Ở phía sau của tấm bia có khắc 1 đoạn thơ của Lê Thánh Tông và 2 đoạn văn: một đoạn ghi việc thái hậu Linh Nhân (tức Ỷ Lan) cúng 72 mẫu ruộng làm tự điền, và một đoạn khác, ghi việc trùng tu và dựng lại bia dưới thời nhà Mạc (Sđd)*
Về văn xuôi chúng tôi rút ra bài hịch dưới đây làm mẫu.
Năm 1109, vua Nhân Tông trước khi thân chinh động Ma Sa, có hội dân nước ăn thề ở sân rồng và truyền hịch:
"Trẫm nối nghiệp tổ tông để sửa trị muôn dân. Coi dân trăm họ trong bốn biển như con đỏ. Cho nên cõi xa mến điều nhân mà qui phục; phương ngoài mộ lòng nghĩa mà triều cống. Vả chăng, dân động Ma Sa vốn sinh sống ở trong bờ cõi nước ta; viên động trưởng Ma Sa đời đời làm phiên thần cho trẫm. Ngốc thay là viên Tù trưởng hèn, bỗng chốc phụ lời ước hẹn của cha ông nó; dám quên việc triều cống, trái với lệ thường hàng năm.
"Trẫm mỗi lần nghĩ đến, thật là một việc bất đắc dĩ. Hôm nay, trẫm tự cầm quân đánh chúng nó. Hỡi các tướng súy và sáu quân, ai nấy phải hết lòng vâng theo mệnh lệnh của trẫm.
Năm Thiên Phù Khánh Thọ thứ 1 (1127), vua Lý Nhân Tông trước khi băng, đã viết bài "Lâm Chung Di Chiếu" và cho gọi thái uý Lưu Khánh Đàm vào cung trao tận tay và dặn dò các việc về sau.
Dưới đây là bản dịch từ chữ Hán ra tiếng Việt in trong sách Thơ Văn Lý Trần, tập 1, (xin trích nguyên văn):
"Trẫm nghe: các giống sinh vật không giống nào không chết. Chết là số lớn của trời đất, là lẽ đương nhiên của muôn loài. Thế mà người đời không ai không ham sống, ghét chết. (Có người) chôn cất linh đình đến hủy hoại cả cơ nghiệp; (có người) coi trọng việc tang chế đến hao tổn cả sinh mạng, trẫm rất không ưa. Trẫm đã ít đức, không làm gì cho trăm họ được yên, đến khi chết đi lại bắt dân chúng mặc xô gai, sớm tối khóc lóc, giảm ăn uống, bỏ cúng tế, để làm nặng thêm lỗi lầm của trẫm thì thiên hạ sẽ bảo trẫm là người như thế nào?
'Trẩm vẫn xót vì tuổi nhỏ phải đảm đương ngôi báu lớn, ở trên các vương hầu, lúc nào cũng nghiêm kính sợ hãi, đến nay đã năm mươi sáu năm. Nhờ anh linh của tổ tông và hoàng thiên giúp nên bốn bể yên lành, biên thùy ít loạn, đến khi chết đi được dự đứng sau tiên đế là may mắn rồi, việc gì còn phải khóc thương!
"Trẫm từ khi đi xem dân gặt hái đến nay, trong mình bỗng thấy không khỏe, bây giờ bệnh đã trầm trọng, sợ không kịp căn dặc đầy đủ, nên hãy thận trọng mà nói việc kế tự thôi! Thái tử Dương Hoán*tuổi đã tròn mười hai, có độ lượng, thông minh, thành thực trung hậu, ôn hòa nghiêm kính, có thể theo phép cũ của trẫm, lên ngôi haòng đế.
"Này đức trẻ thơ, con hãy vâng nhận mệnh ta, nối dõi thể thống, giữ gìn cơ nghiệp, làm rộng lớn thêm công đức của tiền nhân. Trẫm mong thần dân hết lòng phụ tá.
"Hởi ngươi Bá Ngọc[28](người) thực có phong độ người quân tử. Hãy sửa sang giáo mác để dự phòng những việc bất trắc, chớ làm sai mệnh trẫm. Trẫm dù nhắm mắt cũng không ân hận gì.
"Việc tang thì sau ba ngày nên bỏ áo trở, thôi khóc than. Chôn cất thì nên theo cách kiệm ước của Hán Văn Đế, không cần xây lăng tẫm riêng, hãy để trẫm được hầu bên cạnh tiên đế[29]
"Than ơi! Mặt trời đã xế, tấc bóng khôn dừng; trăng trối mấy lời, nghìn năm vĩnh quyết!
Các ngươi nên thực lòng kính nghe lời trẫm, tỏ bày với các vương công và bá cáo cho mọi người cùng biết"
Bản dịch của nguyễn Đức Vân
Thơ văn Lý Trần T.1
Học giả Ngô tất Tố viết trong sách Văn Học Đời Lý: "Về phần tản văn, thì bài Di Chiếu của vua Nhân Tông là khá hơn hết. Tuy cũng có mô phỏng bài Di Chiếu của Văn Đế nhà Hán, nhưng mà câu đặt rất cổ, ông Lê Quí Đôn và ông Phạm Đình Hổ khen văn nhà Lý giống văn nhà Hán, có lẽ chỉ về bài này" (Sđd)[30][1]
[1] Thiền sư VẠN HẠNH, họ Nguyễn quê ở làng Cổ Pháp (nay là làng Đình Bảng, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), nhà mấy đời thờ Phật, từ thuở nhỏ ngài đã thông minh khác thường, là bậc "sinh nhi tri chí", quán thông ba môn học, nghiên cứu Bách Luận (Madhymika), coi nhẹ công danh phú quí. Năm 21 tuổi, ngài xuất gia cùng với thiền sư Định Tuệ, theo học Lục tổ Thiền Ông, tức là đời pháp thứ mười hai của phái Tỳ-Ni-Đà-Lưu-Chi. Ngoài giờ hầu hạ thầy, ngài chuyên chú học hỏi không biết mệt mỏi. Sau khi Lục tổ Thiền Ông thị tịch, ngài tập môn Tam-Ma-Đề (Samadhi), nên khi nói ra lời nào ắt thành sấm ngữ. Vua Lê Đại Hành (981) rất kính trọng ngài. Năm đầu niên hiệu Thiên Phúc, tướng nhà Tống là Hầu Nhân Bảo đưa quân sang đánh nước ta, đóng quân ở Cương Giáp trấn Lạng Sơn.
Vua mời ngài đến hỏi về sự thắng bại ra sao? Ngài đáp: "Chỉ trong ba bảy ngày thì giặc sẽ lui". Quả nhiên đúng như thế. Khi khởi binh đánh Chiêm Thành, vì nước này hay sang quấy phá biên thùy nước ta. Nghị đình chưa quyết định, ngài tâu xin ra quân gấp khỏi mất cơ hội. Sau đó quả nhiên thắng trận. -Thơ Văn Lý Trần viết: - Ông là người có công lớn đã đóng góp nhiều ý kiến giúp Lê Đại Hành chống giặc ngoại xâm và dựng nước, sau lại góp phần giúp Lý Công Uẩn lên ngôi vua (1010). Là một người có cái nhìn nhạy bén về thời cuộc như vậy nên trong thời Tiền Lê, ông đuợc vua Lê Đại Hành tôn kính; sang thời nhà Lý càng được triều đình trọng đãi. Lý Thái Tổ phong ông làm Quốc Sư" Sđd trang 214)
Niên hiệu Thuận Thiên thứ IX, năm mậu ngọ ngày 15 tháng 5 năm 1018. Trước giờ thị tịch, ngài có để lại bài kệ khuyến cáo đệ tử:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô".
Tạm dịch:
Thân như chớp nhoáng có rồi không
Cây cối thu tàn xuân trổ bông
Nhìn cuộc thịnh suy. nào có sợ
Thịnh suy ngọn cỏ hạt sương hồng.
Tác phẩm của ngài hiện còn 5 bài thơ, có "tính chất những lời sấm và lời kệ". Ngoài ra còn có một ít lời phát biểu về thời cuộc, 5 bài thơ đó là:
1.GỬI ĐỖ NGÂN (Ký Đỗ Ngân),.
2.KHUYÊN LÝ CÔNG UẨN (Khuyến Lý Công Uẩn)
3.CHỮ "QUỐC" (Quốc Tự).
4.TREO BẢN NÓI CHO MỌI NGƯỜI BIẾT.
(Viết Bảng Thị Chúng)
5.LỜI DẠY ĐỆ TỬ (Thị Đệ Tử)
LỜIKHUYÊN CỦA NGÀI VẠN HẠNH chép trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (phiên âm bản chữ Hán):
"Cận giả, thần kiến phù sấm chi dị, tri Lý thị tráng thịnh nhi hưng nghiệp tất hỹ. Kim quan thiên hạ chi tính, Lý tối đa, vô như thân vệ khoan từ nhân thứ, phả đắc chúng tâm, nhi chưởng ác binh bính giả. Tông chủ vạn dân, xả thân vệ, kỳ thùy đương chi?
"Thần niên thất thập hữu dư, nguyện tư tu vật tử dĩ quan đức hóa như hà. Thành thiên tải nhất ngộ chi hạnh dã".
Gần đây, tôi thấy lời sấm lạ, biết rằng họ Lý cường thịnh tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ, người họ Lý rất nhiều nhưng không ai bằng thân vệ, là người khoan từ, nhân thứ, lại được lòng dân chúng, mà binh quyền nắm trong tay. Người đứng đầu muôn dân chẳng phải thân vệ thì còn ai có thể cáng đáng nổi. Tôi đã hơn bảy mươi tuổi rồi mong được thư thả hãy chết để xem đức hóa của ông như thế nào, thực là sự may muôn năm mới gặp một lần).
(Trích bản dịch của Cao Huy Giu trong sách TVLT, tập 1 trang 216)
Để nhớ ơn một bậc thầy cao cả đã có công lớn gây dựng cho nội tổ mình là Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn), vị khai sáng triều đại nhà Lý văn minh, Vua Lý Nhân Tông (1072 - 1127) đã làm bài thơ truy tán quốc sư Vạn Hạnh:
"Vạn Hạnh dung tam tế
Chân phù cổ sấm thi
Hương quan danh Cổ Pháp
Trụ tích trấn vương kỳ"
Thiền sư học rộng bao la
Giữ mình hợp phép sấm ra ngoài lời
Quê hương Cổ Pháp danh ngời
Tháp bia đứng vững muôn đời đế đô
THÍCH MẬT THỂ dịch
Nhà văn Lê Văn Siêu, tác giả sách VĂN MINH VIỆT NAM đã viết về ngài vạn Hạnh:". Người ấy thì phải có công nghiệp, mà công nghiệp này nhất định có Người ấy mới làm nổi. Bởi Người thức cảm hơn ai hết, sự áp bức của nền văn hóa ngoại lai còn nguy hiểm gấp bội sự áp bức về chính trị, nên Người đã nêu cao ngọn cờ độc lập văn hóa".
". Trận đánh quân Nam Hán của Ngô Quyền ở Bạch Đằng Giang chỉ là một chiến công, gieo ảnh hưởng trong một thời gian ngắn để sau này phải có những trận đánh tiếp của Trần Quốc Tuấn, của Lê Lợi, của Nguyễn Huệ. Những trận đánh về văn hóa của SưVạn Hạnh đã là trận đại thắng gieo ảnh hưởng muôn đời về sau cho con cháu Rồng Tiên.
".. Sư Vạn Hạnh đã dàn một mặt trận văn hóa bao la trong cả không gian lẫn thời gian mà không một tư trào văn hóa ngoại lai nào có thể khiến dân tộc Việt Nam quên để quay theo".
(Sách dẫn thượng, trang 87, 88)
[2] Lý Công Uẩn, người làng Cổ Pháp, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, sinh ngáy 12 tháng 2 năm Giáp Tuất, tức ngày 8.3.973, niên hiệu Thái Bình thứ V nhà Đinh. Về gốc tích người ta không rõ lắm, chỉ biết bà mẹ là Phạm thái hậu. Lúc lên 3 tuổi, ông được nhà sư Lý Khánh Vân, trụ trì chùa Tiêu Sơn, nhận làm con nuôi, sau theo học với ngài Vạn Hạnh ở chùa Lục Tổ. Ông là người thông minh, nhân đức, có độ lượng của bậc đế vương. (VSTA) Theo Công Dư Tiệp Ký thì lúc nhỏ Lý Công Uẩn hay nghịch, một hôm bị thày phạt, trói bắt nằm dưới đất, đêm khuya muỗi đốt không ngủ được. Chú tiểu liền tức cảnh ngâm bài thơ: "Thiên vi khâm chẩm, địa vi chiêm, Nhật nguyệt đồng song đối ngã miênDạ thâm bất cảm trường thân túc,
Chỉ khủng sơn hà xã tắc điên"
(Trời làm chăn gối, đất làn đệm,
nhật nguyệt nhìn ta ngủ trước thềm.
Đêm khuya không dám dang chân duỗi,
Chỉ sợ sơn hà xã tắc nghiêng).
Bài thơ trên trích trong Thơ Văn Lý Trần T1.
Dưới thời Tiền Lê, ông làm đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Năm 1009, Long Đĩnh chết. Ông được triều đình tôn lên ngôi vua, tức Lý Thái Tổ, lấy miếu hiệu là Thuận Thiên Nguyên Niên (1010), mở đầu một kỷ nguyên mới của nước Đại Việt hùng mạnh kéo dài trên 2 thế kỷ. (1010 - 1225)
Thái Tổ trị vì 19 năm, mất ngày 3 tháng 3 năm Mậu Thân, niên hiệu Thuận Thiên XIX (31-3-1028), trụ thế 55 năm.
[3] Trường hơp ngài VIÊN THÔNG, họ Nguyễn, quê Nam Định, tu tại chùa Quốc Ân. Năm thứ IV niên hiệu Đại Định (1143), đời vua Anh Tông, ngài được phong làm quốc sư. Sử chép: Đời Lý Thần Tông niên hiệu Thiên Thuận thứ III vua cho triệu ngài vào điện Sùng Khai để hỏi về việc trị loạn hưng vong trong nước, ngài tâu (chép nguyên văn chữ Hán trong thiền Uyển Tập Anh(: "Thiên hạ do khí dã, trí chư an tắc an, trí chư nguy tắc nguy, nguyện tại nhân chủ sở hành hà như nhĩ. Hiếu sinh chi đức hợp vu dân tâm: cố dân ái chi như phụ mẫu, ngưỡng chỉ như nhật nguyệt. Thị trí thiên hạ đắc chi an giả dã. "Hựu vân: trị loạn tại thứ quan, đắc nhân tắc trị, thất nhân tắc loạn. Thần lịch quan tiền thế đế vương vị thường bất dĩ dụng quân tử nhi hưng, dĩ dụng tiểu nhân nhi vong giả dã. Nguyên kỳ trí thử phi nhất triệu nhất tịch chi cố; sở do lai giả tiệm hĩ. Thiên địa bất năng đối vi hàn thử, tất tiệm ư xuân thu; nhân quân đốn vi hưng vong, tất tiệm ư thiện ác.
1. Phép Thanh Miêu, khi lúa còn xanh thì nhà nước cho dân vay tiền, đến khi lúa chín thì dân phải trả tiền lại, tính theo lệ nhà nước đã định mà trả tiền lãi.
2. Phép Miễn Dịch, cho những người dân đinh mà ai phải sưu dịch thì được nộp tiền, để nhà nước lấy tiền ấy thuê người làm.
3. Phép Thị Dịch, đặt ra một sở buôn bán, ở kinh sư, để cho những thứ hàng hóa gì mà dân bán không được, thì nhà nước mua thu cả lấy mà bán. Những người con buôn mà ai cần phải vay tiền thì cho vay rồi cứ tính theo lệ nhà nước mà trả tiền lãi.
Về Hành chính:
4. Thế Bảo Giáp, lấy dân làm lính. Chía ra 16 nhà làm một đô bảo. Một bảo có đặt hai người chánh phó để dạy dân luyện tập võ nghệ.
5. Phép Bảo Mã, nhà nước giao ngựa cho các bảo phải nuôi, có con nào chết thì dân phải theo giá đã định mà thường lại. (dẫn theo VNSL, muốn rõ hơn, xin coi thêm Lý Thường Kiệt).
[15] Lịch sử Việt Nam, tập I, trang 153. [16] Số 5.000 người Chiêm Thành này được vua Lý Thái Tông cấp ruộng đất, lập thành phường ấp để họ làm ăn sinh sống một cách tự do bình đẳng như mọi công dân khác trong nước. [17] ĐVSKTT chép rằng sau khi vua có ý kiến này, bầy tôi vẫn cố nài, vua đành phải nhận. [18] "Lê thị Ỷ Lan, tên thật là Lê thị Yến năm sinh chưa rõ, xuất thân từ một gia đình nông dân, người hương Thổ Lỗi, lộ Bắc Giang. Nhân một chuyến tuần du đến Thổ Lỗi, vua Lý Thánh Tông (1054 - 1072) bắt gặp bà đang hái dâu. Trong lúc mọi người đi xem xa giá của vua thì bà vẫn đứng dựa vào cây lan mà hát: "tay cầm bán nguyệt xênh xang một trăm bó cỏ lại hàng ta đây" Vua lấy làm lạ, cho vời tới hỏi, sau đó đón vào cung lập làm phu nhân, đặt hiệu Ỷ Lan (dựa gốc cây Lan), rồi lại phong làm Linh Nhân.Với cương vị nguyên phi, bà đã thay vua Lý Thánh Tông lo việc nội trị trong thời gian vua đi đánh Chiêm Thành (1069). Bà còn bỏ tiền trong nội phủ ra chuộc những người con gái nhà nghèo đi ở đợ rồi gả cho những người chưa vợ. Việc làm đó được nhân dân ghi nhớ, gọi tên là "Quan Âm". Bà là người mộ Đạo Phật, từng đi du ngoạn nhiều nơi để tìm cảnh đẹp rồi cho xây tháp, dựng chùa. Vào những năm cuối đời mình, bà vẫn không quên chú ý đến đời sống của dân chúng.
Trước khi mất vài ba tháng, bà còn khuyên vua ra lệnh cấm tệ giết trâu bò bừa bãi để dân đủ trâu cày, thoát khỏi tình trạng mấy nhà cày chung một con trâu" (TVLT, t1 trang 352)
"Thái hậu Linh Nhân không phải là người xa lạ, tên bà đã khắc đến nhiều lần trong CM. Đó là mẹ vua Nhân Tông nhà lý (1073 - 1197). Bà được con truy tặng là Phù Thánh Cảm Linh Nhân vào năm Thái Ninh (1073)" (CM).
Bà là một Phật tử nhiệt thành, từng có công lớn đối với Đạo Phật Việt, ngoài những việc như xây trên 100 chùa và tháp tại nhiều nơi trong nước, về mặt truyền bá chính pháp, đã có lần bà cho mở hội để thỉnh các vị cao tăng thạc đức từ khắp nơi về chùa Kinh Quốc thiết lễ cúng dường và xin được nghe pháp. Bà đã đặt câu hỏi về NGUỔN GỐC ĐẠO PHẬT VIỆT, việc này xảy ra vào ngày rằm tháng hai, mùa xuân, niên hiệu Hội Phong thứ V (1086).
[19] Theo Việt Nam Sử Lược: "Lúc Nhân Tông lên làm vua mới có 7 tuổi, có quan thái sư là LÝ ĐẠO THÀNH làm phụ chính. Ông là người dòng họ nhà vua, tính rất khoan chính, hết lòng lo việc nước. Thường những lúc sớ tấu đều hay nói việc lợi hại của dân. Những quan thuộc thì chọn lấy người hiền lương mà cất nhắc lên để làm mọi việc. Bởi vậy trong thì sửa sang việc chính trị, ngoài thì đánh nhà Tống, phá quân Chiêm. Ấy cũng nhờ có tôi hiền tướng giỏi cho nên mới thành được công nghiệp như vậy - (Sđd trang 101) - [20] Sách Lý Thường Kiệt ghi: Theo Việt Sử Lược, từ khi Lý Thánh Tông đánh bại đến hết đời Nhân Tông, Chiêm Thành sai sứ cống vua Lý, vào những năm: 1071, 1073, 1075, 1077, 1081, 1082, 1083, 1084, 1085, 1086, 1087, 1088, 1089, 1091, 1094, 1095, 1097, 1098, 1099, 1102, 1104, 1105, 1106, 1108, 1110, 1111, 1116, 1118, 1120, 1126. [21] HOÀNG XUÂN HÃN, trong sách LÝ THƯỜNG KIỆT, có nêu lý do vì sao Lý Thánh Tông đã khởi binh đánh Chiêm Thành. Theo ông, ngoài việc Chiêm Thành không chịu cống vua Lý. Còn một nguyên nhân khác sâu xa hơn, đó là: ".Lý Thánh Tông là vua nước ta đầu tiên có óc làm một đế quốc, có danh nghĩa với một nước Thiên tử. Vua đặt quốc hiệu Đại Việt (1054), tôn các vua trước là Thái Tổ, Thái Tông, coi các nước nhỏ là chư hầu, và muốn ngăn cấm Chiêm Thành thần phục Tống".