Phần Iii: Bất Định Pháp (Aniyata Dharmā)

05 Tháng Chín 201000:00(Xem: 8963)

Phần III: Bất Định Pháp (Aniyata dharmā)

******

Tụ thứ ba của Giới Bổn Tỳ-kheo là Bất Định Pháp (S. aniyata; P. aniyatā) tụ này không có trong Giới Bổn Tỳ-kheo-ni. Bất Định Pháp được định nghĩa như vầy: “Vì bản chất của tội chưa được xác định, nên tụ này của Giới Bổn được gọi là Bất Định Pháp, tức là “sẽ được xác định.” [1] Charles S. Prebish nói: “Các tội trong tụ này được xem là những tội chưa xác định.” [2] Aniyata dharmā được dịch sanh tiếng Hoa là pu ting fa (Bất Định Pháp) [3] nghĩa là không rõ ràng hay chưa xác định. Hai giới Bất Định này chỉ áp dụng cho Tỳ-kheo, điều này làm cho chúng ta phải ngạc nhiên và nhận thấy mức độ tin cậy đối với phụ nữ để xác chứng về một vị Tỳ-kheo phạm một trong hai giới Bất Định. Bất Định Pháp được trình bày như dưới đây:

Người dịch tạm mặc ước hai giới Bất Định của Tỳ-kheo như sau: thứ nhất là trật tự của giới, thứ hai là nội dung của giới [4].

1. Cấm ngồi với phụ nữ chỗ kín, chỗ che khuất, thích hợp cho quan hệ tình dục.

2. Cấm ngồi với người nữ chỗ trống trải hoặc chỗ che khuất, không thích hợp với quan hệ tình dục.

Tôi bàn về hai giới này của Tỳ-kheo có lẽ là không thích hợp lắm. Tuy nhiên, chúng cũng cho chúng ta thấy quan điểm Phật giáo đối với phụ nữ. Như Prebish chỉ ra, “Hai tội trong phần Bất Định Pháp phản ảnh một mức nào đó về lòng tin tưởng đối với nữ cư sĩ Phật tử làm cho chúng ta phải ngạc nhiên.” [5] Nếu một vị Tỳ-kheo ngồi chung với phụ nữ chỗ kín thích hợp có khả năng liên hệ đến tình dục hoặc ngồi ở chỗ trống trải không thích hợp để sinh lòng tham dục, thì vị Tỳ-kheo ấy có thể phạm một trong những tội trong các tụ Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa hoặc Ba-dật-đề tuỳ theo lời khai của nữ cư sĩ. [6] Điều đáng chú ý ở đây là lời nói của phụ nữ được đánh giá cao như vậy, và thật là lạ lùng khi vị trí của phụ nữ vào thời đó rất thấp mà giới luật lại quy định như vậy. Các hình phạt cho hai tội của Bất Định Pháp này giành cho Tỳ-kheo lại đặt niềm tin vào nữ giới, mà lại không áp dụng cho chư Ni. 

Bà Hornor nói: “Hai giới Bất Định này cho chúng ta thấy sự tôn trọng và lòng tin tưởng đối với phụ nữ vào thời đó. Họ không bị khinh bỉ, gạt qua một bên như đồ ngồi lê đôi mách hoặc như người ba hoa vô tích sự, mà lời nói của họ được xem là quan trọng.” [7]
 

--------------------------------------------------------------------------------

[1] C. S. Upasak, Dictionary of Early Buddhist Monastic Terms (Varanasi: Bharati Prakashan, 1975), p. 14.

[2] Charles S. Prebish, Buddhist Monastic Discipline: The Sanskrit Prāṭimokṣa Sūtras of the Mahāsāṃghikas and Mūlasarvāstivādins (New York: The Pennsylvania State University Press, 1975), p. 13.

[3] Đại Chánh Tạng, Tập XII, pp. 600-601.

[4] Sách đã dẫn, pp. 600-601, 1017. 

[5] Prebish, p. 13. 

[6] Đại Chánh Tạng, Tập XII, p. 1017.

[7] Sacred Buddhist Books. Tập X, p. xxxiii.
 
 

Đọc Thêm: Tứ Phần Luật, Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
20 Tháng Tư 2016(Xem: 9279)
Nói đến Giáo hội Tỳ-kheo Ni, lập tức chúng ta nghĩ ngay đến sự kiện Đức Thế Tôn chưa chấp thuận lời cầu xin gia nhập Tăng đoàn của Di mẫu Mahaprajapati. Để được phép xuất gia, Di mẫu Mahaprajapati đã chấp thuận tuân thủ Bát Kỉnh Pháp một cách vô điều kiện. Thế nhưng, theo như lời Phật dạy, Ni chúng được chư vị Tỳ-kheo truyền giới. Không có nơi nào trong Luật tạng đề cập chư Đại đức Tăng phải yêu cầu các giới tử Ni tuân thủ Tám pháp Bát kỉnh mà Đức Thế Tôn đã đưa ra cho Tôn giả Mahapajapati. Các Tỳ-kheo Ni ý thức rằng, chính vì sự nhận thức chưa thấu đáo về bối cảnh và con người, trong sự kiện Đức Phật chế định Bát Kỉnh Pháp mà ngày nay Giáo đoàn Tỳ-kheo Ni tại Ấn Độ và các quốc gia Phật giáo khác đã phải nỗ lực, phấn đấu rất nhiều mới có thể khẳng định sự tồn tại của mình trong lòng Phật giáo.
25 Tháng Ba 2016(Xem: 8199)
Chúng ta cần phải lưu ý đến một điểm thật quan trọng và tế nhị là dù mình đã đạt được nhiều kinh nghiệm luyện tập thiền định, nhưng không phải vì thế mà tránh được sự mê hoặc của các cảm tính (feeling/cảm nhận) thích thú (pleasant/dễ chịu), chẳng qua vì chúng tạo ra cho mình mọi thứ ảo giác ở nhiều cấp bậc khác nhau. Thật hết sức khó cho chúng ta nhận thấy được các sự biến đổi và tính cách phù du của chúng. Chẳng những chúng không mang lại được sự thích thú thật sự nào mà chỉ tạo ra thêm căng thẳng cho mình, và chỉ vì không hiểu được điều đó nên mình cứ tiếp tục bám víu vào chúng.
19 Tháng Ba 2016(Xem: 8750)
Dưới đây là phần chuyển ngữ bài báo của một nữ ký giả và biên tập viên người Thái Sanitsuda Ekachai trên báo Bangkok Post về một phụ nữ Mỹ thật phi thường là bà Jacqueline Kramer. Bà từng là một ca sĩ có tiếng, từng độc diễn trên các sân khấu ở San Francisco, nhưng đã hy sinh tất cả để nuôi con nhờ vào tâm Phật bên trong lòng bà. Bà tin rằng một phụ nữ nuôi nấng con cái, làm bếp, dọn dẹp nhà cửa cũng có thể đạt được giác ngộ.
19 Tháng Ba 2016(Xem: 8947)
Dưới đây là phần chuyển ngữ bài thuyết trình của bà Gabriela Frey với chủ đề "Phụ nữ và Phật giáo", trước cử tọa của tổ chức Ki-tô giáo FHEDLES (Femmes et Hommes, Égalité, Droits et Libertés, dans les Églises et la Société/Nữ và Nam giới, Công bằng, Luật pháp, Tự do, trong Nhà thờ và ngoài Xã hội). Buổi thuyết trình diễn ra ngày 5 tháng 12 năm 2013, và sau đó đã được ghi chép lại và phổ biến trên nhiều trang mạng, trong số này có trang mạng của Tổ chức FHEDLES trên đây và Hiệp hội Sakyadhita Quốc Tế (Sakyadhita International Association of Buddhist Women/Hiệp hội Phụ nữ Phật giáo trên thế giới).
19 Tháng Ba 2016(Xem: 8397)
Lời giới thiệu của người dịch Một người con gái sinh trưởng trong một gia đình bình dị ở một khu phố nghèo của thành phố Luân Đôn, tình cờ một hôm đọc được một quyển sách về Phật giáo, bỗng chợt cảm thấy mình là một người Phật giáo mà không hề hay biết. Cơ duyên đã đưa người con gái ấy biệt tu suốt mười hai năm liền, trong một hang động cao hơn 4000m trên rặng Hy-mã Lạp-sơn. Ngày nay cô gái ấy đã trở thành một ni sư Tây Tạng 73 tuổi, pháp danh là Tenzin Palmo, vô cùng năng hoạt, dấn thân và nổi tiếng khắp thế giới.