Phần 9

25 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 13939)

QUI SƠN CẢNH SÁCH
Thiền Sư Linh Hựu
Hòa Thượng Thích Thanh Từ Việt dịch

Phần 9

Chánh Văn:

“Thân phụ thiện giả, như vụ lộ trung hành, tuy bất thấp y, thời thời hữu nhuận”.

Dịch:

Gần gũi người lành như đi trong sương móc, tuy không thấy ướt áo mà dần dần thấm nhuần.

Giảng:

Như buổi sáng sớm có sương chúng ta đi ngoài trời, tuy không thấy sương rơi ướt áo, nhưng một lát sau cảm thấy hơi sương ướt lành lạnh. Cũng thế, được gần Thầy lành, bạn tốt, không phải chúng ta được lành tốt ngay, nhưng sống gần gũi lâu ngày tự nhiên có sự nhuần thấm. Nói đến đây tôi nhớ lại Thầy tôi là Hòa Thượng Viện Trưởng, Ngài trách tôi: “Thanh Từ thuở xưa không khác nào cục sắt do tôi mài dũa nay được thành cây kim, giờ lại không ưng ý làm việc gì hết”. Thật đúng như thế, nay tôi được hữu dụng cho Phật pháp cũng nhờ công thầy uốn nắn lo lắng hoàn toàn từ vật chất đến tinh thần. Vì thế, đời tu chúng ta nếu gặp Thầy lành bạn tốt là điều may mắn, cần thiết cho sự tiến tu của chúng ta.

Chánh Văn:

“Hiệp tập ác giả, trưởng ác tri kiến, hiểu tịch tạo ác, tức mục giao báo, một hậu trầm luân, nhất thất nhân thân, vạn kiếp bất phục”.

Dịch:

Gần gũi kẻ ác, thêm ác tri kiến, sớm tối tạo ác, trước mắt chịu quả báo, chết rồi phải trầm luân. Một phen mất đi thân người, muôn kiếp khó tìm lại được.

Giảng:

Đây là lời cảnh cáo, nếu không chịu gần Thầy lành bạn tốt cố gắng tiến tu, mà chỉ gần gũi kẻ ác thì hậu quả sẽ thảm hại như thế, sẽ mãi mãi trầm luân chịu mọi thống khổ, một phen mất thân này muôn kiếp khó tìm lại. Tổ thật từ bi chỉ dạy chúng ta từng li từng tí, chỉ cốt mong sao chúng ta thành người hữu dụng.

Chánh Văn:

“Trung ngôn nghịch nhĩ, khởibất minh tâm giả tai? Tiện năng tháo tâm dục đức, hối tích thao danh, uẩn tố tinh thần, huyên hiêu chỉ tuyệt”.

Dịch:

Lời thẳng trái tai, há chẳng ghi lòng đó sao? (Có thể) mới hay rửa lòng nuôi đức, ẩn tích mai danh, chứa nhóm tinh thần, xa lánh ồn náo.

Giảng:

“Trung ngôn nghịch nhĩ, khởi bất minh tâm giả tai?”. Lời nói thẳng thường trái tai, tuy trái tai song phải ghi lòng, có thế mới tiến được. Bây giờ Tổ mới bắt đầu vào việc tu hành.

“Tiện năng tháo tâm dục đức. Hối tích thao danh, uẩn tố tinh thần, huyên hiêu chỉ tuyệt”.Người tu trước phải rửa tâm nuôi đức, kế đến ẩn hành tung chôn vùi tên tuổi để chứa nhóm tinh thần cho trong sạch, muốn thế phải xa lìa chỗ ồn náo. Sở dĩ chúng ta không thể gội rửa tâm hồn, nuôi dưỡng đức hạnh cũng chỉ vì, một phần là hiện tướng sờ sờ, hai là tên tuổi thiên hạ đều biết. Vì hiện tướng sờ sờ nên ai thấy cũng mời, nay đi chỗ này, mai đi chỗ nọ, đi mãi thì làm sao có ngày giờ để gội rửa tâm thần? Vì thế người tu thường ở núi rừng xa vắng, cốt để người không gặp, tên tuổi chẳng ai biết đến, thì mới có cơ hội uẩn tố tinh thần. Ngay như tôi khi xưa suốt mấy năm lăng xăng làm việc này việc nọ, lúc ra đây nếu tôi không tuyên bố nhập thất chắc cũng không làm gì được. Vì ai thấy cũng mời, thì rảnh rang đâu lo việc của mình? Nhờ ẩn đi không ai biết tên thấy mặt, mới từ từ nuôi dưỡng cái cao siêu của mình, mới gội rửa dần những cấu bợn nơi mình, rồi sau mới có thể làm được đôi chút lợi ích thật sự cho người. Cứ mãi hòa trong cái ngàu đục thì biết đến bao giờ mình mới trong? Vì thế, bây giờ tôi chỉ xin hẹn với quí vị là ba năm sau đừng ai biết đến tôi. Vì mấy năm nay những gì tôi dung chứa, gột rửa tôi đã chỉ hết cho quí vị rồi, thì giờ đây tôi phải tiến nữa chứ không thể dừng một chỗ được. Người tu phải khéo sắp đặt cho mình một hoàn cảnh thuận tiện để tiến tu, chứ không thì mãi lẩn quẩn trong vòng ngàu đục của thế gian mà chẳng được ích lợi gì.

Chánh Văn:

“Nhược dục tham thiền học đạo, đốn siêu phương tiện chi môn, tâm khế huyền tân, nghiên cơ tinh yếu, quyết trạch thâm áo, khởi ngộ chân nguyên”.

Dịch:

Nếu muốn tham thiền học đạo, là môn vượt ngoài phương tiện, thì trong phải hợp với mé huyền và nghiên cứu tường tận cái tinh yếu của đạo. Chọn lựa được chỗ thâm sâu rồi mới có thể khai ngộ được nguồn chơn (tức bản tánh).

Giảng:

Người tham thiền học đạo trước phải rõ đây là pháp môn vượt ngoài phương tiện. Tại sao lại thế? Như trong kinh Phật dạy quán sổ tức hoặc quán từ bi hay quán bất tịnh v.v…thì tất cả phương pháp tu ấy đều có danh ngôn hình tướng tức là phương tiện. Sao đây lại nói pháp môn không phương tiện? Tôi xin nói lược rồi sẽ chỉ kỹ ở sau. Tổ Bồ Đề Đạt Ma khi sang Trung Hoa, Ngài thấy chư Tăng thời ấy chuyên về văn tự mà không rõ lý đạo, nên Ngài mới dạy một pháp môn gọi là “Giáo ngoại biệt truyền” là truyền ngoài giáo lý, để dứt khoát không còn kẹt trong văn tự nữa. Rồi: “ Trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật”. Kiến tánh là gì? Có phải kiến tánh là thành Phật, là có thần thông…hay không? Sao có nhiều người nói thấy tánh mà chẳng thấy có thần thông gì hết? Nếu hiểu như vậy là chúng ta đã bị chữ nghĩa làm rối rắm, sự thật không phải như vậy. Đây tôi phân tích để quý vị rõ. Như trong nhà Thiền, khi người học đạo hỏi một câu, được các Thiền sư hoặc đáp, hoặc đánh, hoặc la hét v.v…nhờ đó người hỏi được ngộ. Vậy “ngộ” là ngộ cái gì? Có thành Phật chưa?. Chính “ngộ” là thấy đạo hay “kiến tánh”, tức thấy được chân tánh bất sanh bất diệt của mình. Nhận ra mình có bản tánh bất sanh bất diệt rồi, nhìn lại thấy rõ thân này cho đến vũ trụ đều là pháp sanh diệt, huyễn hóa. Đã là huyễn hóa thì đâu có dại dột gì đắm nhiễm chạy theo.Từ đó tiến tu mãi không lùi thẳng đến quả vị Phật, chứ không phải kiến tánh là thành Phật ngay. Kiến tánh là nhơn, thành Phật là quả, thẳng một đường không trải qua một ngôi vị nào khác, nên gọi giáo lý này là tối thượng thừa. Phật đã nói: “Ta là Phật đã thành, các người là Phật sẽ thành”, đó là sự thật. Chỉ vì chúng ta chưa tin được nên không là “Phật sẽ thành”. Kiến tánh là chủ yếu của người tu. Vì có kiến tánh mới có thể thành Phật được, nên Tổ chỉ thẳng vào tâm mà không dùng phương tiện. Chỉ cái nào sanh diệt thì đừng theo, cái nào không sanh diệt thì hằng sống, đó là không dùng phương tiện. Như trong kinh Pháp Hoa, Phật nói: Chư Phật ra đời cốt chỉ cho chúng ta nhận được “tri kiến Phật” của chính mình. Các Tổ Thiền Tông cũng chỉ cho chúng ta nhận được cái sẵn có đó. Và, chính tôi giảng kinh đây cũng cốt làm sao cho quí vị nương nơi kinh mà thấy được cái sẵn có nơi mình, chừng ấy bản hoài của tôi đã trọn. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Kinh là ngón tay chỉ mặt trăng”. Như quí vị mới tập tu vào chùa, quí Thầy dạy đếm hơi thở, rồi niệm Phật trì chú hay quán bất tịnh v.v…tất cả cái đó đều là phương tiện. Nếu mình bám chặt phương tiện mà mình đang theo, rồi chỉ trích pháp “không phương tiện”, đó là lầm lỗi. Phương tiện ví như cây vịn để vịn tay lần qua cầu, người nào yếu chân sợ té thì phải nương cây để qua, còn người nào mạnh chân thì cứ thẳng mà đi, không cần nương vịn. Qua khỏi cầu là phải buông cây, chứ đâu có nắm hoài. Cũng vậy, niệm Phật đến vô niệm mới là cứu cánh, khi được nhất tâm rồi thì câu niệm Phật không cần thiết nữa. Hay như trong kinh A-Hàm Phật dạy: Người nào quán Tứ niệm xứ hoặc một ngày… cho đến bảy ngày mà không có tạp niệm thì người đó chứng quả. Còn tôi nói nếu quí vị quán Bát Nhã từ một ngày cho đến bảy ngày mà không có niệm khác thì sẽ được Bát Nhã hiện tiền. Những lời nói này đâu có khác. Đến chỗ cứu cánh thì phương tiện không còn. Thế mà, vì không thực hiểu nên chúng ta chấp cho thế này là hay, thế kia là dở. Sở dĩ không dung hội được như thế, là vì chúng ta đứng ở một khía cạnh mà nhận xét. Nếu thật thâm hiểu sẽ thấy ngôi nhà Phật pháp chỉ có một, mà cửa phương tiện bước vào thì có nhiều.

Ở đây Tổ Qui Sơn nói pháp môn vượt ngoài phương tiện, lối tu này hơi khác lạ khiến người càng sợ. Thông thường, sơ cơ thì phải tụng kinh, trì chú hoặc ngồi thiền chăm bẩm kềm tâm, ngó chừng hễ thấy vọng tưởng dấy lên liền buông ngay. Luôn cầm kiếm sẵn trong tay vừa thấy ma liền nhiếp phục nó. Đến khi dẹp hết ma quân rồi thì ngồi chăm bẩm làm chi nữa? Như trâu đã thuần đâu cần cầm roi kéo mũi, khi tâm đã thuần thì chúng ta phải vận dụng qua cái khác. Nếu ngồi yên tâm được yên thì phải tập tu trong động xem nó có thật yên chưa? Chẳng hạn đi nhổ cỏ, cuốc đất v.v…Nếu trong động mà tâm yên thì mới tiến được chớ chẳng phải ngồi mãi một chỗ. Có người lầm tưởng ngồi 2 giờ, 4 giờ, 10 giờ…cho đến ngồi cả ngày quên cơm nước đó là cao, nhưng thực sự không phải vậy. Ở đây tôi chỉ cho ngồi 2 giờ là tối đa, cho đến lúc nào đó quí vị thong thả dạo chơi, xem hoa ngắm kiểng, rồi khuya dậy châm trà uống , khỏi cần ngồi thiền, mà tâm an nhiên không động, đó mới là cao. Thiền đến chỗ cứu cánh là phải như vậy, phải thiền trong tất cả thời, chứ không phải ngồi mới gọi là thiền. Bây giờ bắt quí vị ngồi thiền tạm gọi là dùng phương tiện, đến khi nào vọng tưởng lặng là xong, chỉ cần biết vọng tưởng không theo là đủ. Nếu chúng ta mượn câu trì chú hoặc niệm Phật để tu, đến chừng muốn bỏ, bỏ không nổi thì kẹt. Thành ra tu thiền thấy như khó, vì không có phương tiện, song đến cứu kính thì thật là dễ, vì không có cái gì để bỏ. Chỉ cốt vong tưởng dấy lên đừng chấp nhận, vọng tưởng hết thì tâm nhất như. Nghe như dễ, nhưng lại rất khó. Thật ra chẳng phải dễ hay khó mà chỉ do chúng ta có chí hay không.

Chánh Văn:

“Bác vấn tiên tri, thân cận thiện hữu. Thử tông nan đắc kỳ diệu, thiết tu tử tế dụng tâm, khả trung đốn ngộ chánh nhân, tiện thị xuất trần giai tiệm”.

Dịch:

Rộng hỏi tiên tri, thân gần thiện hữu. Tông này khó đạt được chỗ nhiệm mầu, cần phải dụng tâm chính chắn. Nếu trong ấy đạt được chánh nhân, đó chính là thềm bực giải thoát.

Giảng:

Nếu không khế ngộ được nguồn chơn thì phải tham vấn các bậc tiên tri. Chữ “tiên tri” đây có nghĩa là người đã học đã tu trước mình. Vì tông này rất khó mà đạt được diệu chỉ, nên cần phải dụng tâm cho chính chắn. Nếu ở trong ấy mà ngộ được chánh nhân rồi thì liền vượt khỏi cõi trần không cần theo thứ lớp. Đây là chỗ quan trọng của Thiền tông. Thiền tông là con đường tắt không quanh co, không theo thứ tự, nên khó mà nhận được yếu chỉ. Nhưng nếu khéo dụng tâm và đạt được bản nhân rồi, thì tin chắc ngay trong đời hiện tại không còn bị luân hồi lôi kéo nữa. Song đây không phải là việc dễ, phải khéo cẩn thận. Có nhiều người tu thiền cầu được những điều hay lạ, tâm chạy theo danh sắc nên đã lạc lầm đi trong sanh diệt. Có người muốn tu, đến đây nhờ tôi nói một câu chỉ thẳng yếu chỉ. Tôi biết nói thế nào, chỉ có cách là học ba năm đi rồi sẽ thấy, chớ chỉ liền không thể được. Vì đây là chỗ không hình tướng. Tuy không phải là không, nhưng khó thể chỉ bày. Quí vị chịu khó ngày nay nghe thấm một ít, ngày mai nghe thấm một ít. Cho đến hôm nào đó, chợt lãnh hội được yếu chỉ, thì sự tu hành mới bảo đảm không lầm. Dẫu đây là pháp môn không phương tiện, nhưng trình độ quí vị không thể khai thông liền, nên phải có thời gian, rồi cơ hội tốt đến, quí vị tự lãnh hội. Đó là điều mà chúng tôi mong mỏi.

Sở nguyện như thế mà hoàn cảnh không cho phép thực hiện

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn