì?”.

Di Lặc: “Môn giải thoát này gọi là Trang nghiêm tạng (vyuhagarbha) trong đó, chứa đựng, ghi nhớ, không hề quên trí tuệ về hết thảy ba nghìn thế giới (Nhập tam thế nhất thiết cảnh giới bất vong niệm trí trang nghiêm tạng). Thiện nam tử, trong môn giải thoát này lại có bất khả thuyết môn giải thoát, chỉ có Bồ tát nhất sinh mới có thể chứng đắc”.

Thiện Tài: “Bạch thánh giả, những sự trang nghiêm này rồi đi về đâu?”.

Di lặc: “Đi về chỗ đến”.

Thiện Tài: “Từ đâu đến?”. 

Di Lặc: “Từ thần lực trí tuệ của Bồ tát mà đến; nương thần lực trí tuệ của bồ tát mà trụ. Không có chỗ đi, cũng không có chỗ trụ, không có tích tập, không có tăng gia, không có thường trụ, không có sở trước, không có sở y trên mặt đất hay giữa hư không.

“Này thiện nam tử; như Long vương làm mưa lũ; mưa không từ thân tuôn ra, không từ tâm tuôn ra, không có sự tích tập nào trong nó, nhưng mưa tuôn ra từ niệm lực của Long vương - và mưa tuôn khắp cả thế gian. Nó không thể nghĩ bàn. 

“Này thiện nam tử, những sự trang nghiêm mà ông đã thấy cũng vậy. Không từ bên trong mà có, không từ bên ngoài mà có nhưng nó có trước mắt ông, có từ oai thần của Bồ tát, vì thiện căn mà ông đã thành tựu.

“Này thiện nam tử, như nhà huyễn thuật làm trò huyễn hóa, chúng không từ đâu đến, không đi về đâu, nhưng hiển hiện trước mắt mọi người bởi vì ma lực của chú thuật.

“Cũng vậy, này thiện nam tử, nhưng sự trang nghiêm mà ông đã thấy, chúng không từ đâu đến, không đi về đâu, không tụ tập nơi đâu; chúng hiển hiện là do Bồ tát muốn tập học trí như huyễn bất khả tư nghì, và do đại oai lực của những nguyện và trí của Bồ tát”.

Thiện Tài: “Bạch thánh giả, ngài từ đâu đến”.

Di Lặc: “Bồ tát không đến không đi, như thế mà đến; Bồ tát không bước, không dừng, như thế mà đến; không sống không chết, không ở không qua, không rời không dậy, không cầu không thủ, không nghiệp không báo; không sinh không diệt, không thường không đoạn, như thế mà đến.

“Này nữa, thiện nam tử, Bồ tát đến như vầy: đến từ chỗ đại bi, vì mong điều phục hết thảy chúng sinh khỏi những khổ não; đến từ chỗ tịnh giới, vì muốn thọ sinh vào những nơi tùy thích; đến từ chỗ đại nguyện phải viên mãn, vì năng lực của những thệ nguyện xa kia; đến từ chỗ thần thông? vì muốn hiện thân theo sở thích chúng sinh đến từ chỗ không dao động, vì không hề lãng xa gót Phật; đến từ chỗ không thủ xả vì đi hay đến không nhọc thân và tâm; đến từ chỗ trí tuệ phương tiện vì để tùy thuận hết thảy chúng sinh; đến từ chỗ thị hiện biến hóa, vì tất cả hóa hiện đều như ảnh, như tượng.

“Như thế đó, này thiện nam tử, nhưng ông hỏi ta từ đâu đến. Này thiện nam tử, ta đến từ sinh quán xứ Ma la đề (Maladi). Đến đó để giảng pháp cho thanh niên tên Cù ba la (Gopàlaka) và hết thảy mọi người nơi sinh quán của ta tùy theo căn cơ của họ. Và cũng để đưa cha mẹ, thân quyến, Bà la môn, và mọi người vào con đường của Đại thừa...”
(D.S. Suzuki. Thiền Luận, quyển Hạ . Bản dịch Tuệ Sỹ .Trang 207-210)


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
22 Tháng Bảy 2022(Xem: 3273)
20 Tháng Năm 2022(Xem: 9914)
Phật Giáo Hướng Dẫn Thế Kỷ 21 là một tài liệu gồm 12 tham luận được trình bày tại Hội Nghị Nghiên Cứu Học Thuật Phật Giáo Quốc Tế lần thứ Tám vào các ngày 27 và 28 tháng 10 năm 1995 tại Đài Loan bởi các diễn giả thuộc nhiều thành phần của nhiều quốc gia khác nhau. Nhằm cung cấp thêm tài liệu cho những ai đã và đang thao thức cho một nền Phật Giáo Việt Nam huy hoàng rực rỡ, chúng tôi cố gắng chuyển dịch tập sách này với mỗi một ước vọng duy nhất: Đóng góp phần nhỏ vào công cuộc phục hưng Đạo Pháp, lợi lạc quần sanh.
04 Tháng Hai 2022(Xem: 4196)