THUẬN TÁNH KHỞI TU Nguyễn Thế Đăng 1 Thế nào là Thuận tánh khởi tu?Thuận tánh khởi tu là một thành ngữ được dùng nhiều trong Thiền tông, và nói chung, trong kinh luận Đại thừa. Thuận tánh là y vào tánh, ở nơi tánh, ở trong tánh, làm theo tánh. Tánh là bản tánh, pháp tánh, tánh Không, Như Lai tạng tánh, tánh Giác, Phật tánh… Thuận tánh khởi tu là y theo tánh mà khởi hạnh tu. Ý nghĩa này còn được diễn tả bằng những thành ngữ như Xứng tánh khởi tu, Xứng pháp hạnh (Thiếu Thất lục môn), tùy thuận tánh Giác (Kinh Viên giác), an trụ tánh Giác, xứng tánh làm Phật sự (Kinh Nhật tụng), thuận tánh khởi tu, thuận tánh khởi dụng (Thiền sư Hàm Thị giảng Kinh Lăng-già)… Tánh này phần mở đầu của Kinh Viên giác gọi là “nhân địa bản khởi pháp hạnh thanh tịnh của chư Như Lai… Đó cũng là giác địa thanh tịnh của tất cả chúng sanh: thân tâm tịch diệt, vốn rốt ráo bình đẳng, tròn đầy khắp mười phương, tùy thuận bất nhị”. Nghĩa là nền tảng tu hành lúc bắt đầu của chư Như Lai là tánh Viên giác vốn thanh tịnh, bản tánh bình đẳng, tròn đầy khắp mười phương,“chưa từng có đầu cuối, sanh diệt, trước sau, có không, tụ tán, khởi dừng, chưa từng có sự khởi diệt của sanh tử và Niết-bàn” (chương Kim cương tạng). Đó cũng là nền tảng tánh Giác vốn sẵn đủ và thanh tịnh (giác địa thanh tịnh) của tất cả chúng sanh. Kinh Hoa nghiêm thường dùng chữ “tùy thuận”, “an trụ”: “Khiến tư duy, an trụ tự tánh của các pháp”, “tin được, thọ được, biết rõ được, có thể xu nhập, quán sát, tu tập tùy thuận, rời các phân biệt, rốt ráo bình đẳng” (chương Nhập Pháp giới). Kinh Duy-ma-cật nói: “Thuận là Bồ đề, vì tùy thuận Chân Như vậy”. Kinh Viên giác nói tu Chỉ, Quán và Chỉ Quán song tu đều y vào tánh Giác: “Thiện nam tử! Diệu giác vô thượng, hiện hữu khắp mười phương, xuất sanh chư Như Lai và tất cả các pháp. Trong tánh Giác đồng thể bình đẳng ấy, nơi các pháp môn tu hành thật không có hai, mặc dù phương tiện tùy thuận thì có vô số. Gồm lại thì có ba pháp môn”. Ở đây chỉ trích pháp thứ ba là Chỉ Quán song tu, tức Thiền-na: “Thiện nam tử! Các Bồ-tát ngộ tánh Viên giác thanh tịnh thì y vào tâm giác thanh tịnh này, chẳng nắm giữ sự huyễn hóa (pháp Quán) và các tướng tĩnh (pháp Chỉ). Rõ biết thân tâm đều là ngăn ngại, còn tánh Giác sáng tỏ không phân biệt thì không bị ngăn ngại, vĩnh viễn siêu vượt khỏi mọi cảnh giới chướng ngại và không chướng ngại. Nó vẫn thọ dụng tướng thế giới và thân tâm ở nơi trần thế (mà không bị ngăn che ràng buộc), như tiếng boong của chuông, tuy ở nơi chuông mà vẫn thoát ra ngoài. Bấy giờ, phiền não cùng Niết-bàn đều chẳng lưu ngại nhau, bên trong phát ra tịch diệt khinh an. Đó là cảnh giới tùy thuận Diệu giác tịch diệt: thân tâm, mình người, hoàn toàn chẳng có; chúng sanh, thọ mạng đều là ý tưởng hão huyền. Phương tiện này gọi là Thiền-na”. Lục Tổ Huệ Năng nói tu hành là tu ngay nơi tự tánh “vốn tự thanh tịnh, vốn chẳng sanh diệt, vốn tự đầy đủ, vốn không động lay” mà “người đời ai cũng vốn tự có” này. Tự tánh ấy là “nhân Bồ-đề thành Phật”: Tự tánh Chân như là chân Phật Tu hành là tương đương, tương ưng với tánh. Muốn như thế phải bỏ lỗi lầm phiền não chướng ngại của mình thì cùng Tánh hay Đạo tương ưng: Tà đến phiền não đến Khi đã tương ưng với tánh, thấy được tánh là thế nào, thì an trụ vào trong tánh ấy và tu tập những pháp môn trợ đạo để tánh càng ngày càng hiển lộ, sáng sạch, rõ ràng hiển nhiên. Điều cần thấu hiểu là những pháp môn đều không lìa khỏi tánh. Những pháp môn ấy không phải là những cái giả lập tạm thời và ở ngoài tánh để tu tánh, mà chúng là những phương tiện, những ứng dụng, những biểu lộ thành hình tướng của chính tánh. Nếu pháp môn là những phương tiện và Tánh là cứu cánh thì phương tiện không phải là cái để đạt đến cứu cánh, mà ngay nơi phương tiện là cứu cánh. Phương tiện khai mở đến đâu thì tánh khai mở, hiển lộ đến đó. Như thế phương tiện chính là cứu cánh, pháp môn phương tiện chính là Tánh. Đại Toàn thiện (Dzogchen, Ati Yoga) của Ấn-Tạng quan niệm Phật pháp gồm Nền tảng, Con đường, và Quả. Nền tảng là Tánh. Con đường được thiết lập ở trên tánh hay trong tánh, do đó con đường không phải là cái gì tạm thời giả lập ngoài tánh, mà con đường là sự triển khai của tánh trong cuộc đời của hành giả. Khi tánh triển khai trọn vẹn, con đường triển khai trọn vẹn thì đó là Quả. Quả là Nền tảng triển khai trọn vẹn bằng và qua Con đường. Nói cách khác, Nền tảng là Phật tánh, Con đường là Phật tánh và Quả là Phật tánh. Đó là sự toàn thiện của cả ba không phân chia. “Ba lời tuyên bố nhắm vào những điểm thiết yếu” của Garab Dorje, sơ tổ của Đại Toàn thiện là: 1. Người ta được đưa trực tiếp vào bản tánh của chính mình (tánh Giác) Luận Đại thừa Khởi tín của Bồ-tát Mã Minh cũng chỉ dạy thực hành các pháp môn theo quan điểm “thuận tánh khởi tu” như vậy. Lý do sử dụng các pháp môn phương tiện là như sau: “Chúng sanh cũng vậy, tuy sẵn có thể tánh Chân như rỗng rang thanh tịnh, nhưng còn bị vô lượng phiền não làm nhiễm ô. Nếu hành giả chỉ niệm Chân như mà không dùng đủ thứ phương tiện huân tu thì cũng chẳng được thanh tịnh. Vì phiền não nhiều vô lượng, làm nhiễm ô tất cả pháp, cho nên phải tu tất cả thiện hạnh để đối trị. Nếu người ta tu hành tất cả thiện pháp thì tự nhiên thuận về tánh Chân như của mình”. Tất cả các pháp môn – kể cả niệm Phật – đều y vào tánh Chân như. Các pháp môn phương tiện là sự triển khai của tánh, sự khai mở của tánh nơi thân tâm hành giả. Chúng ta trích “thuận tánh khởi tu”chỉ trong sáu ba-la-mật: “Vì biết pháp tánh vốn không có tham lam bỏn sẻn, nên tùy thuận pháp tánh tu hành Bố thí ba-la-mật. Vì biết pháp tánh vốn không có ô nhiễm, thoát khỏi các lỗi năm dục, nên tùy thuận pháp tánh tu hành Trì giới ba-la-mật. Vì biết pháp tánh vốn không có khổ, lìa hẳn giận dỗi, nên tùy thuận pháp tánh tu hành Nhẫn nhục ba-la-mật. Vì biết pháp tánh vốn không có tướng thân tâm, xa lìa hẳn giải đãi, nên tùy thuận pháp tánh tu hành Tinh tấn ba-la-mật. Vì biết pháp tánh vốn thường định, không có loạn động, nên tùy thuận pháp tánh tu hành Thiền định ba-la-mật. Vì biết pháp tánh vốn sáng tỏ, lìa hẳn vô minh, nên tùy thuận pháp tánh tu hành Trí huệ ba-la-mật”. Chữ ba-la-mật (paramita) có nghĩa là hoàn thiện, rốt ráo, đến bờ bên kia, giải thoát. Bố thí ba-la-mật là bố thí hoàn toàn, rốt ráo, đến bờ bên kia, giải thoát. Đó là sự bố thí mà y vào tánh, tương ưng với tánh, ở trong tánh, bởi vì chỉ có như vậy mới hoàn toàn, rốt ráo, đến bờ bên kia, giải thoát. Vì chỉ ở trong tánh thì mới được tam luân không tịch: không có người cho, không có người được cho, không có vật cho. Năm ba-la-mật kia cũng thế, hành động xứng với tánh, ở trong tánh thì được gọi là ba-la-mật. Bồ-tát đạo là sự tích tập công đức và trí huệ đồng thời. Lấy ví dụ ở Bố thí ba-la-mật thì tùy thuận pháp tánh (tánh Không) là tích tập trí huệ. Tùy thuận tánh Không không có nghĩa là không làm gì cả, mà tùy thuận tánh Không đồng thời vẫn bố thí, trong hành động bố thí. Bố thí là tích tập công đức. Như vậy sự tích tập trí huệ và tích tập công đức xảy ra đồng thời. Đó gọi là phước huệ song tu. Nói rộng ra,“tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh” là công đức của Bồ-tát, công hạnh này không lìa sự tùy thuận tánh Không. Như vậy, thuận tánh khởi tu hay thuận tánh khởi hạnh là đặc điểm của con đường Bồ-tát: thuận tánh hay tùy thuận tánh Không là sự tích tập trí huệ đi liền với khởi tu hay khởi hạnh là sự tích tập công đức. Cả hai sự tích tập này hoàn thành viên mãn là thành Phật. Còn tiếp 1 kỳ – Con đường thuận tánh khởi tu (TC. Văn Hóa Phật Giáo 159) |