Chương Xi: Chư Môn Phân Biệt

20 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 12333)

Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức 
THẾ THÂN BỒ TÁT

CU XÁ LUẬN TỤNG LƯỢC THÍCH I
Nguyên tác Nhật ngữ: Trai Đằng Duy Tín - Bản dịch Hán Văn: Huệ Viên Cư Sĩ 
Bản dịch Việt Văn: Học Tăng Lớp Chuyên Khoa Phật Học Viện Trung Phần 
Biên tập: Thích Phước Viên - Ban Tu Thư Phật Học 2546 - Nhâm Ngọ

Chương XI: Chư môn phân biệt 

Tiết 1: Hữu kiến và vô kiến
hữu đối và vô đối
ba tánh

Danh nghĩa của ba khoa đã được giải thích như trên rồi. Trong đối với các nghĩa môn chưa được trình bày rõ ràng. Cho nên, lại có chương này. Trong ba khoa, vì 18 giới có đầy đủ sự sai khác về căn, cảnh và thức, cho nên chỉ căn cứ vào đó mà giải thích; còn 5 uẩn và 12 xứ, sau đó có thể hiểu.

Trong 18 giới, những giới nào thuộc hữu kiến (sanidarśana), và vô kiến (anidarśana)? Những giới nào thuộc hữu đối (sapratigha), và vô đối (apratigha)? Tánh của chúng như thế nào?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Nhất hữu kiến vị sắc;
Thập hữu sắc hữu đối.
Trừ thử sắc, thanh, bát
Vô ký. Dư tam chủng. (26)

Dịch nghĩa:

Hữu kiến chỉ có 1 là sắc;
Mười hữu sắc là hữu đối.
Trừ sắc và thanh, còn tám giới
Là vô ký. Ngoài ra, thông cả ba tánh. (tụng 26)

Trong bài tụng này, câu đầu nói về hữu đối và vô đối; câu kế về hữu kiến và vô kiến; 2 câu chót, nói về ba tánh.

Trong 18 giới, nếu phân biệt hữu kiến và vô kiến, thì chỉ có sắc giới trong 6 cảnh là hữu kiến (thấy được). Còn 17 giới đều là vô kiến (không thấy được). Vì sao? Bởi vì các hiển sắc và hình sắc như xanh, vàng, đỏ, trắng; dài, ngắn, vuông, tròn, dù bất cứ ở chỗ nào cũng đều thấy được sự hiện diện của nó. 17 giới kia vì không thể hiển bày cho thấy vậy.

Về phân biệt hữu đối và vô đối, 5 căn và 5 cảnh do cực vi tích tập mà có, chúng vừa là cái làm chướng ngại, vừa là cái bị chướng ngại. Còn như 8 giới, tâm, tâm sở, bất tương ưng hành, và vô vi, chẳng phải do sự tích tập của cực vi, cho nên chúng không có nghĩa chướng ngại hữu đối.

Hữu đối được phân biệt thành ba trường hợp: chướng ngại hữu đối (āvaraṇa-pratighāta), cảnh giới hữu đối (viṣayapratighāta) và sở duyên hữu đối (ālambanapratighāta).

Chướng ngại hữu đối, ví như bàn tay chướng ngại hòn đá, hòn đá chướng ngại bàn tay. Chướng ngại đó được nói là hữu đối. Như 5 cảnh, 5 căn đã nêu ra trước đây.

Cảnh giới hữu đối và sở duyên hữu đối, nếu không phải là tự thân của cảnh giới và tự thân của sở duyên, trong trường hợp đó được nói là hữu đối. Vì cảnh giới (5 cảnh, và 1 phần pháp giới) bị chướng ngại và bị giới hạn bởi tác dụng thâu nhận đối tượng, không được tự tại, cho nên nói là cảnh giới hữu đối. Và bởi vì sở duyên (5 căn, 5 cảnh và 1 phần pháp giới) bị chướng ngại và bị giới hạn bởi tác dụng duyên chấp, không được tự tại, cho nên gọi là sở duyên hữu đối.

Tụng nói: 10 hữu sắc là hữu đối, ấy là chỉ căn cứ vào chướng ngại hữu đối mà phân biệt.

Về phân biệt ba tánh (thiện, kuśala; ác, akuśala; và vô ký, avyākṛta), trong 10 giới (5 căn, 5 cảnh; chữ thử trong tụng chỉ cho 10 giới này) trừ sắc và thanh, còn lại tám giới là 5 căn cộng với hương, vị, xúc; tánh của chúng chỉ là vô ký. Ngoài ra, 10 giới còn lại thông cả thiện, ác và vô ký, cho nên tụng nói “dư tam chủng.”

Sắc, thanh này, và hương, vị, xúc kia đều cùng là sắc pháp, thế tại sao ba giới là vô ký, hai giới lại đủ cả ba tánh? Vì sự thành tựu hai biểu nghiệp thiện và ác nơi thân và khẩu đều do sắc thanh này. Thân biểu nghiệp tức là sắc. Ngữ biểu nghiệp tức là thanh. Do đó, sắc và thanh được nói là thông cả ba tánh. Còn hương, vị và xúc chỉ là vô ký.

Tiết 2: Phân biệt các giới hệ

Mười tám giới được phân biệt như thế nào trong ba giới hệ: dục (kāmadhātu), sắc (rūpadhātu) và vô sắc (arūpadhātu)?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Dục giới hệ thập bát;
Sắc giới hệ thập tứ,
Trừ hương, vị, nhị thức;
Vô sắc hệ hậu tam. (27)

Dịch nghĩa:

Dục giới hệ đủ cả 18;
Sắc giới hệ có 14,
Vì trừ hương, vị và 2 thức;
Vô sắc giới hệ chỉ có ba giới chót. (tụng 27) 

Theo văn trường hàng, hệ (āpta) có nghĩa là hệ thuộc, bị lệ thuộc vào. Như tham, sân, si, những phiền não hệ thuộc ở cõi dục thì gọi chúng là dục giới hệ. Sắc và vô sắc giới hệ cũng vậy.

Nay, hệ thuộc phiền não của dục giới gồm có 18 giới. Sắc giới chỉ có 14; trừ 2 cảnh là hương và vị, và trừ 2 thức là tỹ và thiệt. Vì sắc giới không ăn bằng thức ăn phải nhai như ở cõi dục nên về phương diện ăn uống không còn có 2 cảnh sở duyên là hương và vị, và 2 thức năng duyên là mũi và lưỡi. Tuy nhiên, cõi này mặc dù không có 2 thức nhưng không phải là không có 2 căn. Vì vậy, trường hàng viết: “Hai căn mũi và lưỡi ở cõi sắc không phải không có. Do ái trước 6 căn nên nương vào nội thân mà phát sanh chứ không phải nương vào ngoại cảnh để hiện khởi…”

Hệ thuộc ở vô sắc giới, trong 6 căn, 6 cảnh và 6 thức, chỉ có 3 giới sau cùng là ý căn, pháp giới. Vì ở vô sắc giới không chỉ không 5 cảnh sắc, thanh v.v… không có năm căn, mà cả đến 5 thức do căn duyên cảnh cũng không phát sinh.

Tiết 3: Hữu lậu và vô lậu

Trong 18 giới, những giới nào là hữu lậu (sāsrava) và những giới nào là vô lậu (anāsrava)?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Ý, pháp, ý thức thông;
Sở dư duy hữu lậu. (28a)

Dịch nghĩa:

Ý, pháp, và ý thức thông cả hai;
Còn lại thảy là hữu lậu. (½ tụng 28)

Trong 18 giới, ý căn, pháp giới và ý thức giới thông cả hữu lậu và vô lậu. Ngoài ra, 5 căn, 5 cảnh và 5 thức còn lại, chỉ là hữu lậu. Vì ý căn và ý thức không có phiền não tùy thuận tăng trưởng, chúng được xếp vào đạo đế, nên thuộc về vô lậu. Ngoài ý căn và ý thức ra, các căn và thức khác có phiền não tùy thuận tăng trưởng nên thuộc hữu lậu. Pháp giới cũng vậy.

Các pháp không có phiền não tùy thuận tăng trưởng được xếp vào đạo đế, chính là 10 đại địa pháp, 10 đại thiện địa pháp, cùng với tầm, tứ, đắc, bốn tướng hữu vi, vô biểu; tất cả là 18 pháp, và 3 món vô vi, chúng đều là pháp vô lậu.

Các pháp khác có phiền não tùy thuận tăng trưởng chính là 46 tâm sở, 14 pháp bất tương ưng hành, vô biểu sắc, tất cả 61 pháp đều là pháp hữu lậu.

Về 5 căn, 5 cảnh và 5 thức, Tát-bà-đa bộ giải thích rằng, 15 giới này chỉ là hữu lậu, không thông với vô lậu. Dù là 15 giới ở nơi thân của Phật cũng vậy. Vì rằng, nếu thân Phật là vô lậu thì lẽ ra kẻ khác nhìn vào không sanh ra các phiền não như tham, sân, si…, nhưng sự thật thì ngược lại. Vì thế nên biết rằng thân Phật là hữu lậu, cho nên, theo họ, 5 căn, 5 cảnh và 5 thức không phải hoàn toàn là hữu lậu.

Ở đây nói theo chủ trương của Hữu bộ. Vì vậy tụng viết: “Sở dư duy hữu lậu.”

Tiết 4: Tầm và tứ

Trong 18 giới, giới nào có tầm (savitarka) và tứ (savicāra) (tương ưng với tâm sở từ)? Giới nào không tầm chỉ có tứ (chỉ tương ưng với tâm sở tứ)? Giới nào không cả tầm và tứ (không tương ưng với tầm và tứ)?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Ngũ thức hữu tầm tứ;
Hậu tam tam, dư vô. (28b)

Dịch nghĩa: 

Năm thức có tầm và tứ;
Ba giới sau đủ ba; còn lại hoàn toàn không.

(½ tụng 28 cuối)

Tầm (vitarka) là tìm cầu. Tứ (vicārā) là quán sát. Cả hai đều tùy theo tâm vương mà sanh khởi. Hai tâm sở này duyên cảnh có tác dụng thô, tế khác nhau. Tác dụng thô gọi là tầm. Tác dụng tế gọi là tứ.

Nhưng trong 46 tâm sở, tại sao chỉ đem 2 tâm sở này ra phân biệt mà thôi? Bởi vì hành tướng của tầm và tứ tương tợ nhau; vì hành tướng của chúng không nhất định; vì khi có một tâm nào sanh khởi, hoặc cả tầm và tứ cùng sanh khởi theo, hoặc chỉ có tầm hoặc chỉ có tứ sanh khởi theo. Nói thế thì trong các tâm sở kia còn có những cặp tương tợ nhau như kiêu và mạn, tàm và quí, sao không phân biệt? Bởi vì hai tâm sở kiêu và mạn chỉ sanh khởi riêng rẽ chớ không khi nào sanh khởi đồng thời; còn 2 tâm sở tàm và quí thì sanh khởi đồng thời nhưng không bao giờ sanh khởi riêng rẽ. Chúng không có tính chất bất định như tầm và tứ. Tụng nói: “Ngũ thức hữu tầm tứ” là ý rằng lúc năm thức, từ mắt cho đến thân, sanh khởi, tất có 2 tâm sở tầm và tứ tương ưng, cùng khởi. Vì hành tướng của năm thức thì thô mà lại duyên cảnh bên ngoài.

“Hậu tam tam” ý nói 3 giới gồm ý giới, pháp giới và ý thức giới bao gồm cả ba trường hợp: có tầm có tứ, không tầm có từ, không tầm không tứ. Nghĩa là thế nào? Tức là, ý giới, ý thức giới và những pháp tương ưng với pháp giới (trong 46 tâm sở trừ tầm và tứ) ở dục giới và sơ thiền đều cùng khởi với tầm và tứ, cho nên, thuộc loại có tầm có tứ. Lại nữa, ở giới địa của trung gian tĩnh lự (trung gian từ sơ thiền bước sang nhị thiền) thì cảnh giới có phần thù thắng hơn, chỉ có tâm sở vi tế là tứ, không còn tâm sở tầm thô động nữa; do đó, thuộc loại không tầm có tứ. Các cõi từ nhị thiền trở lên, vì cảnh giới thù thắng hơn nhiều, không những không có tâm sở tầm thô mà tâm sở tứ vi tế cũng không, nên các cõi đó thuộc loại không tầm không tứ. Vả lại, những pháp phi tương ưng trong pháp giới (gồm 14 bất tương ưng hành, 3 vô vi và vô biểu sắc) cũng như những tâm sở mới khởi lên ở trung gian tịnh lự đều không tầm không tứ. Vì sao? Bởi vì các pháp phi ương ưng trong pháp giới không phải là pháp tâm và tâm sở, vì không tương ưng cùng khởi với tâm sở tầm và tứ.

Tụng nói “dư vô” là ý rằng, trong 18 giới trừ 5 thức giới, ý giới, và pháp giới và ý thức giới, còn lại 5 căn, 5 cảnh, thuộc sắc pháp, không tương ưng với 2 tâm sở tầm và tứ, cho nên 10 giới này thuộc loại không tầm không tứ.

Tóm lại, trong 8 giới, 5 ý thức thuộc loại có tầm có từ; 3 giới chót (ý, pháp và ý thức) gồm cả ba loại: có tầm có từ, không tầm duy tứ; không tầm không tứ. Còn lại, 5 căn giới, 5 cảnh giới, thuộc loại không tầm không tứ.

Nếu năm thức giới đã thuộc loại có tầm có tứ, tại sao lại gọi chúng là vô phân biệt?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Thuyết ngũ vô phân biệt,
Do kế đạc, tùy niệm;
Dĩ ý địa tán huệ,
Ý chư niệm vi thể. (29)

Dịch nghĩa:

Nói năm thức không có sự phân biệt,
Vì kế đạc và tùy niệm
lấy tán huệ và các niệm
tương ưng với ý thức làm thể. (tụng 29)

Có ba loại phân biệt: tự tánh phân biệt (svabhāva-vikalpa), kế đạc phân biệt (abhinirūpaṇa-vikalpa) và tùy niệm phân biệt (anusmaraṇa-vikalpa). Năm thức trước có tự tánh phân biệt mà không có kế đạc và tùy niệm, cho nên nói rằng chúng không có sự phân biệt. Bởi vì bản chất của tự tánh phân biệt là tầm và tứ. Còn bản chất của kế đạc phân biệt là tán tâm huệ (huệ không định) tương ưng với đệ lục ý thức. Bản chất của tùy niệm phân biệt là các niệm hoặc định hoặc tán tương ưng với đệ lục ý thức. Năm thức trước vì có tự tánh phân biệt nên rõ ràng là chúng có tầm có tứ.

Tiết 5: Hữu sở duyên và vô sở duyên,
chấp thọ và không chấp thọ.

Trong 18 giới, bao nhiêu giới có sở duyên nghĩa (sālambana) là tâm sở năng duyên có cảnh sở duyên - và bao nhiêu giới không có sở duyên? Bao nhiêu giới có chấp thọ (upātta) và bao nhiêu giới không chấp thọ?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Thất tâm pháp giới bán,
Hữu sở duyên; dư vô.
Tiền bát giới cập thanh,
Vô chấp thọ; dư nhị. (30)

Dịch nghĩa:

Bảy tâm và phân nửa pháp giới
Có sở duyên; ngoài ra thì không.
Tám giới trước và thanh
Có chấp thọ; hai giới còn lại không. (tụng 30)

Trong tụng văn, hai câu đầu nói về sở duyên; 2 câu sau nói về chấp thọ.

Bảy tâm , gồm 6 thức và ý căn.

Phân nửa pháp giới; pháp giới có 64 pháp, gồm 46 tâm sở, 14 tâm bất tương ưng hành, 3 vô vi và vô biểu sắc; nay đây chỉ nói 46 tâm sở cho nên gọi là phân nửa pháp giới.

Sáu thức, ý căn và tâm sở mà những tâm, tâm sở năng duyên, chúng hay thủ lấy cảnh sở duyên cho nên gọi là “có sở duyên.”

Dư vô, ngoài ra thì không. Trừ 7 tâm và phân nửa pháp giới, đã nêu trên, còn 28 pháp kia gồm 5 căn, 5 cảnh, 14 bất tương ưng hành, 3 vô vi và vô biểu sắc, chúng không phải là tâm, tâm sở, không thể thủ lấy cảnh sở duyên cho nên “không có sở duyên.”

Lại nữa, 8 giới, tức 7 tâm giới trước và pháp giới đều không chấp thọ. Còn 9 giới, tức 5 căn và sắc, hương, vị, xúc thì thông cả hai, có chấp thọ và không chấp thọ. Sao vậy? Vì 5 căn, nhãn, nhĩ, v.v… ở trong đời hiện tại có thọ nhận cảm giác khổ, vui cho nên nói có chấp thọ. Còn nếu 5 căn có ở trong đời quá khứ hay vị lai thì không có thọ nhận cảm giác khổ, vui cho nên nói không có chấp thọ. Bốn giới sắc, hương, vị và xúc ở trong đời hiện tại không thể tách rời 5 căn, cho nên nói có chấp thọ. Nếu ở trong thân mà không hiệp với căn như những thứ lông, tóc, móng, răng, đại tiện, tiểu tiện v.v... hoặc ở hiện tại nhưng lại là những thứ bên ngoài thân như sắc, thanh, hương, vị xúc của đất, nước, v.v... đều nói là không có chấp thọ. Chấp thọ là chấp lấy tự thân, hay sanh ra cảm giác thọ nhận.

Tiết 6: Đại chủng và sở tạo,
tích tập và phi tích tập.

Trong 18 giới, bao nhiêu giới có tánh năng tạo đại chủng (bhūtasvabhāva), bao nhiêu giới có tánh sở tạo đại chủng (bhautika), bao nhiêu giới có tánh cực vi tích tụ (saṃcita), bao nhiêu giới không tánh cực vi tích tụ (asaṃcita)?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Xúc giới trung hữu nhị;
Dư cửu sắc sở tạo.
Pháp nhất phần diệc nhiên;
Thập sắc khả tích tập. (31)

Dịch nghĩa:

Trong xúc giới có cả hai;
Chín sắc giới kia là sở tạo;
Một phần pháp giới cũng vậy.
Mười sắc giới tích tập. (tụng 31)

Trong tụng văn, 3 câu đầu nói về đại chủng và sở tạo. Câu cuối nói về tích tập.

Xúc giới mà thân căn thâu nhận được có chia làm hai loại:

1. Bốn đại chủng năng tạo, địa, thủy, hỏa, phong; 2. Bốn đại chủng sở tạo, nặng, nhẹ, lạnh, đói, v.v… Vì thế, xúc giới thông cả hai loại đại chủng năng tạo và đại chủng sở tạo.

Trừ xúc giới ra, chín giới kia tức 5 căn và sắc, thanh, hương, vị, đều là sắc pháp cho nên chỉ là sở tạo.

Vô biểu sắc là một phần trong pháp giới cũng có tánh đại chủng sở tạo cho nên nói: “Một phần pháp giới cũng vậy.” Căn cứ theo đây có thể hiểu ngược lại rằng 7 tâm giới và một phần vô biểu sắc - tâm sở, bất tương ưng hành và vô vi pháp vì chẳng phải sắc cho nên chẳng có hai tánh đại chủng sở tạo và đại chủng năng tạo.

Lại nữa, trong 18 giới có thể phân biệt thành hai loại: tích tập và không tích tập. Mười giới tức 5 căn, 5 cảnh, có tánh cực vi tích tập cho nên nói là có tích tập. Còn tám giới kia không có tánh cực vi tích tập cho nên nói là không tích tập.

Tiết 7: Năng chước và sở chước
năng thiêu và sở thiêu
năng xứng và sở xứng.

Trong 18 giới, giới nào hay chặt (chinatti, chintte) và giới nào bị chặt (chidyte)? Giới nào hay đốt (dahati/dahate) và giới nào bị đốt (dahyte)? Giới nào hay cân và giới nào bị cân?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Vị duy ngoại tứ giới,
Năng chước cập sở chước;
Diệc sở thiêu, năng xứng,
Năng thiêu, sở xứng tranh. (32)

Dịch nghĩa:

Chỉ có bốn giới bên ngoài,
Là hay chặt và bị chặt;
Cũng là bị đốt và hay cân.
Về hay đốt và bị cân, chưa dứt khoát. (tụng 32)

Trong 18 giới, chỉ có 4 giới bên ngoài, tức sắc, hương, vị và xúc, là những giới tích tụ làm búa và làm củi, chúng vừa là hay chặt và vừa bị chặt. Về hay đốt và bị đốt, 4 giới trên thuộc bị đốt. Về hay cân và bị cân, 4 giới trên là hay cân. Riêng vấn đề hay đốt và bị cân lại có 2 giải thích:

a). Hay đốt và bị cân thì cũng như trên, nghĩa là chỉ có 4 giới bên ngoài tức sắc, hương, vị và xúc.

b). Trong xúc giới có hỏa đại là có khả năng đốt. Còn các sắc sở tạo vì có tánh nặng nên thuộc bị cân.

Vì vấn đề sai khác như vậy, nên tụng nói là “tránh”, được tranh luận.

Tiết 8: Năm loại môn

Trong 18 giới, giới nào thuộc dị thục sanh (vipākaja) ; do nghiệp nhơn thiện ác đời quá khứ sanh ra dị thục nhơn mà chiêu cảm lấy quả báo)? Giới nào thuộc sở trưởng dưỡng (aupcayika); thể của nó do cực vi tạo thành, nhờ ăn uống, thuốc men mà trưởng dưỡng)? Giới nào thuộc đẳng lưu tánh (naiṣyandika); chẳng phải nhiếp thuộc vào dị thục hay trưởng dưỡng, do đồng loại hay biến hành mà sanh ra)? Giới nào thuộc có thật sự (dravyavant); thật sự có 2: một, có thật thể nên gọi là có thật; hai, thể đó là pháp vô vi chắc thật, không sanh diệt, nên gọi là có thật. Ở đây, chọn thuyết thứ hai)? Giới nào thuộc nhất sát na (kṣaṇikāḥ); sát na có hai: một, sát na diệt nên gọi là sát na; hai, chẳng phải do nhơn đồng loại, biến hành mà sanh, ngay khi vào kiến đạo liền được vô lậu nên gọi là sát na. Ở đây, chọn thuyết thứ hai) ?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Nội ngũ hữu thục, dưỡng.
Thanh vô dị thục sanh.
Bát vô ngại đẳng lưu,
Diệc dị thục sanh tánh. (33)
Dư tam; thật duy pháp.
Sát na duy hậu tam. (34a)

Dịch nghĩa:

Năm căn thuộc dị thục và trưởng dưỡng.
Thanh không thuộc dị thục sanh.
Tám vô ngại có tánh chất đẳng lưu,
Và cũng có tánh chất dị thục danh. (tụng 33)
Còn lại, có cả ba. Thật hữu chỉ có pháp.
Sát na chỉ có ba giới sau. (½ tụng 34a) 

Trong tụng văn, câu “nội ngũ hữu thục dưỡng” có nghĩa là năm căn bên trong, nhãn, nhĩ,… chỉ thuộc hai loại dị thục sanh và sở trưởng duỡng mà không thuộc vào ba loại kia. Vì sao như vậy? Kinh Tăng nhất A hàm quyển 14 nói: Năm căn là quả báo được chiêu cảm từ cái nhơn tạo nghiệp đời trước, nó được sanh ra bởi nhơn dị thục nên tức là dị thục sanh.

Lại nữa, năm căn nhờ vào các duyên trong hiện tại như ăn, uống, thuốc men v.v… mà được trưởng dưỡng, như nhỏ được nuôi lớn, gầy được nuôi mập, cho nên gọi là sở trưởng dưỡng.

Còn đẳng lưu tánh thì không thể tách rời dị thục và trưởng dưỡng mà có nên ở đây không đề cập đến.

Thanh vô dị thục sanh, thanh là do đồng loại nhơn sanh ra, và được nuôi lớn nhờ ăn uống, thuốc men v.v.. cho nên nó thuộc hai loại, đẳng lưu tánh và sở trưởng dưỡng mà không có dị thục sanh, vì dị thục sanh là hoàn toàn do nghiệp cảm đời quá khứ chứ không phải đợi đến các duyên hiện tại mới sanh khởi. Nay đây, thanh được phát khởi, chắc chắn phải nhờ có sự ưa muốn trong đời hiện tại cho nên không gọi là dị thục sanh.

Bát vô ngại đẳng lưu, diệc dị thục sanh tánh: 8 vô ngại tức là 7 tâm giới và một phần pháp giới. Chúng chẳng phải là sắc pháp do cực vi tích tập nên không có tánh sở trưởng dưỡng. Do đồng loại nhơn hoặc dị thục nhơn hữu lậu thiện ác sanh ra cho nên nó thuộc hai loại, đẳng lưu tánh và dị thục sanh.

Dư tam: trừ 5 căn với thanh và 8 vô ngại đã nêu trên, còn lại 4 giới kia, sắc, hương, vị và xúc thì thông cả ba: dị thục, trưởng dưỡng và đẳng lưu. Vì sao chúng thông cả ba loại này? Sắc, hương, vị và xúc trong thân chúng ta do cảm nghiệp thiện ác trong đời quá khứ mà được quả dị thục sanh. Rồi thân này nhờ sự tư dưỡng ăn uống, thuốc men mà trưởng thành. Hơn nữa, sắc, hương, vị và xúc này không luận là ở nội giới hay ngoại giới, trước sau đồng đều, đồng đẳng, đồng loại và tương tợ cho nên thuộc về đẳng lưu tánh.

Thật duy pháp: Thật là pháp vô vi, thể tánh chắc thật, không sanh diệt. Pháp vô vi này chỉ được liệt vào pháp giới cho nên nói là “duy pháp.”

Sát na duy hậu tam: Sát na chỉ cho cái khoảng thời gian vừa nhập kiến đạo được trí vô lậu, không phải do đẳng lưu tánh được sinh ra bởi đồng loại nhơn hay biến hành nhơn. Trước kiến đạo thì chỉ có trí hữu lậu, đến khi vào kiến đạo rồi thì bỗng nhiên phát sanh chơn trí vô lậu mà trước kia chưa từng có, cho nên gọi là “một sát na.” Trí vô lậu trong sát na này, đối với 18 giới, nó chỉ có ở 3 giới sau, ý giới, pháp giới và ý thức giới; bởi lẽ tâm tương ưng với trí vô lậu là ý giới và ý thức giới, còn các pháp tâm sở, đắc, bốn tướng hữu vi, đạo cộng giới vô biểu cùng khởi với nó đều là pháp giới.

Tóm lại, trong 18 giới, 5 căn chỉ thuộc hai loại: dị thục sanh và sở trưởng dưỡng mà không thuộc 3 loại đẳng lưu, hữu thật và nhất sát na. Thanh thì có hai là đẳng lưu và sở trưởng dưỡng mà không có dị thục, hữu thật và nhất sát na. 4 giới sắc, hương, vị, xúc chỉ có 3: dị thục sanh, sở trưởng dưỡng và đẳng lưu tánh mà không có hữu thật và nhất sát na. 7 tâm giới chỉ có 3: dị thục sanh, đẳng lưu tánh và nhất sát na, mà không có sở trưởng dưỡng và hữu thật sự. Còn pháp giới thì có 4: dị thục sanh, đẳng lưu tánh, hữu thật sự và nhất sát na mà không có sở trưởng dưỡng.

Tiết 9: Đắc và thành tựu
xả và bất thành tựu

Đắc , là dấu hiệu phát sanh của các pháp đang từ vị lai hướng đến hiện tại, và thành tựu là chính thức bước vào hiện tại. Với 18 giới, như nhãn căn đối với nhãn thức và nhãn thức đối với nhãn căn chẳng hạn, sự phân biệt đắc và thành tựu ra sao?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Nhãn dữ nhãn thức giới,
Độc, cu đắc, phi, đẳng. (34)

Dịch nghĩa:

Nhãn căn và nhãn thức,
Độc nhất, cả hai và hoàn toàn phi đắc. (½ tụng 34 cuối)

Căn cứ vào sự đối nhau giữa nhãn căn và nhãn thức, có bốn trường hợp khác nhau (tứ cú ) gồm hai đơn, một song và một phi. Trường hợp đơn thứ nhất là đắc nhãn căn mà không đắc nhãn thức; trường hợp đơn thứ hai, đắc nhãn thức, không đắc nhãn căn; trường hợp thứ ba, song đắc, đắc cả hai nhãn căn và nhãn thức; trường hợp bốn, song phi, không đắc cả nhãn căn và nhãn thức.

Tụng nói “độc” tức độc nhất, chỉ cho hai trường hợp đơn. Nói “Cu đắc” chỉ cho trường hợp ba, song đắc.

Nói “phi” tức song phi, chỉ cho trường hợp bốn.

1. Đắc nhãn căn không đắc nhãn thức: Trường hợp đắc nhãn căn của con người khi mới vào thai mẹ. Vì nhãn thức có cả ba tính là thiện, ác và vô ký; và cũng có ba thức đắc, pháp tiền đắc, pháp hậu đắc và pháp cu đắc; nhưng nhãn căn thì chỉ có tánh vô ký. Và chỉ có pháp cu mà thôi. (Pháp cu đắc tức nếu pháp hiện tại và đắc cũng hiện; các thời khác cũng vậy). Do đó, sự đắc nhãn căn của con người khi mới nhập thai thì nhãn thức đã có sẵn trước rồi, lúc còn trong giai đoạn trung ấm, chứ không phải lúc này mới đắc.

2. Đắc nhãn thức không đắc nhãn căn: Những trường hợp sinh lên cõi nhị thiền, tam thiền và tứ thiền thì nhãn thức nhờ mượn của cõi sơ thiền trở lên thì nhãn căn vốn đã thành tựu rồi chứ không phải đến lúc đó mới đắc. Nhưng từ cõi nhị thiền trở lên thì năm thức trước không có nữa, muốn nhìn thấy sắc cảnh mà không mượn nhãn thức của cõi sơ thiền thì không thể nào được; lúc mượn để sanh khởi thì trước kia không có mà bây giờ có nên gọi là đắc.

3. Đắc cả nhãn thức và nhãn căn: Trong trường hợp từ cõi vô sắc giới sanh trở lại xuống sơ thiền (ở sắc giới) và dục giới. Vì hữu tình ở vô sắc giới không có căn lẫn thức, còn ở dục giới và sơ thiền thì có cả hai loại căn và thức nên khi từ vô sắc giới sinh trở lại hai cõi ấy thì căn và thức đều cùng đắc.

4. Không đắc cả nhãn thức và nhãn căn: Ngay lúc đang nhìn vào sắc cảnh trong hiện tại, và từ dục giới chết sinh lên vô sắc giới. Vì ngay lúc đang nhìn vào đắc cảnh thì căn và thức vốn đã có nên không phải là đắc. Còn ở vô sắc giới thì cả căn và thức đều không có nên nếu sanh vào đó thì cả căn lẫn thức đều không phải là đắc.

Chữ đẳng trong tụng văn, theo giải thích của trường hàng, là chỉ cho cả 4 trường hợp về thành tựu và lấy sự tương đối giữa nhãn căn và sắc cảnh hay nhãn thức và sắc cảnh mà phân biệt đắc và thành tựu.

Luận Tì-bà-sa quyển 73 nói: “trong 18 giới, căn, cảnh và thức tương đối lẫn nhau để phân biệt đắc và thành tựu, xả và bất thành tựu. Lấy ý nghĩa chưa được trình bày ghép luôn vào đây nên nói đẳng, v.v…”

Bốn trường hợp thành tựu là:

1. Thành tựu nhãn căn, không phải thành tựu nhãn thức.
2. Thành tựu nhãn thức, không phải thành tựu nhãn căn.
3. Thành tựu cả nhãn căn và nhãn thức.
4. Không phải thành tựu cả nhãn căn và nhãn thức.

Trường hợp 1. Thành tựu nhãn căn, không phải thành tựu nhãn thức, là trường hợp khi sanh lên cõi nhị thiền, tam thiền, tứ thiền; nhãn thức không còn phát hiện nữa. Bởi vì, các cõi đó có nhãn căn mà không có nhãn thức, cho nên, khi đã sanh lên các cõi đó, thì nhãn căn được thành tựu. Song, nhãn thức nếu không mượn để khởi thì tự thân không có, cho nên gọi là không phải thành tựu.

Trường hợp 2. Thành tựu nhãn thức, không phải thành tựu nhãn căn, có nghĩa là chúng sanh khi sanh vào cõi dục mà chưa có nhãn căn, hay có rồi mà bị hư. Bởi vì, sanh vào cõi dục, lấy tự tánh của giới địa mà thành tựu được thức tâm. Song khi vừa mới thọ thai và người sau khi sanh rồi bị mù, trong trường hợp này mắt (căn) của họ chẳng phải là sự thành tựu.

Trường hợp 3. Thành tựu cả nhãn căn lẫn nhãn thức, nghĩa là, như sanh vào cõi dục, ngay lúc đang thấy mọi vật, bấy giờ nhãn căn và nhãn thức đều là thành tựu.

Trường hợp 4. Không phải thành tựu cả hai. Nghĩa là, như sanh về cõi vô sắc, vì cõi vô sắc không có 5 căn, 5 cảnh và 5 thức, cho nên không có cái lý thành tựu nhãn căn và nhãn thức.

Trên đây là nói về sự thành tựu của đắc. Còn trường hợp lấy nhãn căn đối với sắc cảnh, hoặc lấy nhãn thức đối với sắc cảnh để phân biệt đắc và thành tựu v.v… muốn rõ, có thể tham cứu trong luận Tì-bà-sa quyển 73.

Tiết 10: Nội và ngoại

Trong 18 giới, có bao nhiêu giới thuộc nội (ādhyātmika)? Và bao nhiêu giới thuộc ngoại?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Nội thập nhị nhãn đẳng,
Sắc đẳng lục vi ngoại. (35a)

Dịch nghĩa: 

Nội gồm 12, nhãn v.v…
Ngoại gồm 6, sắc v.v… (½ tụng 35)

Căn cứ vào luận Tì -bà-sa quyển 138, sự sai biệt giữa nội và ngoại có ba loại:

1. Nội ngoại của tướng tinh: ở tự thân là nội, không phải ở tự thân và không phải là hữu tình số là ngoại.

2. Nội ngoại của xứ: sở y của tâm và tâm sở là nội, sở duyên của chúng là ngoại.

3. Nội ngoại của tình và phi tình: pháp của loài hữu tình là nội. Pháp của phi hữu tình là ngoại.

Tụng văn này dựa vào nội và ngoại của xứ để trả lời. Tức là: 6 căn (nhãn căn…), 6 thức (nhãn thức…) là nội. 6 giới (sắc…) là ngoại.

Tiết 11: Đồng phần và bỉ đồng phần

Trong 18 giới cái nào thuộc đồng phần (sabhāga), cái nào thuộc bỉ đồng phần (tat-sabhāga)?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Pháp đồng phần; dư nhị;
Tác bất tác tự nghiệp. (35b)

Dịch nghĩa:

Pháp là đồng phần; còn lại, thông cả hai.
Tác tự nghiệp, hoặc không tác tự nghiệp. (½ tụng 35)
Thế nào là đồng phần và bỉ đồng phần?

Căn, cảnh và thức, mỗi cái làm phận sự riêng của nó (tác tự nghiệp) nên gọi là đồng phần; trái lại, không làm phận sự riêng của nó (bất tác tự nghiệp) nên gọi là bỉ đồng phần. Ví dụ như nhãn căn thủ sắc cảnh, nhãn thức duyên sắc cảnh, hoặc là sắc cảnh bị nhãn căn thủ, nhãn thức duyên, như thế mỗi cái tự làm phận sự riêng của mình. 5 căn, 5 cảnh, 5 thức kia cũng thế. Căn, cảnh, thức đối với nhau mỗi cái làm phận sự của chính mình nên gọi là đồng phần. Trái lại, căn, cảnh, thức mỗi cái không làm phận sự của chính mình gọi là bỉ đồng phần. Bởi vì, phận là tác dụng của chính nó. Căn, cảnh, thức đều có phận sự tác dụng riêng của chúng nên gọi là đồng phần. Nếu cái không phải là đồng phần này đối với đồng phần kia mà chủng loại tương đồng thì gọi là bỉ đồng phần.

Nay căn cứ vào 18 giới để phân biệt, thì thấy rằng, pháp giới chỉ có đồng phần, 17 giới còn lại bao gồm cả đồng phần lẫn bỉ đồng phần.

Pháp giới là cảnh mà đệ lục ý thức duyên, đệ lục ý thức phân biệt tất cả các pháp hữu vi, vô vi, suốt cả ba đời. Pháp giới đó là sở duyên cho ý thức, cố nhiên là làm phận sự của chính nó. Bởi lẽ, như dùng trí vô ngã quán sát các pháp hiện tại, quá khứ, vị lai thấy rằng chúng đều là vô ngã, như vậy là đối với cảnh sở duyên mà làm phận sự của chính nó, cho nên chỉ có đồng phần. 17 giới còn lại, thì hoặc làm phận sự của chính nó, hoặc không làm phận sự của chính nó; chẳng hạn như nhãn căn thấy sắc pháp, thì tự làm phận sự của chính nó; cho nên có đồng phần; nếu không thấy sắc pháp, tức không làm phận sự của chính nó, cho nên có bỉ đồng phần.

Căn cứ vào đây, có thể biết 16 giới kia cũng như thế.

Pháp giới mà ý thức duyên là đồng phần, thế thì 17 giới kia cũng là cảnh mà ý thức duyên, tại sao không phải chỉ duy nhất là đồng phần (nghĩa là không có bỉ đồng phần)?

18 giới được phân biệt gọi là đồng phần và bỉ đồng phần, chỉ căn cứ vào 6 căn duyên 6 cảnh riêng biệt mà gọi là đồng phần - căn nào duyên cảnh của căn ấy nên gọi là đồng phần - chứ không căn cứ vào cảnh mà gọi là đồng phần. Cho nên, 17 giới còn lại tuy là cảnh mà ý thức duyên, vì chúng là cảnh nên không phải chỉ duy là đồng phần.

Năm cảnh nếu không phải là cảnh của 5 thức duyên thì không làm phận sự của chính nó, nhưng vì chúng lại là cảnh mà ý thức duyên, thì đáng lẽ thuộc đồng phần mà không thuộc bỉ đồng phần. Khi nói đồng phần của cảnh chính là nói 6 cảnh đối với thức của mỗi cảnh quyết định phải là sở duyên của thức ấy; chẳng hạn như sắc cảnh thì quyết định phải là sở duyên của nhãn thức, cho đến pháp cảnh quyết định phải là sở duyên của ý thức. Vì thế, 5 cảnh này quyết định phải là sở duyên của 5 thức trước, và quyết định không phải là sở duyên của ý thức cho nên không thể vì cớ chúng làm cảnh cho ý thức duyên, mà cho là chỉ thuộc đồng phần mà thôi.

Luận Tì-bà-sa quyển 71 ghi rằng: “Hỏi: 17 giới còn lại cũng là cảnh mà ý thức phân biệt, đáng lẽ đều là đồng phần mà không có bỉ đồng phần, tại sao lại nói có bỉ đồng phần? Đáp: 17 giới còn lại không căn cứ vào ý thức để thành lập đồng phần và bỉ đồng phần, mà chỉ căn cứ vào mỗi căn đối với mỗi cảnh riêng biệt, như nhãn căn đối với sắc cảnh, sắc cảnh đối với nhãn căn, cho đến thân căn đối với xúc cảnh. Hỏi: Nếu vậy, ý giới và ý thức giới đáng lẽ chỉ đối với pháp giới mà thành lập đồng phần và bỉ đồng phần, còn duyên với 17 giới kia đáng lẽ không phải là đồng phần? Đáp: lẽ ra phải như vậy, nhưng vì ý giới và ý thức giới có thể phân biệt tất cả các pháp, căn cứ vào tác dụng của riêng nó mà thành lập đồng phần, như các nhãn căn có tác dụng thấy sắc chắc chắn không lập bỉ đồng phần…”

Tiết 12: Ba sự đoạn

Trong 18 giới, giới nào bị đoạn trừ ở kiến đạo? giới nào bị đoạn trừ ở tu đạo? và giới nào ở kiến đạo và tu đạo đều không bị đoạn trừ?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Thập ngũ duy tu đoạn;
Hậu tam giới thông tam.
Bất nhiễm, phi lục sanh,
Sắc định phi kiến đoạn. (36)

Dịch nghĩa:

15 giới trước chỉ có tu đoạn;
ba giới sau thông cả ba.
Vì không nhiễm ô, vì không do ý căn sanh
Và vì là sắc pháp, nên nhất định không phải là kiến đoạn. 

(tụng 36)

Hai câu đầu giải đáp vấn đề. Hai câu sau bác lập trường của bộ phái khác.

Thế nào là kiến đoạn (darśanaheya), tu đoạn (bhāvanaheya) và phi sở đoạn (aheya)?

Khi chúng ta phát chơn trí vô lậu đoạn trừ tất cả các phiền não thuộc mê lý (mê lầm về lý nhân quả của mê ngộ) từ vô thỉ đến nay và thấy rõ lý Tứ đế; bấy giờ gọi là kiến đạo. Từ đó luôn luôn tu tập các căn lành để đoạn trừ các phiền não thuộc về mê sự (mê lầm về lý của sự vật). Đó là tu đạo. Những gì bị đoạn trừ ở điạ vị kiến đạo thì gọi là pháp thuộc kiến đạo sở đoạn. Bị đoạn trừ ở địa vị tu đạo, được gọi là tu đạo sở đoạn. Còn những pháp nào không bị đoạn trừ ở kiến đạo và tu đạo tức các pháp vô lậu, thì nói là pháp thuộc phi sở đoạn.

Thập ngũ duy tu đoạn: 15 giới (5 căn, 5 cảnh và 5 thức) chỉ thuộc tu đạo sở đoạn, không thông với hai sở đoạn kia. Bởi vì bản chất của chúng là hữu lậu chứ không phải vô lậu, nên không thuộc phi sở đoạn. Lại nữa, chúng không có sự mê lầm đối với lý nhơn quả mê ngộ và cũng chẳng phải do kiến hoặc trực tiếp sanh khởi nên không thuộc kiến sở đoạn. Chỉ ở địa vị tu đạo nhờ luôn luôn tu tập các căn lành, giới nào có thể đoạn trừ bằng tự tánh thì dùng thanh gươm trí tuệ vô lậu để đoạn trừ (tự tánh đoạn), giới nào không thể đoạn trừ được bằng tự tánh như các pháp thiện, vô ký, thời khiến cho nó xa rời sự trói buộc của các phiền não năng duyên mà được giải thoát (sở duyên đoạn) cho nên 15 giới chỉ ở địa vị tu đạo mới đoạn trừ được.

Hậu tam giới thông tam: 3 giới sau, ý, pháp và ý thức, mỗi giới đều bao gồm cả ba trường hợp, kiến, tu và phi sở đoạn. Tại sao vậy? Đương khi phiền não mê lý sanh khởi thì đồng thời các giới này cũng cùng sanh khởi, tất nhiên có tâm vương và tâm sở, đắc, bốn tướng, v.v… Tâm vương là ý giới và ý thức giới. Phiền não là tâm sở. Đắc, bốn tướng đều thuộc về pháp giới. Ở địa vị kiến đạo khi khởi được cái chơn trí vô lậu thì ba giới này cùng với kiến hoặc đồng thời đều bị đoạn trừ. Nếu ngoại trừ tâm vương, tâm sở, đắc, bốn tướng cùng với kiến hoặc sanh khởi; còn lại ý, pháp, ý thức tánh chất của chúng thông với hữu lậu nên ở trong trường hợp tu sở đoạn (gồm tự tánh đoạn và sở duyên đoạn); chúng lại còn thông với vô lậu cho nên thuộc phi sở đoạn.

Bất nhiễm, phi lục sanh, sắc… bác giáo nghĩa của Kinh bộ. Kinh bộ cho rằng dị sanh tánh và thân, ngữ nghiệp dẫn đến cõi ác đều bị đoạn trừ ở địa vị kiến đạo. Dị sanh tánh là tên khác của phàm phu. Phàm phu luân chuyển trong sanh tử thọ sanh trong các loài khác nhau. Chúng ta ở trong địa vị phàm phu thường cùng với dị sanh tánh không thể rời nhau. Nếu khởi được cái chơn trí kiến đạo vô lậu thì ngay thân ta là Thánh giả, tất xa rời cái dị sanh tánh, bởi vì không khởi các nghiệp thân và ngữ để chiêu cảm quả báo đi đến các cõi ác. Trái lại, Tát-bà-đa Hữu bộ thì cho rằng tổng quát có ba tính chất không bị đoạn trừ ở địa vị kiến đạo:

a. Bất nhiễm, tức là thiện hữu lậu và vô phú vô ký không có tính chất ô nhiễm.

b. Phi lục sanh , chẳng phải do căn thứ sáu sanh tức năm thức trước do 5 căn sanh khởi chứ chẳng phải do đệ ý căn sanh ra.

c. Sắc, thuộc về sắc pháp, tức tất cả các sắc pháp.

Pháp nào có ba tính chất trên đây thì nhất định không phải là pháp bị đoạn trừ ở địa vị kiến đạo. Dị sanh tánh mà Kinh bộ nói đến, bởi bản chất của nó là vô phú vô ký, tức không nhiễm ô. Thân và ngữ nghiệp đưa đến ác thú tức động tác của thân thể và sự phát động của ngôn ngữ, chúng thuộc về sắc pháp, cho nên chẳng phải là pháp bị đoạn trừ ở địa vị kiến đạo.

Tiết 13: Kiến và phi kiến

Đoạn 1: Vấn đề chính
Trong 18 giới, giới nào thuộc về kiến (dṛṣṭi), giới nào thuộc phi kiến?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Nhãn pháp giới nhất phần,
Bát chủng thuyết danh kiến.
Ngũ thức cu sanh huệ,
Phi kiến bất đạc cố. (37)
Nhãn kiến sắc đồng phần,
Phi bỉ năng y thức; 
Truyền thuyết bất năng quán,
Bị chướng chư sắc cố. (38)

Dịch nghĩa:

Nhãn giới và một phần pháp giới,
Là tám thứ huệ thuộc về kiến.
Huệ cùng sanh với năm thức,
Không phải kiến vì không có suy đạc. (tụng 37)
Nhãn căn thấy sắc đồng phần,
Chứ không phải thức năng y của nó.
Truyền thuyết nói không thể thấy,
Vì bị chướng ngại bởi các sắc. (tụng 38)

Trong tụng văn, hai câu đầu nói nhãn căn và một phần pháp giới, tức tám huệ tương ưng với thức thứ 6, thuộc về kiến, còn 16 giới kia và một phần pháp giới còn lại thì thuộc về phi kiến.

Tám huệ là 5 thức kiến nhiễm ô, tức thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ kiến; cùng với chánh kiến thuộc thiện hữu lậu tương ưng với ý thức; chánh kiến vô lậu phát ra trong thân hàng hữu học; và chánh kiến vô lậu phát ra trong thân bậc vô học.

Kiến có hai nghĩa, quán chiếu và quyết đạc. Nhãn căn quán chiếu sắc cảnh, còn tám thứ huệ có khả năng quyết đạc cảnh sở duyên cho nên đều gọi là kiến.

Sáu câu tiếp theo, kể từ câu “ngũ thức cu sanh huệ”, là để ngăn ngừa nạn vấn. Trong đó, hai câu đầu nhằm bác quan điểm ngài Diệu Âm, một trong bốn bình gia của Đại-tì-bà-sa, cho rằng nhãn thức do tương ưng với huệ mới thấy sắc. Nay đây, không chấp nhận chủ trương đó, Luận chủ cho rằng huệ tương ưng với 5 thức trước là phi kiến. Bởi lẽ, kiến có đủ hai nghĩa thẩm lự và quyết định, còn 5 thức trước thì có tánh phân biệt kế đạc, cho nên nói là phi kiến.

Từ câu “Nhãn kiến sắc đồng phần” trở xuống căn cứ vào nhãn kiến để phân biệt hai thuyết về thức kiến và căn kiến. Ngài Pháp Cứu, một trong bốn bình gia của Tì-bà-sa, chủ trương nhãn thức kiến. Ngài Thế Hữu chủ trương nhãn căn kiến. Văn tụng này của nhà chủ trương căn kiến giải thích cho nhà chủ trương thức kiến.

Nhà chủ trương thức kiến hỏi rằng: Nếu bảo là nhãn căn thấy thì khi các thức khác khởi còn nhãn thức không sao lại không thấy tất cả cảnh sắc?

Nhà căn kiến đáp: Chẳng phải tất cả nhãn căn đều thấy, chỉ khi nhãn căn và nhãn thức đồng phần hợp tác mới gọi là thấy, cho nên nói “nhãn kiến sắc đồng phần.”

Nhà thức kiến lại hỏi: Nếu bảo rằng nhãn căn và nhãn thức hợp tác mới thấy sắc thì nhãn thức là năng y chứ chẳng phải nhãn căn là năng y, làm sao gọi là căn kiến được?

Nhà căn kiến đáp: Thức là năng y, chắc chắn không thể thấy. Vì sao? Vì nếu bảo rằng thức thấy, mà thức thì vô đối, không bị chướng ngại đối với tường vách v.v… như vậy đáng lý nó phải thấy các sắc đằng sau vật chướng ngại, nhưng thực tế thì không phải thế. Còn nhãn căn thì bị cảnh vật làm chướng ngại, không thể thấy được các sắc đằng sau vật chướng ngại, cho nên nói “truyền thuyết bất năng quán, bị chướng chư sắc cố.”

Thế nhưng, đặt hai chữ “truyền thuyết” ở đây, chính là ngầm nói lên cái ý Luận chủ chấp nhận thuyết thức kiến và không tin thuyết căn kiến.

Đoạn 2: Các vấn đề liên hệ

Trong đoạn nói về kiến và phi kiến trên đây, còn có những điểm chưa được rõ ràng, nên ở đây, sẽ giải quyết những vấn đề nêu sau:

1. Một mắt thấy hay hai mắt thấy
2. Căn cảnh ly hay hiệp
3. Căn cảnh cùng lượng hay không cùng lượng
4. Thời gian của sáu thức
5. Vì sao căn là sở y
6. Theo căn đặt tên cho thức
7. Đồng và dị theo giới địa.

1. Một mắt thấy hay hai mắt thấy.
Khi nhãn căn thấy sắc cảnh, do một mắt hay hai mắt thấy ?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Hoặc nhị nhãn cu thời,
Kiến sắc phân minh cố. (39)

Dịch nghĩa:

Hoặc hai mắt cùng thấy,
Vì thấy sắc rõ ràng hơn. (½ tụng 39)

Theo Tì-bà-sa quyển 13, Độc tử bộ cho rằng một mắt thấy. Hai mắt không thể cùng thấy sắc trong cùng một thời gian; nhưng nếu hai mắt cùng thấy như là đồng thời, thì hai con mắt bên phải và trái cùng có những tia nhìn lanh lẹ, giao thế liên tục để nhìn thấy sắc. Tuy nhiên, Tát-bà-đa bộ thì cho rằng có lúc thấy bằng một mắt, có lúc bằng hai mắt, do đó trong tụng văn đặt chữ “hoặc” để chỉ cho ý nghĩa không cố định. Khi mà hai mắt cùng thấy không phải vì chúng giao thế nhau liên tục như các nhà Độc tử bộ chủ trương, do đó tụng văn nói “nhị nhãn cu thời”, vì khi hai mắt cùng thấy sắc thì sự thấy rõ ràng hơn.

2. Căn cảnh ly hiệp.
Khi 6 căn thủ 6 cảnh, chúng có trực tiếp đến cảnh (hiệp) hay không đến cảnh (ly) ?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt.

Nhãn, nhĩ, ý, căn cảnh,
bất chí, tam tương vi. (39b) 

Dịch nghĩa.

Ba căn, nhãn, nhĩ và ý, đến cảnh;
còn ba căn kia không đến. (tụng 39b)

Theo Tì-bà-sa quyển 13 thì đến và không đến có hai: 1. Có công năng hiệp với cảnh gọi là đến. Cả 6 căn đều như vậy. 2. Bản chất vốn không gián cách nên gọi là đến. Giữa căn và cảnh không một chút gián cách nào. Ở đây, căn cứ theo nghĩa thứ hai nên cho rằng ba căn, nhãn, nhĩ và ý không trực tiếp đến cảnh; còn ba căn, tỹ, thiệt và thân thì trái lại phải trực tiếp đến cảnh. Bởi vì nhãn căn có thể thấy các sắc cảnh cách xa mà không thấy được thuốc nhỏ trong nó; nhĩ căn chỉ nghe được những âm thanh cách xa chứ không thể nghe được những âm thanh của vật sát nó. Đây là những lý do căn không trực tiếp đến thủ cảnh.

Nhưng Tì-bà-sa còn một thuyết nữa, cho rằng nhĩ căn cũng có thể nghe được những âm thanh phát ra từ trong lỗ tai, nên có cả hai trường hợp đến cảnh và không đến cảnh. Đó không phải là ý nghĩa chính thức của Hữu bộ, vì Hữu bộ cho rằng âm thanh của lỗ tai, mặc dù là rất gần nhưng vẫn có khoảng cách ít nhất từ một cực vi trở lên, nếu chạm vào nhĩ căn thì không thể nghe được. Ở đây, căn cứ theo Hữu bộ, chỉ chọn trường hợp căn không đến cảnh.

Ý căn vốn là tâm thức, không có hình thể, không phải là sắc pháp hữu tình, nên dù những pháp ở xa nó vẫn có thể thâu nhận một cách dễ dàng.

Do đó, tụng nói nhãn, nhĩ và ý thì căn không đến cảnh. Còn ba căn, tỹ, thiệt và thân, thì chỉ có thể thâu nhận cảnh tiếp xúc sát với căn, hễ cảnh mà ly cách căn, không thể thâu nhận được, cho nên nói “tam tương vi” (ba căn đó thì trái lại).

Nếu căn cứ theo Chánh lý luận quyển 8, dù ba căn tỹ, thiệt và thân, dù được nói là đến cảnh, nhưng trong đó không phải không có sự sai biệt. Giả sử đem một cực vi phân ra làm bốn phần, khoảng cách giữa tỹ căn và hương trần là ba phần cực vi; thiệt căn thâu nhận vị trần khoảng cách có 2 phần và thiện căn thâu nhận xúc trên là 1 phần. Đây là sự phân biệt tỉ mỉ.

3. Căn cảnh cùng hay không cùng lượng.
Trong 6 căn mỗi căn đối với cảnh của chính nó, chỉ thâu nhận cảnh cùng khối lượng, hay là thâu nhận cả cảnh không cùng khối lượng?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Ưng tri tỹ đẳng tam,
Duy thủ đẳng lượng cảnh. (40a)

Dịch nghĩa:

Nên biết ba căn, tỹ, thiệt, thân,
Chỉ thủ cảnh cùng lượng. (tụng 40a)

Nghĩa là ba căn tỹ, thiệt và thân chỉ thâu nhận cùng khối lượng ngang chúng; 2 căn nhãn và nhĩ khi thì thâu nhận cảnh cùng lượng, khi thì thủ cảnh không cùng lượng ngang chúng. Bởi vì, ba căn tỹ, thiệt và thân trực tiếp đến cảnh, chỉ thâu nhận cảnh cùng lượng. 2 căn nhãn và nhĩ không trực tiếp đến thủ cảnh. Nhãn căn đối với sắc có lúc thâu nhận vật có lượng nhỏ li ti như thấy đầu sợi lông, có khi thâu nhận lượng rất lớn như thấy một hòn núi, có lúc thủ cảnh trung bình như thấy những vật lớn bằng trái bồ đào. Nhĩ căn cũng vậy, hoặc nghe tiếng lớn như sấm sét, hoặc tiếng nhỏ như tiếng muỗi vo ve, đó là không cùng lượng. Nếu nghe âm thanh vừa tai, không quá lớn hay quá nhỏ như tiếng đàn chẳng hạn, đó là cùng lượng. Cho nên, hai căn nhãn và nhĩ thủ cảnh không nhất định, thông cả cùng lượng và không cùng lượng.

Đến như ý căn, tâm thức vô hình chẳng phải sắc pháp do cực vi tạo thành, cho nên căn cảnh không tỹ đối nhau, Do đó xếp vào cùng lượng và không cùng lượng.

4. Thời gian của sáu thức.
Căn sở y của sáu thức thuộc về thời gian nào, quá khứ, hiện tại hay vị lai?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Hậu y duy quá khứ,
Ngũ thức y hoặc cu. (40b)

Dịch nghĩa:

Sở y của ý thức thuộc quá khứ,
Còn 5 thức, hoặc thuộc tất cả.

Hậu, chỉ ý thức. Ý thức chỉ lấy ý căn đã diệt trong quá khứ làm sở y. Nhưng năm thức trước không những chỉ dựa vào ý căn đó, mà còn dựa vào 5 căn ở hiện tại. Cho nên gọi “Ngũ thức y hoặc cu.” Cu chỉ cho 5 căn, vì trong thời hiện tại, chúng làm chỗ y cứ của “cu sanh thức.”

Tóm lại, chỗ nương tựa của ý thức là ý căn. Ý căn thì thuộc về đời quá khứ. Chỗ nương tựa của năm thức trước, sở y của mỗi thức đều có hai:

1. Năm căn thuộc về đời hiện tại, làm sở y riêng biệt cho 5 thức.
2. Ý căn thuộc về đời quá khứ, làm sở y chung cho năm thức.

5. Vì sao căn là sở y.
Sáu thức, khi sanh đều nhờ vào hai duyên là căn và cảnh, nhưng tại sao chỉ nói căn là sở y của thức, không nói cảnh là sở y ? 

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Tùy căn thức biến dị
Cố nhãn đẳng danh y. (41a)

Dịch nghĩa:

Thức biến dị theo căn,
Nên nói nhãn v.v… là sở y. (tụng 41a)

Nghĩa là, khi 6 thức sanh, tuy nương vào 2 duyên là căn và cảnh, nhưng tùy theo sự thêm bớt của căn mà thức năng y có bén nhạy hay trì độn. Cho đến cảnh sở duyên (như sắc v.v…) dù có thêm bớt, thì đối với thức cũng không có gì thay đổi, cho nên chỉ lấy căn làm chỗ nương tựa.

6. Về thức tùy căn lập danh.
Sáu thức vì sao không dựa theo cảnh sở duyên để gọi là sắc thức, cho đến xúc thức, mà chỉ dựa vào căn để gọi căn thức v.v…?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Bỉ cập bất cọng nhơn,
Cố tùy căn thuyết thức. (41b)

Dịch nghĩa:

Do nguyên nhân kia và nguyên nhân bất cọng,
Nên theo căn mà đặt tên thức. (tụng 41b)

Theo căn mà đặt tên thức vì căn có hai nghĩa: 1. Sở y thù thắng: Như đoạn trước đã nói, tùy theo sự thêm bớt của căn mà thức có bén nhạy hay trì độn. 2. Nguyên nhân bất cọng: căn nào là sở y cho thức đó chứ không phải là sở y cho các thức khác. Như nhãn căn chỉ là chỗ nương tựa cho nhãn thức… cho đến thân căn là chỗ nương tựa cho thân thức. Cảnh lại là đối tượng chung cho tự thức và tha thức nên không phải là bất cọng. Cho nên tụng văn nói “bỉ cập bất cọng nhơn.” Bỉ chỉ cho nghĩa sở y đã nói đoạn trước.

Hỏi: Ý căn là chỗ nương tựa chung cho 6 thức, cho nên thiếu nghĩa bất cọng, tại sao căn phải đủ hai nghĩa?

Đáp: Vấn đề này có nhiều cách giải thích. Ở đây chỉ lấy một nghĩa để trình bày. Nói là bất cọng có nghĩa: trong sở y chung và sở y riêng, năm thức chỉ căn cứ vào sở y riêng biệt để đặt tên. Nhưng ý thức nương vào ý căn, chỉ có sở y chung. Nhưng sở y chung đó chính là sở y riêng biệt của nó, cho nên ý thức cũng có nghĩa bất cọng.

7. Đồng và dị theo giới địa.
Tùy theo trú xứ của thân, lúc mắt nhìn thấy sắc thì thân thể, nhãn căn, sắc cảnh và nhãn thức cùng ở một cõi hay khác?

Đáp: thân, nhãn, sắc và thức có thể cùng ở một cõi và cũng có thể khác. Như thân sanh ở dục giới, lúc dùng con mắt dục giới để nhìn sắc cảnh ở cõi dục thì thân, nhãn, sắc và thức đồng ở một cõi. Nếu dùng con mắt sơ thiền để nhìn sắc cảnh ở cõi dục thì thân và sắc thuộc dục giới, nhãn và thức ở sơ thiền. Nếu dùng con mắt sơ thiền nhìn sắc cảnh sơ thiền thì thân thuộc dục giới, nhãn, sắc và thức thuộc sơ thiền. Nếu dùng mắt nhị thiền nhìn sắc cảnh cõi dục thì thân và sắc thuộc dục giới, nhãn thuộc nhị thiền, thức thuộc sơ thiền. Nếu dùng mắt nhị thiền nhìn sắc cảnh sơ thiền thì thân thuộc dục giới, nhãn và sắc thuộc nhị thiền, thức thuộc sơ thiền. Dùng con mắt tam thiền, tứ thiền để nhìn sắc cảnh ở các cõi dưới, hoặc sắc cảnh của chính cõi mình ở hay cõi khác cũng giống như vậy. Đến như thân sanh ở nhị thiền, tam thiền, dùng con mắt ở trong các cõi đó để nhìn sắc cảnh cùng cõi hay khác cõi thì cứ theo cách trình bày trên đây mà hiểu.

Tụng nói.

Âm Hán Việt:

Nhãn bất hạ ư thân,
Sắc thức phi thượng nhãn.
Sắc ư thức nhất thiết,
Nhị ư thân diệc nhiên. (42)
Như nhãn, nhĩ diệc nhiên,
Thứ tam giai tự địa.
Thân thức tự, hạ địa,
Ý bất định ưng tri. (43)

Dịch nghĩa:

Nhãn căn không ở dưới thân,
Sắc và thức không ở trên nhãn.
Sắc đối với thức thì thông tất cả.
Cả hai đối với thân cũng như vậy. (tụng 42)
Như nhãn căn, nhĩ căn cũng giống như thế.
Ba căn kế đều ở tự địa.
Thân thức thông cả tự địa và hạ địa.
Ý không cố định, nên biết. (tụng 43)

Để giải thích phần tụng văn trên đây, trước tiên cần tìm hiểu sự sai biệt giữa bốn loại: thân, nhãn, sắc và thức.

Thân, nhãn và sắc, cả ba đều thông cả 5 cõi là dục giới và tứ thiền. Nhãn thức chỉ thông hai cõi là dục giới và sơ thiền, từ nhị thiền trở lên không hiện khởi.

Nhãn bất hạ ư thân: nhãn căn so với thân, hoặc là ngang bằng, hoặc ở trên chứ không thể ở dưới. Như khi dùng mắt cõi dục để nhìn sắc cảnh ở dục giới, thì nhãn cùng với thân đồng một cõi. Nếu chứng được thiên nhãn ở sắc giới, thì thiên nhãn đó ở vào cõi trên thân. Vì rằng, khi đã chứng được thiên nhãn thù thắng thì không dùng con mắt hạ liệt của các cõi dưới.

Sắc, thức phi thượng nhãn: sắc và thức so với nhãn căn thì hoặc ngang bằng hoặc ở dưới, hoàn toàn không thể ở cõi trên. Như khi dùng con mắt cõi dục để nhìn sắc cảnh ở dục giới, thì sắc và thức này cùng với nhãn căn đồng một cõi. Nếu dùng con mắt nhị thiền để thấy sắc cảnh sơ thiền, thì sắc và thức thuộc sơ thiền, nhãn căn thuộc nhị thiền. Sắc và thức này so với nhãn căn, chúng đều thuộc cõi dưới. Vì rằng con mắt ở cõi dưới thô lậu, không thể nhìn thấy các sắc cảnh vi tế của các cõi trên, và thức của cõi trên không thể nương vào nhãn căn của các cõi dưới.

Sắc ư thức nhất thiết: Sắc sở duyên so với nhãn thức năng duyên thì thông tất cả, nghĩa là hoặc ngang bằng, hoặc trên hoặc dưới. Như khi dùng nhãn thức dục giới để phân biệt sắc cảnh dục giới thì sắc này đối với thức là cùng một cõi ngang nhau. Nếu dùng nhãn thức sơ thiền nhìn sắc cảnh dục giới, sắc đó đối với thức là dưới. Khi chứng đắc thiên nhãn nhị thiền, mượn nhãn thức sơ thiền để phân biệt sắc cảnh nhị thiền, thì sắc đó đối với thức là ở trên.

Nhị ư thân diệc nhiên: nhị tức là sắc và nhãn thức. Hai thứ này đối với thân, chúng hoặc ngang nhau, hoặc trên, hoặc dưới. Như khi thân ở cõi dục, khởi thức cõi dục, liễu biệt sắc cảnh dục giới, cả ba cùng ở chung một cõi. Khi thân ở dục giới mà khởi thiên nhãn của cõi trên; dùng thức của sơ thiền để liễu biệt sắc cảnh ở sơ thiền, thì sắc và thức này đối với thân, chúng ở trên. Khi thân sanh ở nhị thiền, mượn thức ở sơ thiền để phân biệt sắc cảnh cõi dưới thì sắc và thức này đối với thân là dưới.

Như nhãn, nhĩ diệc nhiên: đã giải thích nhãn căn, nay nhĩ căn cũng giống như vậy. Nghĩa là dựa theo nhãn căn, phần tụng văn của nhĩ cũng sẽ là: “nhĩ căn không ở dưới thân, thanh và thức không ở trên nhĩ, thanh đối với thức thì thông tất cả, thanh và nhãn thức đối với thân cũng vậy.”

Thứ tam giai tự địa: tiếp theo nhĩ căn là tỹ, thiệt và thân căn. Cả ba căn đều phải hiệp với cảnh mới phân biệt được cảnh, chỉ trực tiếp đến thủ cảnh. Vì thế căn, cảnh và thức đối với nhau đều phải cùng ở trong một cõi. Như lúc mũi ngửi hương thì tỹ căn, thiệt thức, hương cảnh cùng với thân đều cùng ở một cõi. Tuy nhiên trong đó tỹ thức và thiệt thức chỉ hệ thuộc vào dục giới.

Căn, cảnh, thức và thân tuy đồng ở một cõi nhưng thân thức thì thông cả dục giới và sơ thiền. Từ nhị thiền trở lên phải mượn mới có thể hiện khởi. Thân thức này so với thân xúc thì nó thông cả tự địa và hạ địa, và có một phần nào sai khác với các loại trước, nên nói là “thân thức tự hạ địa.” Tự: chỉ cho dục giới và sơ thiền. Thân thức ở dục giới và sơ thiền so với thân xúc đều chung một cõi nên gọi là tự. Nếu sanh vào ba cõi định ở trên, lúc mượn thức ở sơ thiền để phân biệt xúc cảnh ở các cõi trên thì thân xúc thuộc vào ba cõi định trên, thân thức thuộc sơ thiền, thân thức này so với thân xúc thì nó ở cõi dưới, cho nên nói là hạ.

Ý bất định ưng tri: Ý so với ý thức, pháp cảnh và thân thì hoặc đồng một cõi, hoặc là trên, hoặc là dưới, nó không có tính cách cố định. Suy kỹ sẽ thấy rõ điều này.

Tiết 14: Thứ - sở thức, 
thường - vô thường, căn và phi căn.

Sáu thức nội giới, có bao nhiêu thức cùng nhận thức một đối tượng? Bao nhiêu giới thường, vô thường? Bao nhiêu giới là căn, là phi căn?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Ngũ ngoại nhị sở thức.
Thường, pháp giới vô vi.
Pháp nhất phần thị căn,
Tịnh nội giới thập nhị. (44)

Dịch nghĩa:

Năm ngoại giới được nhận thức bởi hai thức.
Vô vi trong pháp giới là thường.
Một phần pháp giới là căn,
Và 12 nội giới. (tụng 44)

Trong bài tụng này, câu 1 nói về thức sở thức. Câu 2, thường và vô thường. Hai câu cuối, căn và phi căn.

1. Thức, sở thức. Năm ngoại giới tức sắc, thanh, hương, vị và xúc. Theo thứ tự, chúng được nhận thức bởi mắt, tai, mũi, lưỡi và thân. Lại nữa, tất cả chúng cùng được nhận thức bởi ý thức. Do đó, 5 ngoại giới được nhận thức bởi 6 nội thức, gồm 5 thức và ý thức. Như vậy, 12 giới còn lại chỉ được nhận thức bởi ý thức, vì chúng không phải là cảnh sở duyên của năm thức trước.

2. Thường và vô thường. Không có một giới nào hoàn toàn thường trụ. Chỉ có một phần pháp giới, tức vô vi, là thường trụ vì đó là pháp thường hằng. Như vậy, ngoài vô vi, một phần pháp giới còn lại, cùng 17 giới kia đều là vô thường.

3. Căn và phi căn. Có tất cả 22 căn: nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân căn; ý căn; nam, nữ căn; mạng căn; khổ, lạc, hỉ, ưu, xả căn; tín, cần, niệm, định, huệ căn; vị tri đương tri, dĩ tri và cụ tri căn. Nếu theo 18 giới mà phân biệt, thì 11 căn, từ mạng căn cho đến huệ căn, cọng với 3 vô lậu căn cuối (vị tri… căn) Tất cả 14 căn này được xếp vào một phần pháp giới (3 vô lậu căn tổng hợp 9 căn làm thể: ý, lạc, hỉ, xả, và tín… đến huệ. Nhưng thể của ý căn là tâm vương, không xếp ở pháp giới, do đó nói là một phần pháp giới). Tám căn còn lại, và một phần 3 vô lậu căn được xếp vào 12 xứ tức 6 căn, 6 thức. Vậy, trong 22 căn, từ nhãn, theo tên gọi của chúng, xếp vào 5 căn trong 18 giới; ý căn trong 22 căn bao gồm 7 tâm giới của 18 giới; nam và nữ căn xếp vào thân căn; một phần 3 vô lậu căn, xếp vào ý giới và ý thức giới.

Tóm lại, 12 giới và một phần giới là căn. Ngoài ra, 5 cảnh và một phần pháp giới không phải là căn.

Cu-xá luận tụng lược thích, phẩm phân biệt giới (hết)
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn