Chương Mười Các Vị Đao Sư Du Già

05 Tháng Chín 201000:00(Xem: 11203)

CHƯƠNG MƯỜI
 
CÁC VỊ ĐAO SƯ DU GIÀ 
 
Quang cảnh bên ngoài động Tuyết Sơn thì vô cùng tráng lệ và hùng vĩ, nhưng còn thế giới nội tâm của Tenzin thì ra sao? Cô đã chứng nghiệm được gì trong quãng thời gian dài 12 năm sống ẩn cư trong động núi? Cuộc hành trình đi về nội tâm của cô thế nào, có kết quả gì không? Cô đã thấy những gì xuyên qua quá trình thiền định công phu? Cô có được thấm nhuần ân sủng hay cô có nghe thấy những tiếng gọi thiêng liêng không? Cô có kinh nghiệm được những đợt sóng chuyển hoá tâm thức không? 
 
Những gì chúng ta thắc mắc cũng là ưu tư khắc khoải của Tenzin khiến cô đã phát đại hùng tâm ẩn cư đơn độc trên động núi cách xa loài người hơn 12,000 bộ cao. 
 
Theo huyền thoại của các thiền sư ẩn sĩ, đó cũng là một nan đề, một công án cần phải giải đáp. Tít tận trên hang động giá băng hoang sơ, vị Đại hiền giả đạo sư du già Milarepa, người sáng lập ra tông phái ẩn sĩ Karmapa, sau nhiều năm khổ hạnh, đã chứng đạt tới một cảnh giới huy hoàng kỳ lạ. Những bức vách và nền căn động nơi Milarepa ở đều chảy tan ra nước bởi những dấu ấn tay chân của ngài và chỗ ngồi tham thiền của ngài thì lõm sâu vào trong đá. Trong thời gian Milarepa tham thiền nhập định, các vị nữ thần đã xuất hiện và cung cấp thức ăn cho Milarepa đỡ đói. Nhưng dù thân hình của Milarepa chỉ còn xương bọc da và đã đổi màu biến thành xanh rêu vì Ngài chỉ ăn có một loại lá cây ban (cây dại mọc trên núi), Milarepa vẫn an nhiên tham thiền nhập định, không hề biến động vì ngoại cảnh. Trong khi thiền quán, Milarepa có thể tùy ý biến hoá ra bất cứ hình dạng nào, hay phiêu du tự tại trong vũ trụ càn khôn không hề bị trở ngại. Khi ngài xả thiền, thì có khi Milarepa đã dùng khinh công để vượt qua những dãy núi đồi đám dân làng đang cày bừa ở các thung lũng phía dưới chân núi. 
 
Liệu cô gái Tenzin Palmo, con người bán cá ở Bethnal Green, có chứng đạt được như Milarepa không? 
 
Không một ai biết chắc chắn được Tenzin Palmo đã chứng nghiệm được gì trong những năm tháng dài ẩn cư cô tịch, nhẫn nhục chịu đựng giá rét, đói khát, và bóng tối hoang vu. Tenzin đã thấm nhuần tư tưởng thanh cao của các vị Togdens, những vị đạo sư du già; họ không bao giờ bộc lộ hay khoe khoang thành tích chứng quả của họ. 
 
Xả bỏ được Ngã Chấp và Kiêu Mạn chính là một trong nhiều đức tính của các vị đạo sư chân chính, phạm hạnh. Hơn nữa, mật hạnh của một vị tu sĩ cùng không cho phép Tenzin bộc lộ ra sở tu sở đắc của mình. Ngay chính Đức Phật, Ngài cũng đã từ chối không thi triển phép lạ thần thông khi một đạo sĩ khác thách thức Ngài. Ngài nói: "Chỉ có giáo hóa chúng sanh thoát khỏi tham dục, si mê, ngã chấp, và chứng đạt được trí tuệ giải thoát. Chỉ có giáo hóa thần thông mới có khả năng giúp chúng sanh vượt qua khỏi biển khổ tiến lên bờ giác ngộ. Ngoài ra, những phép thuật hay thần thông, nếu sử dụng không đúng chánh pháp, sẽ gây tác hại cho chính người sử dụng và người khác." 
 
- "Thẳng thắn mà nói, tôi không thích đề cập đến vấn đề này. Có nhiều người thích mọi người biết đến mình, có người lại không quan tâm đến những vặt vãnh đó. Cá nhân tôi, tôi nhận thấy đó là chuyện riêng của tôi. Tôi không cần phải phô trương hay khoe khoang với mọi người là tôi tu thế nào, chứng đắc làm sao." 
 
Khi cô bị cật vấn quá mức, Tenzin chỉ tiết lộ đại khái: 
 
 - "Lẽ dĩ nhiên, khi bạn nhập thất lâu dài, theo quá trình đúng đắn tu tập, bạn sẽ gặt hái được hiệu quả tốt đẹp, rất to lớn. Bạn sẽ cảm nhận được nhũng phút giây cơ thể bạn trở thành khinh an như bay bổng hay cảm giác thể xác này đang hoà tan trong chân không vũ trụ. Bạn sẽ vô cùng minh mẫn, nhạy bén, và tỉnh giác." 
 
"Điểm tối yếu quan trọng của sự tu tập không phải để nắm bắt những ảo giác khinh an đó, mà chính là phải chứng đạt được giác ngộ. Giác ngộ chân lý không phải là một hiện tượng mơ hồ, siêu hình, mà rất đơn giản, đó là "Chúng ta phải nhìn sự vật y như chúng đang là" (như thị), không qua một bức màn nào. Sự vật như thế nào, chúng ta nhìn như thế ấy." 
 
"Sự chứng đạt không phải là một quan niệm cũng không phải là một sản phẩm tư duy hay tình cảm. 
 
"Sự chứng đạt có thể nói như là ánh sáng trong suốt từ trung tâm của một lăng kính, chứ không phải là những mầu sắc cầu vồng chung quanh nó." 
 
 "Trạng thái an lạc hạnh phúc cũng có nhiều tầng lớp khác nhau. "An Lạc" rất quan trọng cho sự nhập thất lâu dài - như là xăng dầu cần cho máy xe vậy - Thiếu sự an lạc, bạn không thể nào nhập thất lâu dài được. Từ niệm hỷ lạc trong tâm đó, bạn có thể sống cô độc và yên tĩnh suốt năm này qua năm khác, không hề cảm thấy thiếu thốn, bức rức, sợ hãi hay cô đơn buồn chán. Vì thế, Đức Phật đã khẳng định "An Lạc chính là yếu tố quan trọng nhất đưa đến Hạnh Phúc, Giác Ngộ, Giải Thoát." Nhưng chúng ta cũng không nên nhầm lẫn An Lạc và Khoái Lạc của vật dục thị hiếu thấp hèn và bám chặt lấy sự khoái lạc đó. Đối với những kẻ mê đắm vật chất thú vui thế gian thì họ cho là tiền bạc, vật chất, và ngay cả khoái cảm nhục dục là hạnh phúc tối thượng của đời họ; họ bám víu và khao khát được có trong tay những thứ vật dục đó; nhưng họ có biết đâu rằng chính những vật dục khoái lạc đó là cạm bẫy, là trở ngại cho một cuộc sống thực sự an ổn, nhẹ nhàng.  
 
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
20 Tháng Tư 2016(Xem: 9279)
Nói đến Giáo hội Tỳ-kheo Ni, lập tức chúng ta nghĩ ngay đến sự kiện Đức Thế Tôn chưa chấp thuận lời cầu xin gia nhập Tăng đoàn của Di mẫu Mahaprajapati. Để được phép xuất gia, Di mẫu Mahaprajapati đã chấp thuận tuân thủ Bát Kỉnh Pháp một cách vô điều kiện. Thế nhưng, theo như lời Phật dạy, Ni chúng được chư vị Tỳ-kheo truyền giới. Không có nơi nào trong Luật tạng đề cập chư Đại đức Tăng phải yêu cầu các giới tử Ni tuân thủ Tám pháp Bát kỉnh mà Đức Thế Tôn đã đưa ra cho Tôn giả Mahapajapati. Các Tỳ-kheo Ni ý thức rằng, chính vì sự nhận thức chưa thấu đáo về bối cảnh và con người, trong sự kiện Đức Phật chế định Bát Kỉnh Pháp mà ngày nay Giáo đoàn Tỳ-kheo Ni tại Ấn Độ và các quốc gia Phật giáo khác đã phải nỗ lực, phấn đấu rất nhiều mới có thể khẳng định sự tồn tại của mình trong lòng Phật giáo.
25 Tháng Ba 2016(Xem: 8199)
Chúng ta cần phải lưu ý đến một điểm thật quan trọng và tế nhị là dù mình đã đạt được nhiều kinh nghiệm luyện tập thiền định, nhưng không phải vì thế mà tránh được sự mê hoặc của các cảm tính (feeling/cảm nhận) thích thú (pleasant/dễ chịu), chẳng qua vì chúng tạo ra cho mình mọi thứ ảo giác ở nhiều cấp bậc khác nhau. Thật hết sức khó cho chúng ta nhận thấy được các sự biến đổi và tính cách phù du của chúng. Chẳng những chúng không mang lại được sự thích thú thật sự nào mà chỉ tạo ra thêm căng thẳng cho mình, và chỉ vì không hiểu được điều đó nên mình cứ tiếp tục bám víu vào chúng.
19 Tháng Ba 2016(Xem: 8750)
Dưới đây là phần chuyển ngữ bài báo của một nữ ký giả và biên tập viên người Thái Sanitsuda Ekachai trên báo Bangkok Post về một phụ nữ Mỹ thật phi thường là bà Jacqueline Kramer. Bà từng là một ca sĩ có tiếng, từng độc diễn trên các sân khấu ở San Francisco, nhưng đã hy sinh tất cả để nuôi con nhờ vào tâm Phật bên trong lòng bà. Bà tin rằng một phụ nữ nuôi nấng con cái, làm bếp, dọn dẹp nhà cửa cũng có thể đạt được giác ngộ.
19 Tháng Ba 2016(Xem: 8947)
Dưới đây là phần chuyển ngữ bài thuyết trình của bà Gabriela Frey với chủ đề "Phụ nữ và Phật giáo", trước cử tọa của tổ chức Ki-tô giáo FHEDLES (Femmes et Hommes, Égalité, Droits et Libertés, dans les Églises et la Société/Nữ và Nam giới, Công bằng, Luật pháp, Tự do, trong Nhà thờ và ngoài Xã hội). Buổi thuyết trình diễn ra ngày 5 tháng 12 năm 2013, và sau đó đã được ghi chép lại và phổ biến trên nhiều trang mạng, trong số này có trang mạng của Tổ chức FHEDLES trên đây và Hiệp hội Sakyadhita Quốc Tế (Sakyadhita International Association of Buddhist Women/Hiệp hội Phụ nữ Phật giáo trên thế giới).
19 Tháng Ba 2016(Xem: 8396)
Lời giới thiệu của người dịch Một người con gái sinh trưởng trong một gia đình bình dị ở một khu phố nghèo của thành phố Luân Đôn, tình cờ một hôm đọc được một quyển sách về Phật giáo, bỗng chợt cảm thấy mình là một người Phật giáo mà không hề hay biết. Cơ duyên đã đưa người con gái ấy biệt tu suốt mười hai năm liền, trong một hang động cao hơn 4000m trên rặng Hy-mã Lạp-sơn. Ngày nay cô gái ấy đã trở thành một ni sư Tây Tạng 73 tuổi, pháp danh là Tenzin Palmo, vô cùng năng hoạt, dấn thân và nổi tiếng khắp thế giới.