Tập 1

20 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 10470)


 LÒNG THƯƠNG YÊU SỰ SỐNG

(THE LOVE of LIFE)
Tác giả: G.B. Talovick - Người dịch: HT. Thích Trí Chơn
Nhà Xuất Bản TP.HCM, Năm 2003 - 62 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 1


 MỤC LỤC

1. Chú Tiểu Sa Di Cứu Sống Đàn Kiến
2. Đại Sư Hsin Cầu Nguyện Chấm Dứt Nạn Hạn Hán
3. Giải cứu những Con Thỏ Bị Sập Bẩy
4. Đại Tướng Mao Và Con Rùa
5. Những Con chim Lo Việc Mai Táng
6. Đàn Ong Ngăn Chặn Một Vụ Án Xử Oan
7. Con Rùa Chữa Lành Bịnh Cho Người Hầu Gái
8. Một Ông Nhà Giàu Không Có Con
9. Những Viên Ngọc Rắn
10. Giải Cứu Đứa Con Của Long Vương
11. Quả Báo Của Một Việc Làm Ác
12. Một Trăm Mạng Sống
13. Tên Đồ Tể Đền Tội
14. Cái Lưỡi Dê
15. Sự Trả Thù Cuả Những Con Ếch
16. Tên Đồ Tể Biến Thành Miếng Thịt Hầm
17. Bị Đoạ Làm Chó
18. Những Con Lươn Trả Thù
19. Mười Một kiếp Đầu thai Làm Thân bò
20. Ao sen Và Con Rết
21. Một tai Nạn vì Săn bắn
22. Thần Linh trừng Phạt Người Ăn Thịt Chó

 

CONTENTS

1. The Sami Who Rescued The Ants
2. Master Hsin Ends A Drought
3. Releasing Trapped Rabbits
4. General Mao And The Turtle
5. Burial By A Birds
6. Bee’s Prevent A Miscarriage Of Justice
7. The Turtle Who Healed The Maid
8. The Childless Rich Man
9. The Snake’s Pearls
10. Saving The Dragon King’s Son
11. The Results Of Cruelty
12. One Hundred Lives
13. The Butcher’s End
14. The Goat’s Tongue
15. The Revenge Of The Field Chickens
16. Butcher Stew 
17. Going To The Dogs
18. Eels Take Revenge
19. Eleven Lives As Cow
20. Lotus Pond And the Centipede
21. A Typical Hunting Accient
22. Whipped By The God

CHÚ TIỂU SA DI CỨU SỐNG ĐÀN KIẾN

Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời. Chú học đạo rất nhanh. 

 Thầy của chú rất sáng suốt có thể đoán biết trước được chuyện tương lai. Lần đầu tiên mới gặp, vị thầy xem tướng biết thọ mạng của chú học trò nhỏ này sẽ kéo dài không lâu. Ngày nọ, ông ta tính ra và nhận thấy rằng chú học trò này chỉ còn sống được bảy ngày nữa thôi. Vị thầy rất buồn.

 Ông ta gọi người đệ tử lại và bảo rằng: “Này con, đã lâu lắm con không được gặp mẹ con. Thầy nghĩ con cần nghỉ một thời gian để về nhà thăm mẹ con và sau tám ngày hãy trở lại đây.” Vị thầy dạy như vậy với hy vọng rằng chú này có thể chết tại nhà cha mẹ của chú. 

Khi người đệ tử đi rồi, vị Thầy cảm thấy rất buồn cho chú. Ông ta nghĩ rằng ông không bao giờ có thể gặp lại chú nữa.

 Tám ngày sau, người đệ tử trở lại. Vị thầy mừng rỡ và rất ngạc nhiên thấy chú vẫn khỏe mạnh. Chú không lộ vẻ gì cho thấy rằng chú giống như người sắp lìa đời. 

Cuối cùng, vị thầy muốn tìm hiểu nguyên nhân tại sao. Ông nói với người đệ tử: “Này con, ta đã nhiều lần xem tướng đoán việc tương lai, và chưa bao giờ sai lầm.

Ta bảo con trở về thăm nhà vì ta biết chắc rằng con sẽ chết trong vòng bảy ngày. Nhưng bảy ngày đã trôi qua, không những con vẫn còn sống mà trông con có vẻ khỏe mạnh. Yểu tướng sắp lìa đời nơi con đã biến mất. Vậy con đã làm sao mà được như vậy?” 

Nghe nói thế, người đệ tử sửng sốt. Chú không biết phải trả lời với Thầy thế nào. Vị Thầy liền bắt đầu nhập định và biết rõ sự việc.

 “Trên đường về nhà có phải con đã cứu sống một đàn kiến?” 

“Thưa thầy, dạ có. Trên đường về nhà, con gặp thấy một đàn kiến rơi xuống nước. Nhìn thấy đàn kiến sắp bị chết đuối, con liền đưa một khúc gỗ xuống để cứu chúng.”

 “Đúng vậy. Do lòng từ bi cứu đàn kiến mà con được sống lâu. Các thánh nhân đã dạy rằng: ‘Cứu một mạng sống, phước đức lớn hơn xây dựng một ngọn tháp bảy tầng.’ Con nhờ cứu hàng trăm chúng sanh, mà con sẽ được sống trường thọ. 

“Nay tương lai của con thật huy hoàng, nhưng con vẫn nên tiếp tục cứu độ cho mọi chúng sanh. Con cần phải truyền bá giáo lý của đức Phật. Hãy dạy cho mọi người nên có lòng từ bi. Và khuyên tất cả đừng nên sát sanh. Hãy để cho mọi thú vật sống an lành.” 

Người đệ tử không bao giờ quên lời thầy dạy. Chú đã nỗ lực tinh tấn tu hành và trở thành một đại sư. Chú đã sống rất thọ, và trường thọ.
 

The Sami Who Rescued The Ants 

 Once there was a little sami who studied Buddhism with a very wise Teacher. He was a very good student. He was respectful, sincere, and obedient. He learned very quickly.

 The Teacher was so wise that he could foretell the future. The Teacher knew from the beginning that his little student could not live very long. One day he counted and realized that the little student had only seven days left to live. He felt very sad. 

The Teacher called the little sami to him. He said, “Hey, little sami, you haven’t seen your mother for a long time. think you need a vacation. You run on home and visit your mother, and come back eight days from now.” He did this so at least the little sami could die in his own parents’ home. 

 When the little sami left, the Teacher was very sorry. He thought he would never see his little student again.

 Eight days later, who should show up but the little sami! His Teacher was delighted, but he was also puzzled, because the little student looked wonderful. He didn’t look like someone who had been about to die. 

 Finally, the Teacher decided to find out what had happened. He told the boy, “Son, I have foretold the future many times, and I have never been wrong. 

I sent you home because you were doomed to die within seven days. But the seven days have already passed. Not only are you still alive, but you look great. The image of death has left you. How did you do it?”

The little sami was thunderstruck. He didn’t have any idea how to answer his Teacher, so the Teacher entered the settled state of meditation. Before long, he understood. 

 “Son, on the way home, did you save some ants?” 

 “Yes, Teacher, on the way home I saw a whole bunch of ants trapped by some water. They were about to drown, so I got a piece of wood and rescued them.” 

“That’s it, then. Your kind heart has earned you a long life. The wise men of old said, ‘Saving one life earns more merit than building a pagoda of seven stories.’ You have saved hundreds of lives, so you will live a very long time now. 

“You have earned a good future, but you still have to keep working to save living creatures. You must spread the message of the Buddha. Teach all people to be merciful. Tell everyone not to kill living creatures. Let animals live in peace.”

The little sami never forgot his teacher’s words. He worked very hard and became a great monk. He lived for a long, long time.
 
 

Đại Sư Tín Cầu Nguyện Chấm Dứt Nạn Hạn Hán 

Đại sư Tín là một vị Tăng có nhiều trí tuệ và thần lực. Đây là thành quả do con người nỗ lực tu tập mới có được. Tánh tình nhà sư rất hiền hậu và có lòng thương bao la. 

Một hôm, nhà sư gặp một ông lão già đánh cá, tay xách cái giỏ. Nhìn vào, nhà sư thấy đầy một giỏ rùa. Nhà sư biết rằng ai mua những con rùa này, họ sẽ giết chúng để nấu ăn. Nhà sư liền nghĩ: “Này những con rùa đáng thương, các con không muốn người ta giết thịt phải không?” Vị sư liền lấy tiền ra mua hết giỏ rùa và đem thả chúng xuống “Hồ Nước Sống Giải Thoát.” 

Vài năm sau, xảy ra một trận hạn hán khủng khiếp. Mọi người nông dân đều lo lắng, vì nếu trời không mưa, lúa không mọc được thì họ sẽ có thể bị chết đói. Dân chúng biết rõ về hiểm họa chết đói ấy vì nó vẫn thường xảy ra. Khi có nạn hạn hán, hàng trăm người sẽ bị thiếu ăn. Người ta phải ăn cỏ hoặc vỏ cây để sống, và nhiều người sẽ chết đói. 

Trước đây khi bắt đầu xảy ra hạn hán, các nông dân thường giết bò và dê cúng tế để cầu mưa, nhưng thường thì không mang lại kết quả mấy. 

Lần này có nông dân đưa ra một ý kiến hay: “Chúng ta nên đến nhờ đại sư Tín giúp đỡ. Vì đại sư có nhiều quyền phép nên ngài có thể cứu giúp chúng ta được.”

 Đông đảo dân chúng kéo lên chùa và thỉnh cầu đại sư Tín làm cách nào để có mưa. Vị sư cười và bảo họ: “Chắc chắn được, không khó khăn gì. Tôi sẽ cầu nguyện cho trời mưa, nhưng trước hết quý vị hãy giúp cho điều này. Từ nay đến ngày làm lễ không ai có thể giết hại sinh vật. Ngoài ra, mọi người đều phải ăn chay. Nếu không thì, việc cầu nguyện sẽ không có kết quả.” 

Ngay cả những người có tâm địa hẹp hòi không thể sống mà không có thịt nghĩ rằng dùng thực phẩm chay chứ đâu phải nhịn không ăn gì hết đâu nên mọi người đã kính trọng vâng lời đại sư Tín và tất cả đều hứa họ sẽ không giết hại bất cứ sinh vật nào cũng như sẽ không ăn thịt hay thực phẩm làm bằng thịt. 

Vào ngày lễ, dân chúng địa phương lên chùa với lễ vật trái cây và hương đèn. Đại sư Tín đang chờ họ. Khi mọi người đã sẵn sàng, nhà sư thắp hương và bắt đầu khấn nguyện đọc chú: “Om! Dajrta Salo Salo.” 

Một vài người nói: “Tôi không hiểu ông ta đọc cái gì.” 

Mấy bạn khác hỏi người bên cạnh: “Ông có nghĩ rằng mọi việc đang diễn tiến tốt đẹp?” 

Nhiều người nói: “Nếu nhà sư cầu đảo cho mưa được, từ nay tôi sẽ phát nguyện ăn chay.”

Đại sư Tín chú tâm cầu nguyện, và trước khi cây hương đầu tiên vừa cháy hết, mây đen hiện ra trên bầu trời và đổ mưa như trút nước xuống mặt đất khô cằn. Mọi người đều thành kính quỳ xuống, tỏ lòng biết ơn nhà sư với nước mắt chảy ràn rụa trên mặt của họ chan hòa với nước mưa đẫm ướt.
 
 
 

Master Hsin Ends A Drought

Master Hsin was a monk with the deep wisdom and great powers that can be earned only by carefully developing your behavior. He was merciful and lenient. 

Once he saw an old fisherman with a basket. He looked in the basket and saw that it was full of turtles. He knew that whoever bought the turtles would eat them. “Poor turtles,” he thought, “You wouldn’t like to die, would you?” So he got out his wallet and bought the whole basketful, and let them go in a Free Life Pond. 

A few years later, there was a terrible drought. All the farmers were worried, because if it didn’t rain, their crops wouldn’t grow, and they might starve to death. People then knew all about starving to death, because it happened so often. When there was a drought, there would be so many hungry people that they couldn’t all be fed. People would eat weeds and bark to stay alive, and many people would die. 

Sometimes when a drought began, the farmers would sacrifice cows and goats for rain, but that usually didn’t do much good. 

 This time, one of the farmers first had a good idea. “Let’s ask Master Hsin for help. He’s so powerful, he ought to be able to do something!”

A whole crowd went to the temple and asked Master Hsin to bring rain. He smiled quietly, and told them, “Sure, no problem. I"ll pray for rain for you, but you have to help. first. From now until our ceremony, none of you can kill anything. Until then, all of you have to eat only vegetarian food. Otherwise, it won’t work.” 

Well, even for some selfish people who can’t go without meat, vegetarian food beats no food at all, and everybody respected Master Hsin anyway, so they all promised they wouldn’t kill anything or eat any meat or animal products. 

On the day of the ceremony, all the local people came to the temple with offerings of fruit and incense. Master Hsin was waiting for them. When everybody was ready, he lit some incense and began to pray: “Om! Dajrta salo salo...” 

 “I can’t understand a word he’s saying,” someone said. 

“Do you really think this is going to work?” some of the people asked their neighbors. 

Many people said, “If he really pulls this one off, I’m going to become a vegetarian from now on.”

 The Master kept praying, and before the first stick of incense had burned down, the clouds opened up and poured rain on the thirsty earth. All the people knelt in respect, and you couldn’t tell if their faces were wet from the rain or from their tears of gratitude.

Giải cứu những Con Thỏ Bị Sập Bẩy 

Ngài Huệ Năng, một đại sư Trung Hoa sống vào những năm 638 đến 713 sau Tây Lịch. Gia đình ngài rất nghèo đến nỗi ngài không bao giờ được cắp sách đến trường để học đọc hay viết. Ngài vốn có trí tuệ đặc biệt, và sau khi tìm hiểu Phật giáo, ngài đã xuất gia đi tu. Ngài tinh tấn tu hành, và ít lâu sau ngài chứng quả, giác ngộ. Thầy của ngài, vị tổ thứ năm của Thiền tông đã trao cho ngài y bát của vị tổ đầu tiên, ngài Bồ Đề Đạt Ma, mang từ Ấn Độ sang Trung Quốc. Ngài Huệ Năng trở thành vị tổ thứ sáu của Thiền tông, mà người Nhật gọi là Thiền (Zen). 

Sau khi chứng đạo giác ngộ, ngài nhận thấy con người đã tự gây ra sự đau khổ cho mình bởi họ đã giết loài vật để ăn thịt. Ngài khuyên mọi người nên chấm dứt việc sát hại lẫn nhau để khỏi gặp thảm họa nhưng không ai chịu nghe! 

Ngài Huệ Năng rất buồn thấy những người thợ săn thường hay giết thú rừng cho nên ngài đã cởi bỏ y áo và giữ tóc dài để không ai biết ngài là nhà sư. Rồi ngài tham gia vào đoàn người thợ săn và theo họ đi săn tháng này qua tháng khác trong rừng hoặc trên núi. 

Ngài Huệ Năng không thể bắn hay sập bẫy, bởi vậy đoàn thợ săn đã giao cho ngài trông coi các chiếc lưới. Đó là công việc mà ngài ưa thích. Khi thấy con nai hay con thỏ nào bị mắc vào lưới. Nếu nhìn xung quanh không có người thợ săn nào, ngài liền tháo lưới để cho những con vật chạy thoát.

Nếu có mặt những người thợ săn, ngài liền van xin yêu cầu họ thả chúng ra. 

Ngài chung sống với đoàn thợ săn trong mười sáu năm. Nhờ vậy không những ngài đã cứu thoát được nhiều thú vật, mà còn giáo hóa cho những tên thợ săn thấy được sự tàn ác của việc làm sát sinh này để họ tìm một nghề sinh sống khác lương thiện hơn. 

Ngài Huệ Năng về sau đã xây dựng một ngôi chùa. Với lòng thương bao la và trí tuệ sáng suốt của ngài khiến cho mọi người từ khắp nơi xa xôi đã đến học đạo với ngài, và trở thành những người Phật tử. Các đệ tử của ngài đã truyền bá Thiền Tông vào Đại Hàn, Nhật Bản, và hiện nay sang Châu Âu và Châu Mỹ.
 
 
 

Releasing Trapped Rabbits 

The great monk Huineng lived from 638 to 713 AD. His family was so poor that he never had the chance to go to school to learn to read or write. He had very deep natural wisdom, though, and as soon as he found out about Buddhism, he made up his mind to become a monk. He worked very hard and soon achieved enlightenment. His Teacher, the Fifth Patriarch, or Master, of the Ch’an school, passed to him the robe and bowl which the First Patriarch, Bodhidharma, had brought from India. Huineng became the Sixth Patriarch of the Ch’an school, which the Japanese call Zen. 

When he achieved enlightenment, he realized the trouble people cause themselves by killing animals for food. He told people to stop eating themselves into disaster, but nobody listened. 

 Huineng felt sorry for the hunters who kill wild animals, so he took off his robes and let his hair grow so he didn’t look like a monk anymore. He joined a group of hunters who spent months and months hunting in the wilds and the mountains. 

Huineng wouldn’t shoot or trap, so the hunters told him to watch the nets. That was just what he wanted. When he saw a deer or rabbit tangled in the nets, if the hunters were not around, he freed the animals. 

If the hunters were there, Huineng cried and begged them to release the animals. 

He stayed with the hunters for sixteen years. In this way he not only saved many animals, but reformed the hunters as well. They realized the cruelty of their occupation, and found other ways to make a living. 

Then Huineng set up his own temple. He was so kind and so wise that people came from miles around to learn from him, and to become Buddhists. His disciples passed his Ch’an, or Zen, teaching to Korea and Japan, and now it has spread to Europe and America, too.

Đại Tướng Mao Và Con Rùa 

Tại Trung Hoa và đời nhà Tấn khoảng hơn 1.600 năm trước, có một nhà thông bác tên Mao Bảo rất thương yêu loài vật. Một hôm nọ, trước khi trúng tuyển kỳ thi của triều đình và trở thành một quan chức của chính phủ, ông gặp một người đánh cá đang xách một con rùa anh ta vừa bắt được để mang ra chợ bán. Ông Mao Bảo liền mua con rùa và thay vì làm thịt để ăn, ông mang nó ra thả nơi hồ nước gần đó. 

Sau này, ông Mao Bảo trở nên một vị đại tướng có nhiều thế lực. Các đại tướng dù tài giỏi đến đâu, đôi lúc cũng bị thất trận; cho nên tại chiến trường ở Chuch’eng, quân đội của đại tướng Mao bị đánh bại bởi tướng Chilung và quân của Mao phải trốn chạy để tìm đường sống. 

Quân thù rượt đuổi theo rất khẩn cấp. Đại tướng Mao cũng chạy nhanh không kém. Khi ông đến một hồ nước lớn nhưng nhìn quanh ông không thấy một chiếc cầu hay thuyền bè nào. Không có cách gì để vượt qua hồ nước. Đại tướng Mao cũng không biết bơi; và hơn nữa, mặc áo giáp nhà binh nặng nề, khi xuống nước chắc ông sẽ bị chìm xuống đáy hồ. 

Ông nhìn lui thấy quân thù rượt đuổi gần kề. Ông nhìn lên trời và than: “Trời đất đã bỏ rơi tôi rồi!” 

Để khỏi rơi vào tay kẻ thù, đại tướng Mao nghĩ đến chuyện tự sát. Ngay khi ông vừa muốn tự tử ông liền thấy một vật gì to lớn hiện trồi lên mặt nước và đang tiến sát cạnh bờ hồ, nơi ông dự tính sẽ tự kết liễu đời mình. 

Đại tướng Mao không còn có thì giờ để suy nghĩ về vật thể đang trồi nổi trên mặt hồ. Quân thù rượt đuổi theo càng ngày càng gần ông hơn. Ông tự nghĩ: “Nếu tự sát ở đây, quân thù sẽ cướp lấy thân xác và điều đó sẽ làm nhục cho quốc thể và vị hoàng đế của ta. Vậy tốt hơn ta nên gieo mình xuống hồ nước và như thế quân thù sẽ không tìm thấy xác của ta.” Cuối cùng, ông liền nhảy xuống hồ nước. 

Nhưng ông ngạc nhiên thấy chân mình như chạm đứng trên một vật gì và vật đó bắt đầu rời bờ, vượt qua hồ nước tiến sang bờ bên kia. Đại tướng Mao vô cùng kinh ngạc. 

Quân thù rượt đuổi sát cạnh hồ nước. Chúng bắn tên như mưa vào đại tướng Mao, nhưng ông ta đã vượt thoát ra xa. Những mũi tên đều rơi xuống nước và không trúng ông. 

Đại tướng Mao nhìn xuống và nhận thấy mình đang đứng trên lưng một con rùa to lớn. Nó đã mang đưa ông vượt qua đến bờ hồ bên kia. Đại tướng Mao bước lên bờ. Con rùa hiện trồi lên mặt nước, và chào ông. Rồi nó lặn xuống hồ và bơi đi. 

Đại tướng Mao liền nhớ lại mười hai năm trước ông đã cứu thoát một con rùa và thả nó xuống hồ nước, chính ngay tại hồ này! 

Giờ đây khi gặp nạn cùng đường con rùa biết ơn đó đã hiện ra để cứu sống cho ông. Đúng là, xưa người cứu vật sống, nay vật cứu sống người!
 
 
 

General Mao And The Turtle 

 During the Chin dynasty about 1,600 years ago, there was a kind-hearted Confucian scholar named Mao Pao. Once, before he had passed the imperial examinations and become a government official, he happened to see a fisherman on his way to the market to sell a turtle he had caught. Mao Pao immediately bought the turtle, but instead of eating it, he took it to a nearby lake and let it go. 

Later, Mao Pao became a very powerful general. Even the best generals lose sometimes, though, and at Chuch’eng, General Mao’s forces were beaten by Chilung, and they had to run for their lives. 

 The enemy was following hot on their heels. General Mao was running as fast as anyone else. He reached a lake, but there were no boats around, and there was no bridge. There was no way to cross the water. General Mao couldn’t swim, and anyway, he was dressed in battle armor, which would carry him straight to the bottom. 

He looked back and saw the enemy was almost on top of him. He sighed and said, “The heavens have abandoned me!” 

 Rather than fall into enemy hands, General Mao prepared to take his own life. Just as he was about to commit suicide, he noticed something huge come to the surface of the water, and float over close to the shore where he was preparing to kill himself. 

He had no time to worry about what was floating in the lake. The enemy was coming closer and closer. General Mao decided, “If I kill myself here, the enemy will capture my corpse, which will disgrace my country and my emperor. It will be better for me to throw myself into the lake so they cannot find my corpse.” With that, he leaped into the water of the lake. 

But to his surprise, he landed on something. Then he started to move away from the shore, across the lake, to the other side. General Mao was astonished. 

The enemy reached the lake. They shrieked and howled and shot arrows at General Mao, but he was already out of range. The arrows fell into the water and didn’t hit him. 

General Mao looked down and discovered he was standing on a huge turtle! The turtle took him to the other side of the lake. General Mao got off and climbed up the bank. The turtle came to the surface and nodded to him. Then it sank back into the water and swam away. 

The General Mao remembered that dozens of years before, he had saved a turtle and released it in a lake — this very lake! 

Now, in his time of need, the turtle had come to rescue him: a life for a life!

Những Con chim Lo Việc Mai Táng 

Ngày xưa, có một vị ẩn tu sống trong một túp lều nhỏ. 

Tên của vị đó là Tôn Lương. Ông ta rất nghèo, nhưng tính tình chân thật và có lòng thương loài vật. Ông ta làm nhiều công việc lặt vặt. Và tiền ông kiếm được rất ít. Khi thấy con vật nào bị sập bẫy, nếu có đồng nào, ông liền mua con vật đó để thả cho nó chạy vào rừng. 

Bằng cách này, ông đã cứu thoát vô số loài vật, nhưng ông không thể để dành được nhiều tiền, do đó ông vẫn rất nghèo. 

Khi đến tuổi già không làm gì được nữa, ông phải đi xin ăn để sống qua ngày. Ngày nọ, khi già trên 70 tuổi ông quá yếu phải nằm trên giường không ngồi dậy nổi và ít lâu sau, ông từ trần. 

Tôn Lương không có bạn bè và thân nhân. Ông nghèo đến nổi không có tiền để mua một chiếc hòm. Đối với người Trung Hoa, điều bất hạnh nhất là khi mình chết mà không có ai lo việc chôn cất. Ông Tôn Lương cũng không có một người thân chăm sóc. Đa số những người láng giềng đều nghèo như ông. Họ không hay biết là ông đã qua đời, nhưng dù họ có biết chăng nữa, chắc chắn họ cũng không có đủ tiền để sắm nổi một chiếc hòm và lo việc mai táng cho ông. 

Vào buổi sáng sau khi ông Tôn Lương mất, người hàng xóm ngạc nhiên thấy trên trời hiện ra đầy chim chóc. Hàng nghìn con chim từ khắp nơi bay đến chỗ túp lều của ông. Những người láng giềng đổ xô lại xem cho biết việc gì đã xảy ra. Họ thấy ông Tôn Lương đang nằm chết trên giường. Họ tưởng rằng những con chim đó bay lại để rỉa rứt ăn thịt ông. 

Rồi họ ngạc nhiên thấy mỗi con chim ngậm nơi mõ của nó một ít đất và nhả đất này xuống trên thân xác của ông Tôn Lương. Đàn chim bay lại để tỏ lòng biết ơn và lo việc mai táng cho người đã từng cứu sống chúng. 

Hàng nghìn và hàng nghìn con chim đã bay đến. Chúng bay lui bay tới. Vào trước buổi trưa, chúng đã thả đất lấp đầy túp lều của ông; và xây thành một nấm mộ cho ông Tôn Lương. 

Những người hàng xóm đều vô cùng xúc động khi nhìn thấy cảnh tượng này. Từ đó về sau, họ không bao giờ đặt lưới hay bẫy sập một con vật nào.
 
 
 

Burial By Birds

A lonely man lived by himself in a little hut. 

His name was Sun Liang. He was dirt poor, but he was honest and kind. He did odd jobs. His pay was very low. Whenever he saw an animal in a trap, if he had any money, he would buy the animal and set it free in the forest. 

In this way, he saved many animals, but he didn’t save any money, so he was still very poor.

 When he was too old to work, he had to beg for food to stay alive. One day when he was over seventy years old, he was too weak to get up from his bed, and before long, he left this world.

Sun Liang had no relative and no friends. He was so poor that he didn’t even have enough money for a coffin, and for Chinese people, the worst possible fate is to die and not get buried. But there was nobody to look after him. His neighbors were almost as poor as he was. They didn’t know he was dead, and even if they had, they certainly didn’t have enough money to buy him a coffin and bury him. 

The morning after Sun Liang died, the neighbors were amazed to see the sky full of birds. Thousands of birds came from all directions and flew into Sun Liang’s hut. The neighbors came to see what was wrong. They saw Sun lying dead on his bed. They thought the birds must have come to peck the flesh off his bones. 

Then they saw that every bird brought a little soil in its beak, and dropped the soil on Sun’s body. They had come to show their gratitude by burying their savior! 

Thousands and thousands of birds came. They flew back and forth. Before noon, they had filled his whole hut with soil and turned it into a tomb for Sun Liang. 

The neighbors were deeply touched when they saw this. From then on, they never caught another animal in a trap or a net. 

Đàn Ong Ngăn Chặn Một Vụ Xử Oan

Ngày xưa, có ông chủ một quán ăn trông thấy một con ong bay rớt vào trong hủ rượu của ông. Người chủ quán cảm thấy tội nghiệp cho con ong bé nhỏ, ông liền hạ thấp chiếc đũa để cho nó leo lên đó mà bò ra. Ông đặt chiếc đũa xuống và nhìn con ong đang tìm cách tự làm khô mình. Nó đập nhẹ hai cánh để mau khô hơn. Khi con ong hoàn toàn khô rồi, nó bay lên và kêu vo vo. 

Sau đó, người chủ quán nhận thấy những con ong khác cũng bị thu hút bởi mùi rượu nên đã bay tới rớt vào và chết đuối trong hủ rượu. Từ đó, ông chú ý đến chúng và đã cứu sống được rất nhiều con ong. 

Ông làm việc phước đức này tiếp tục trong nhiều năm. Một ngày nọ, ông giật mình thấy lính của nhà vua vào quán, và không một lời giải thích họ còng tay áp giải ông tới pháp đình. Khi đến nơi, người chủ quán mới biết rằng ông bị người ta vu oan giá họa. Vài tên cướp bị bắt đã tố cáo ông nằm trong băng đảng của họ; cho nên quan tòa thụ lý vụ án đã quyết định xử chém đầu ông cùng với những tên cướp khác. 

 Người chủ quán đã kêu than rằng ông ta vô tội, nhưng bọn cướp vẫn nhứt quyết bảo rằng ông có tội; cho nên quan tòa đã tuyên bố rằng ông ta phạm tội. Lòng người chủ quán vẫn bìnhthản không chút sợ hãi khi nhìn thấy vị quan tòa cầm bút lông đỏ phê bản án tử hình buộc tội ông ta. 

Ngay vừa lúc ông chánh án cầm bút lông định phê bản án thì ông nghe tiếng vo ve ồn ào mỗi lúc một gần và ngày càng rõ hơn. Một đàn ong bay vào cửa sổ và bu đậu nơi đầu bút lông đỏ của vị quan tòa. Ông vảy mạnh ngọn bút lông để hất mấy con ong ra, nhưng nhiều con khác lại tiếp tục bay đến. Đàn ong không chích đốt, nhưng chúng không chịu bay đi. 

Vị quan tòa nhận thấy đây là một việc hết sức kỳ lạ. Ông liền suy nghĩ: “Có thể những con ong này bay đến để ngăn chận không cho ông phê chuẩn một bản án hoàn toàn oan ức.” 

Do đó, vị quan tòa cho xem xét lại hồ sơ những tên cướp này và tìm thấy có nhiều mâu thuẩn trong lời khai của chúng. Ông liền cho điều tra bọn cướp trở lại. Lần này ông chắc rằng ông đã kết án một người vô tội. 

Chỉ sau khi bản án tử hình của người chủ quán được vị quan tòa hủy bỏ những đàn ong mới chịu bay đi! Rồi ông quan tòa hỏi tên chủ quán có biết tại sao đàn ong bay đến cứu thoát cho ông không? 

“Thưa ngài tôi thực sự không biết, nhưng có thể là do tôi đã cứu sống nhiều con ong bị chết đuối trong những hủ rượu của tôi. Chúng ngửi thấy mùi rượu nên bay đến, rơi vào trong đó và không thể thoát ra được. Thấy vậy, tôi luôn luôn cứu sống chúng. Giờ đây, chúng bay đến để cứu giúp lại tôi. Thưa ngài, tôi nghĩ chắc là như vậy.”

“Thực là một việc hết sức mầu nhiệm! Ông gặp cảnh ngộ thập tử nhứt sanh. Nhưng ông thoát chết nhờ ông đã hành thiện. Vậy ông nên cố gắng làm nhiều việc lành hơn nữa. Chắc chắn tương lai ông sẽ hưởng toàn quả phúc 

Những lời dạy của vị quan tòa chứng tỏ đã đúng với sự thực. Người chủ quán đã làm tất cả mọi việc lành mà ông có thể. Công việc làm ăn của ông mỗi năm mỗi phát triển. Ông sống cuộc sống trường thọ, giàu sang, hạnh phúc, và chết một cách an lành.
 
 
 

Bees Prevent A Miscarriage Of Justice 

One day a bartender in a tavern happened to see that there was a bee drowning in one of his kegs of liquor. He felt sorry for the little bee, so he lowered a chopstick to the bee for it to climb out on. He put the chopstick down, and watched as the bee dried out. It flapped its wings so they would dry out faster. When it was all dry again, it flew away buzzing busily. 

 After that, the bartender noticed that quite a few bees were attracted by the smell of the liquor, fell in, and drowned. From then on, he kept an eye out for them, and rescued many bees. 

This went on for many years. One day, he was startled when bailiffs from the court marched into his tavern and, without a word of explanation, handcuffed him and marched him off to the court. When he got there, he discovered that he had been framed. Some captured bandits who held a grudge against him said that the bartender was one of their gang, so the judge in charge of the case had him hauled in to behead him with the rest of them. 

The bartender protested that he was innocent, but the bandits had already said he was guilty, so the authorities assumed he was guilty. The bartender’s heart went cold as he saw the main judge pick up the red brush used for writing out the death sentence. 

Just as the main judge picked up his brush to write, a loud buzzing was heard coming closer, getting louder and louder. A great swarm of bees came flying in the window and landed on the judge’s red brush! The judge waved the brush to shake them off, but more and more bees came. They didn’t sting, but they wouldn’t go away, either. 

The judge thought this most extraordinary. “Perhaps,” he mused, “These bees are here to prevent a miscarriage of justice.” 

At that, the main judge examined the bandits again, and found contradictions in their testimony. He grilled them over again. This time he was sure that he had almost executed an innocent man. 

Only when the judge called off the bartender’s death sentence did the swarms of bees fly away. Then the judge asked the bartender if he knew why the bees had come to save him. 

“I really don’t know either, your honor, but maybe it’s because I have saved lots of bees that almost drowned in my vats of liquor. They come to the smell, you know, and then they fall in and can’t get out. When I see that, I always save them. Now they’ve come to save me, I guess, your honor.” “This is truly wonderful! You have had a narrow escape. Always remember that you owe your life to your good deeds. Remember to do all the good deeds you can. You are sureto enjoy good fortune in the future.” 

The judge’s words proved true. The bartender kept doing all the good deeds he could. His business got better year after year. He lived a long, happy life, and died peacefully, a very rich man.

Con Rùa Chữa Lành Bịnh Cho Người Hầu Gái 

Vợ chồng ông Trần vì có chút việc bận đi ra ngoài nên đã dặn người đầy tớ gái: “Cô nhớ rửa thật sạch con rùa trước khi nấu chín nó. Vì con rùa quá lớn nên cô phải cẩn thận luộc nó cho thật kỹ. Cố gắng làm tốt công việc của cô nghe.” 

Cô hầu gái trả lời: “Chắc chắn, tôi biết nấu mà.” Khi mọi người đi rồi, cô ta vào trong bếp, đứng nhìn con rùa và nghĩ đến cách phải nấu ra làm sao. Ngay lúc cô trông thấy con rùa đang nằm trên nền nhà, cô cảm thấy thương hại nó. Cô bảo thầm: “Này con rùa khốn khổ. Hẳn chắc rằng con thích bơi lội dưới sông hơn là trong nồi nước xúp?” 

Tại sao người hầu gái xót thương con rùa đặc biệt này? Cô đã giết nấu nhiều rùa cho gia đình ông Trần vì họ thích ăn thịt rùa. Cô cảm thấy tội nghiệp cho con rùa nên cô đã nhặt nó lên mang ra cửa và thả cho nó bò đi. 

Rồi cô nghĩ: “Ta không thể làm vậy được vì khi ông bà Trần trở về mong dự bữa tiệc thịt rùa mà ta lại bảo rằng tôi lấy làm tiếc là đã phóng thích nó đi mất thì họ sẽ bực mình như thế nào? Hơn nữa dù cho ông bà Trần có đánh đập cô thì điều đó cũng không làm cô đau đớn nhiều bằng con rùa bị đem bỏ vào nồi nấu.” Rồi cô quyết định thả cho nó đi. 

Khi ông bà Trần trở về nhà sửa soạn dự tiệc thì thấy trên bàn ăn trống trơn, ông bà nổi giận mắng nhiếc và đánh đập người hầu gái. Nhưng cô nhẫn nhục chịu đựng.

 Sau này khi trong vùng xảy ra bệnh dịch. Người tớ gái bị đau nặng. Ông bà Trần mời bác sĩ đến khám bệnh cho cô và bác sĩ đã bảo họ nên chuẩn bị mua hòm vì cô sắp chết đến nơi rồi. 

 Tối hôm đó, người hầu gái nằm mơ thấy một con vật mình ướt và lấm bùn, bò lên khỏi hồ nước. Nó bò gần lại phía cô ta. Mỗi lúc nó càng tiến lại gần sát cô hơn nữa. Rồi con vật đó tiến vào phòng leo lên và bò vào giường cô, nhưng cô không cảm thấy sợ hãi. 

Rồi con vật ướt lấm bùn đó bò lên thân mình người tớ gái và cô cảm thấy khắp toàn thân cô mát mẻ. Nhiều ngày qua cô không cảm thấy được dễ chịu như vậy. 

Hôm sau, ông bà Trần cầm cái thước dây đi vào phòng đo kích thước để mua hòm cho người hầu gái và thấy cô đã ngồi dậy. Khắp thân mình cô lấm bùn, nhưng trông cô khỏe hơn trước. Bà Trần hỏi: 

“Cô đã thức dậy?” Cô đáp: “Vâng, thật là kỳ lạ, hôm nay tôi cảm thấy đã bớt nhiều?” 

 “Tại sao khắp thân mình cô dính đầy bùn như vậy?” 

Cô liền kể cho bà Trần nghe về mọi việc xảy ra tối qua. Bà Trần hết sức lo lắng vì nghĩ rằng người tớ gái đã mê sảng. Đêm đó, bà quyết định canh chừng để coi. 

Vào giữa khuya, ông bà Trần nhìn thấy con rùa lớn mà người hầu gái phóng thích trước kia, nay nó trở lại bò vào phòng và đắp bùn lên khắp thân mình cô ta. Ông bà Trần không tin điều mình thấy là có thật, nhưng vài ngày sau người hầu gái của họ đã bình phục, và cô là người duy nhất sống sót thoát khỏi nạn bệnh dịch. 

Cũng từ ngày ấy, ông bà Trần không bao giờ ăn thịt rùa nữa.
 
 
 

The Turtle Who Healed The Maid

“Don’t forget to scrub that turtle thoroughly before you cook it,” the Ch’engs said on their way out to do some errands. “It’s so big you’ll have to be careful how you cook it. Be sure to do a good job.” 

“Sure, I know,” their maid said. When they had left, she went to the chicken and looked at the turtle, figuring out where to start. But when she saw the turtle sitting there on the floor, she felt sorry for it. “Poor turtle. Wouldn’t you rather be swimming in the river than swimming in gravy?” 

Why did the maid feel sorry for this particular turtle? She had cooked plenty of turtles for the Ch’engs, because they loved to eat turtle. She felt sorry for it, that’s all, so she picked it up and headed for the door to let it go. 

“No, that won’t do, what’ll the Ch’engs do when they come back expecting a turtle feast and I tell them, sorry, I let it go? But even if they whip me, that won’t hurt me as much as cooking this turtle would hurt it.” So the maid make up her mind and let the turtle go. 

Sure enough, when the Ch’engs came back ready for a feast and found the table bare, they bawled out the maid and beat her and whipped her. But she got over it.

 Later, there was an epidemic. The maid got terribly sick. The Ch’engs had the doctor in to look at her, and the doctor told them they might as well get her coffin ready, because she was a goner. 

That night, the maid sensed something crawling out of the pond, something slimy, wet, and muddy. It was coming closer to her. Closer and closer it came. It came into her room, and crept up to her bed. Then it crawled onto her bed, but the maid wasn’t frightened. 

 Then that wet, muddy thing climbed up on top of her, and she felt cool all over. She hadn’t felt so comfortable for days. 

 The next morning, Mrs. Ch’eng came in with a tape measure to see what size coffin to buy, and found her maid sitting up. She was all muddy, but she looked much better. 

“You’re up?” Mrs. Ch’eng asked. “Yes, it’s very strange, but I feel a lot better today.” 

“Why are you all muddy?” 

 The maid told her about what happened during the night. Mrs. Ch’eng really got worried then, because she thought her maid was delirious. She decided to keep watch that night. 

At midnight, the Ch’engs saw that big turtle the maid had let go crawl back into the room and smear mud all over the maid. They couldn’t believe their eyes, but within days, their maid was up and around again, one of the only persons to recover from the epidemic. 

From then on, the Ch’engs never ate another turtle.

Một Ông Nhà Giàu Không Có Con 

Vào thời đại nhà Nguyên (1279-1368) khi Thành Cát Tư Hản xua quân Mông Cổ xâm lăng Trung Hoa, có một ông phú hộ rất giàu có nhưng không có một mụn con nào. Cả hai vợ chồng sống rất cô độc. Họ mong ước sinh một đứa con, nhưng không làm sao có được. 

Ông nhà giàu luôn luôn buồn rầu về việc đó. Ông ta nghĩ: “Có nhiều tiền mà không con cái để chia xẻ cho chúng nó thì đâu có hạnh phúc gì.” 

Bạn ông ta khuyên: “Tại sao ông không lên chùa nhờ thầy trụ trì giúp cho? Vị sư ấy có thể hiểu rõ chuyện xảy ra trong quá khứ và tương lai. Tôi nghĩ ông ta là người có khả năng giúp bạn được.” 

Nghe vậy, hai vợ chồng ông phú hộ liền đi lên chùa. Họ vào lễ Phật. Sau đó hai người đến gặp vị sư và quỳ xuống lạy trán cúi sát úp trên nền nhà. 

“Thưa thầy, chúng con lạy thầy, nhờ thầy chỉ dạy cho biết chúng con đã gây nên điều ác đức gì. Tại sao chúng con ước mong có một đứa con mà không cách gì có được.” 

Vị sư coi tướng số của hai vợ chồng, và dùng thần lực để hiểu biết việc quá khứ lẫn tương lai của họ. Rồi ông bảo người phú hộ.

“Kiếp trước ông đã vay một món nợ to lớn là bởi ông đã giết các sinh vật. Ông đã sát hại nhiều con nhỏ của các thú vật cho nên đời này ông bà không có con được. 

“Món nợ đó thực quá sâu dày, ông bà không dễ gì trả hết được. Ông bà cần phải tụng kinh sám hối cho nhiều. Nếu ông bà có thể cứu thoát được tám triệu mạng sống may ra ông bà mới hoàn trả xong món nợ đó. Nếu ông bà vô ý giết thêm một con rệp hay một con sâu ông bà phải cứu thêm một trăm mạng sống nữa để bù vào cho đủ. 

“Đây là phương cách tốt nhất để ông bà cải đổi số kiếp của mình mới mong có con được.” 

 Ông phú hộ vô cùng cảm động. Ông lên chùa vào chánh điện lễ Phật và phát nguyện sẽ không bao giờ sát sanh nữa. Sau đó, hai vợ chồng về nhà nỗ lực phóng sanh và dùng phần lớn tài sản của họ vào công việc phước đức này. Họ đi chợ mua nhiều heo, gà và ngỗng mang về thả nuôi chúng sống tự nhiên trong vườn chùa. Hai vợ chồng cũng mua cá, cua và lươn đem thả chúng xuống nước. Họ rất thành tâm thường xuyên lên chùa làm nhiều việc phước đức; để sám hối những việc làm tội lỗi của họ đã gây ra trong kiếp trước. 

 Hai vợ chồng làm các việc lành như thế trong nhiều năm. Sau một thời gian họ cứu thoát đến tám triệu mạng sống của thú vật, nhờ vậy mà bà vợ đã sinh được một cháu trai khỏe mạnh và kháu khỉnh. 

Đứa bé rất thông minh, lớn lên cháu học giỏi, và đỗ đạt dễ dàng các kỳ thi của triều đình.
 
 
 

The Childless Rich Man

During the Yuan dynasty (1279-1368), when the Mongols under Genghis Khan had conquered China, there was a rich man who had a lot of money but no children. He and his wife were very lonely. They wanted a son, but just couldn’t have one. 

The rich man always moped about that. “What good does all my money do without any kids to share it with?” 

 “Why don’t you go to the temple and ask the monk there?” a friend suggested. “He can see the past and the future. If anybody can help you, he can.” 

So the rich man and his wife went to the temple. They paid their respects to the Buddhas. When they saw the monk, they fell on their knees and knocked their foreheads on the floor. 

“Teacher, Teacher, we beg you, tell us what is wrong. We want a child more than anything else, but we just can’t have one.” 

The monk cast their fortunes, and used his powers to look into the past and the future. Then he told the rich man.

 “You ran up a huge debt in your past life by killing animals. You killed the children of many animals, so in this life, you don’t get any children of your own. 

“This debt is very heavy, and it’s not enough just to pay it back. You have to be sorry and repent. If you can save eight million lives, you can balance out your debt. If you kill one more bug or one more worm, even by accident, you have to save one hundred more lives to make up for it. 

 “This is the best way to change your luck and to get a son.” 

 The rich man was deeply touched. He went to the main shrine of the temple and swore before the Buddhas that he would never kill again. When he and his wife got home, they got to work saving lives, and spent most of their fortune on it. They bought pigs, chickens, and ducks from the market, and arranged for them to live out their natural life spans in temples. They bought fishes and crabs and eels and put them back in the water. They were very pious and went to many services in temples, to repent their past mistakes. 

 They kept it up for several years. Long before they had saved eight million lives, they had a healthy, happy little boy.

Their son was so intelligent that when he grew up, he passed the imperial examinations with ease the very first time.

Những Viên Ngọc Rắn 

Một người lính gác hỏi: “Cái gì vậy?” Người bạn của ông ta đáp: “Con rắn. Hãy giết nó đi.” Rồi họ cầm cây giáo định, đâm chết con rắn nhỏ màu sắc đỏ. 

Vị chỉ huy của họ la lên “Đừng giết.” Cả hai tên lính hoảng sợ khi thấy người ra lịnh cho họ không được sát hại con rắn là Quận Công của nhà Tùy ở Trung Hoa. “Các ngươi không thấy nó bị thương rồi sao? Tội nghiệp con vật.” Hẳn chắc họ thấy con rắn đã bị thương nơi đầu. 

Viên Quận Công dùng cây gậy nhẹ nhàng nâng con rắn lên và mang nó ra bờ sông. Rồi ông bảo mấy tên lính thả cho con rắn bò đi. 

Một lát sau, một người lính gọi anh bạn nói: “Trông kìa, con rắn ban nãy trở lại.” 

 “Và nó ngậm vật gì nơi miệng.” 

“Này, bạn nhìn nơi đó phải không?” Nó mang một viên ngọc!” Những người lính nghe nói vậy liền chạy đến. Con rắn nhỏ vẫn bò hướng về phía trước. Mấy anh lính bảo: “Để xem thử nó bò đi đâu.” Họ tránh sang một bên, và con rắn bò thẳng vào lều ông Quận Công và nhả viên ngọc nơi chân của ông. 

 Viên Quận Công nói với con rắn: “Thực bạn quá tốt với ta, nhưng bạn nên biết rằng là quan chức của triều đình, ta không bao giờ nhận tặng phẩm.” Con rắn vẫn nằm im không nhúc nhích cho đến khi ông Quận Công lượm viên ngọc bỏ vào túi quần. 

Đêm hôm đó, viên Quận Công nằm mơ thấy ông vô ý bước đạp nhằm một con rắn. Ông giật mình thức giấc nhìn xuống tưởng chân ông bị rắn cắn... nhưng không, đó chỉ là điềm chiêm bao. Nhưng cái gì đây? Ông thấy một viên ngọc khác nằm bên cạnh chân ông, và đó là sự thật chứ không phải là giấc mơ. 

Hai viên ngọc quá đẹp! Ông Quận Công là người có tâm hiền lành và thực tình ông không muốn nhận được quà thưởng vì đã cứu sống con rắn, nhưng giờ đây ông có hai viên ngọc rất quý mà không biết giao trả cho ai, cho nên ông đành phải cất giữ chúng làm vật kỷ niệm để ghi nhớ việc ông làm phước cứu độ mọi chúng sanh. 

 Việc làm thiện của ông Quận Công trên đây được loan truyền xa gần khắp nơi và giúp cho nhiều người nhận biết rằng ngay cả loài vật bò trên mặt đất cũng tham sống sợ chết. Câu chuyện này cũng khiến cho những ai có tâm độc ác muốn sát sanh hại vật phải suy nghĩ để cải đổi lối sống của họ. Con người ngày càng biết yêu thương sự sống, chấm dứt việc giết chóc và hành hạ loài vật. 

Riêng ông Quận Công nhà Tùy đó là điều quý báu hơn cả hai viên ngọc giá trị!
 
 
 

The Snake’s Pearls 

“What is that?” asked one sentry. “It’s just a snake. Let’s kill it,” said his buddy. They took up their spears to kill that colorful little snake. 

“Halt!” came the voice of command. Both men froze when they saw it was the Duke of Sui himself telling them to stop! “Can’t you see it’s already wounded? Poor thing.” Sure enough, they could see that the snake was already wounded in the head. 

The Duke kindly picked up the snake with his staff, and took it to the river bank. He told the soldiers to leave it alone. 

 A while later, one sentry called the other, “Hey, look, that snake’s come back again.” 

“Yeah, and it’s got something in its mouth.” 

“Say, will you look at that? It’s carrying a pearl!” The other soldiers came running when they heard that. The little snake just kept going straight ahead. “See where it’s going,” someone called. They got out of the way, and the little snake went right to the Duke’s tent and dropped the pearl at his feet. 

 “That certainly is nice of you,” said the Duke, “But I’m an imperial officer. I’m not supposed to accept gifts, you know.” The snake wouldn’t budge an inch until the Duke picked up the pearl and put it in his pocket.

That night, the Duke dreamed that he stepped on a snake by accident. He was so startled that he woke up and looked at his feet to see if he had been bitten...it was just a dream. But what’s that? He found another pearl sitting by his feet, and that was no dream. 

 Two beautiful pearls! The Duke was a kind man, and really didn’t want any reward for saving the snake, but he had two priceless pearls and nobody to return them to, so he put them away as a reminder to be kind to all living things. 

 This story spread far and wide, and many people were realized that even an animal that crawls on the ground values its life. This story got even some nasty people to think, and to change their ways. Gradually, more and more people learned to love life and to stop killing things and tormenting animals.

For the Duke of Sui, that was a much better reward than the pearls!

 Giải Cứu Đứa Con Của Long Vương 

Ngày xưa, có một vị bác sĩ già tên Tôn. Ông rất hiền lành, và nhất là có lòng thương yêu loài vật. 

Vào một ngày mùa thu đẹp trời, trong khi ông đang đi dạo chơi ngoài làng, thình lình ông gặp hai đứa trẻ nhỏ bắt một con rắn. Chúng đùa giỡn với nó và con rắn quá mệt đừ gần như sắp chết. Ông Tôn không muốn nhìn thấy con rắn chết, cho nên đã móc túi lấy tiền ra mua con rắn nơi mấy đứa nhỏ. Rồi ông mang con rắn ra gần bờ ao và thả cho nó bò đi. 

 Vài ngày sau, khi ông đang ngồi đọc sách nghiên cứu. Ông thiu thiu ngủ thì mơ thấy một người mặc áo màu xanh lục bước vào nhà và bảo bác sĩ Tôn đi theo ông ta. Người lạ mặt dắt ông Tôn đến một lâu đài tráng lệ. Và ông không biết rõ nơi đó là ở đâu. 

Khi bác sĩ Tôn và người hướng dẫn ông bước vào cái phòng lớn, một nhân vật quan trọng tiếp đón ông Tôn và nói: “Đứa con của tôi đi ra ngoài chơi, nếu ngài không cứu giúp nó, thưa bác sĩ, tôi sợ rằng con tôi đã không bảo toàn được mạng sống.” 

Rồi ông ta bảo những người giúp việc dọn tiệc đãi ông khách quý. Dùng tiệc xong, người cha lấy tặng đồ nữ trang và châu báu cho ông Tôn, nhưng bác sĩ đã không nhận vật gì hết. Người cha năn nỉ, và ông Tôn biết mình hiện giờ đang ở đâu, cho nên cuối cùng ông nói: “Tôi được biết tại Cung Điện Thủy Tinh của Long Vương này, ngài cất giữ nhiều vị thuốc thần diệu có thể chữa lành các thứ bệnh nhẹ và nặng mà người đời mắc phải. Nếu ngài có lòng tốt trao truyền cho tôi một vài toa thuốc đặc biệt của ngài để tôi cứu chữa cho các bệnh nhân khổ đau thì đó sẽ là hành động phước đức vô cùng.” 

Người cha hóa hiện thành vị Long Vương, lấy ngay mấy tấm thẻ bằng ngọc có ghi khắc 36 toa thuốc và trao cho ông Tôn 

Sau khi nhận các toa thuốc quý, bác sĩ Tôn trở lại công việc nghiên cứu. Ông giật mình thức dậy và nhận biết rằng mọi việc xảy ra vừa qua chỉ là một giấc chiêm bao. 

Nhưng điều ý nghĩa nhất là từ đó về sau, khi bác sĩ Tôn khám bất cứ bệnh nhân nào, dù bệnh của họ có nặng đến đâu, họ vẫn được tức khắc chữa lành. Nhờ vậy mà bác sĩ Tôn đã cứu chữa được nhiều, rất nhiều bệnh nhân đau khổ.
 
 
 

Saving The Dragon King’s Son 

Once there was an old doctor named Sun. He was very kind, especially to animals. 

 While he was taking a stroll outside the village one fine autumn day, he happened to see two kids who had captured a snake. They were playing with it, and the snake was so exhausted that it was almost dead. The old man couldn’t bear to see even a snake die, so he got some money out of his pocket and bought the snake from them. Then he took it to the edge of the pond and let it go. 

A few days later, he was sitting in his study. He dozed off. Before long, he saw a man dressed in green come in and ask Sun to go with him. Sun went, and the man took him to a very awesome palace. Sun didn’t have any idea where he was. 

When Dr. Sun and his guide came into the main hall, a very important looking man came out and addressed Sun, saying, “My son was out playing. If you hadn’t saved him, sir, I am afraid that my son wouldn’t have gotten away with his life.” 

 Then he had the servants serve a feast for their honored guest. After the feast, the father presented jewels and treasures to Sun, but the doctor didn’t want any. The father insisted, so finally Sun said, “I have heard that in the Crystal Palace of the Dragon,” for by now he had figured out where he was, “there are many extraordinary medicines which can cure all ailments and diseases which people contract. If you would be so kind as to transmit a few of your special prescriptions so that I might save suffering people, that would be an act of great merit.” 

The Dragon King, as the father turned out to be, immediately got out jade tablets inscribed with 36 prescriptions. He gave these to old Sun. 

After he received the prescriptions, Dr. Sun returned to his study. He woke with a start. He realized it had just been a dream. 

 But the funny thing is that from then on, whenever he treated a patient, no matter how serious the patient’s illness was, the patient was cured immediately. In this way, Sun saved many, many suffering people.

Quả Báo Của Một Việc Làm Ác 

Đời nhà Đường (618-907) bên Trung Hoa có một anh nông phu rất tàn ác. Trưa hôm nọ, ông ta ra xem xét công việc ngoài đồng ruộng. Ông thấy con bò bên nhà hàng xóm chạy lạc vào đám ruộng của ông. Nó đang gặm lúa và dẫm đạp hoa màu. 

Người nông dân vô cùng tức giận bảo rằng: “Tao làm lụng cực khổ mới có thóc lúa này, bây giờ mày đến gặm ăn và phá hoại mùa màng của tao! Mày phải trả một giá đắt cho sự ăn vụng này. Ông liền rút dao ra và nói: “Tao không muốn giết chết mày, nhưng vì mày đã ăn hại thóc lúa của tao nên tao phải cắt lưỡi của mày bỏ lại đây. Để tao coi mày còn dám ăn vụng, phá hoại mùa màng của tao nữa không!” 

Con bò nhận biết mình có lỗi nên nó đã cúi đầu xuống và tỏ vẻ hối tiếc. Người nông dân nghèo khó đã nắm sừng ghì chặt đầu con bò xuống và dùng dao cắt cái lưỡi của nó. Con bò vô cùng đau đớn, nhưng cũng không kêu van gì được. 

Về sau, người nông dân tàn ác này đã lập gia đình và có ba đứa con. Nhưng đứa nào cũng bị câm nửa năm đầu trước khi chúng biết nói. Ông không hiểu tại sao mấy đứa con của ông đều bị câm. Ông đưa chúng đi khám nhiều bác sĩ danh tiếng nhưng không một loại thuốc nào của các vị này cho có thể chữa lành giúp chúng nói được.

Người nông dân liền nhớ lại khoảng mười hai năm trước ông đã cắt lưỡi của một con bò đực. Ông ta hiểu rõ nguyên nhân tại sao ba đứa con của ông bị câm. Chính do nhân tàn ác ông gây ra đã mang lại quả báo khổ đau cho mấy đứa con trong gia đình ông
 
 
 

The Results Of Cruelty 

 During the T’ang dynasty there was a very cruel farmer. At noon one day he went to see how everything was in his fields. He saw that the bull a neighbor used to plow had wandered into his field. It was eating the grains and had trampled his crops. 

The farmer was furious. “I have worked so hard to grow these crops, and now you have come to steal some and trample the rest! You must be tired of living!” With that, he took out his knife and said, “I am not going to kill you, but since you have eaten my crops, you have to leave your tongue here. Let’s see if you ever dare steal from me again!”

The bull must have known it had done wrong, because it dropped its head and looked sorry. The mean farmer grabbed it by the horn and cut out its tongue. Even though it hurt, the bull did not cry out in pain.

Later, that cruel farmer got married and had three children. Each one of his children lost the ability to speak about half a year after it had begun to talk. The farmer did not understand why his children were mute. He took his children to see many famous doctors, but none of the medicine they prescribed could make them speak again. 

Then the farmer remembered the tongue he had cut out of the bull’s mouth a dozen years before. He knew what was wrong with his children. His cruelty was reflected back into his family.

Một Trăm Mạng Sống

“Bữa nay, em cảm thấy khỏe hơn không?” Ông Phan biết vợ mình mắc bệnh lao rất khó chữa lành nên ông đã hết lòng chăm sóc cho vợ.” 

Vợ ông mệt mỏi trả lời: “Cám ơn anh đã quá lo lắng cho em.” 

Ông Phan đã mời bác sĩ Trần giỏi nhất để chữa bệnh cho vợ ông. Bác sĩ Trần sau khi khám bệnh người vợ, đã gặp riêng ông Phan. 

Bác sĩ bảo: “Mặc dù vợ ông bệnh quá nặng đấy nhưng vẫn có cách chữa được. Theo toa thuốc này, cần đến một trăm đầu con chim sẽ để chế vị thuốc đó. Sang ngày thứ ba và thứ bảy, vợ ông cần phải dùng óc của chim sẻ. Đây là vị thuốc bí mật do ông bà của tôi truyền lại và nó không bao giờ không có kết quả. Nhưng nên nhớ rằng ông phaủi giết đủ một trăm con chim sẻ, chứ thiếu một con cũng không được.” 

 Ông Phan hết lòng muốn cứu sống vợ nên đã gấp rút đi mua một trăm con chim sẻ. Chúng bị nhốt chật trong một cái lồng lớn. Chúng nhảy nhót và kêu thảm thiết vì không đủ chỗ cho chúng bay nhảy thỏa thích. Có thể chúng cũng biết rằng chúng sắp sửa bị giết chết.

 Bà Phan hỏi chồng: “Anh định làm gì với những con chim sẻ đó?”

Người chồng vui vẻ trả lời: “Đây là vị thuốc đặc biệt của bác sĩ Trần! Anh đang chuẩn bị giết chúng để chế vị thuốc ấy, và em dùng sẽ tức khắc lành bệnh.” 

Bà Phan liền ngồi dậy trên giường và nói: “Anh không thể làm một việc ác như thế. Anh không nên giết một trăm mạng sống để cứu lấy sự sống của riêng mình em! Em đành chịu chết còn hơn để anh sát hại một trăm con chim sẻ để cứu mạng sống cho em!” 

Ông Phan không biết làm sao.

Bà vợ tiếp tục bảo: “Nếu anh thực tình thương em, thì anh nên nghe lời em là hãy mở lồng thả hết những con chim sẻ đó ra. Như thế dù em có chết em cũng mãn nguyện để nhắm mắt.” Ông Phan đã giải quyết thế nào? Ông mang lồng chim vào trong rừng và phóng sanh tất cả một trăm con chim sẻ đó. Chúng bay vào các bụi rậm, đậu trên cây và kêu hót líu lo. Chúng lộ vẻ vô cùng sung sướng vì được thả tự do. 

Vài ngày sau, bà Phan rời khỏi giường, mặc dù bà đã không uống thuốc gì hết. Bà con và bạn bè kéo nhau đến chúc mừng bà đã nhanh chóng bình phục khỏi cơn bệnh hiểm nghèo. Mọi người đều hết sức vui mừng.

Năm sau, bà Phan sinh được một cháu trai. Em bé mạnh khỏe và rất dễ thương, nhưng điều buồn cười là trên mỗi cánh tay của nó có một cái dấu bớt; và các dấu bớt này trông hình giống như những con chim sẻ!
 
 
 

One Hundred Lives

 “Are you feeling any better today?” Fan knew that his wife had tuberculosis, which was not easy to cure, but he took care of her very tenderly. 

“Thank... you... for... your concern,” his wife gasped out painfully.

 Fan asked the best doctor Ch’en, to treat his wife. Doctor Ch’en examined her carefully, and took Fan aside. 

 “There is a way to cure her, even though she is quite sick,” the doctor said. “Take the heads of one hundred sparrows, and make them into medicine according to this prescription. Then on the third and seventh days eat sparrow brains. This is a secret passed down from my ancestors, and it never fails. But remember, you have to have one hundred sparrows. You can’t be even one short.” 

 Fan was eager to help his wife, so he rushed out and bought one hundred sparrows. They were all crowded into one big cage. They chirped and hopped around mournfully, because there wasn’t enough space for them to enjoy themselves. May be they even knew they were going to be killed. 

“What are you doing with all those sparrows?” Mrs. Fan asked.

 “This is Doctor Ch’en’s special prescription! We’re going to make them into medicine, and you’ll be up and around in no time,” her husband cheerfully responded.

 “No, you can’t do that!” Mrs. Fan sat up in bed. “You can’t take one hundred lives to save my one life! I would rather die than let you kill those sparrows for me!”

Fan didn’t know what to do.

“If you really love me,” she continued, “Do as I say. Open the cage and let all of those sparrows go. Then even if I die, I will die at ease.” What could he do? Fan took the cage out to the woods and let all one hundred sparrows go free. They flew into the bushes and trees and sang and cheeped. They looked and sounded very happy to be free.

In a few days, Mrs. Fan got out of bed again, even though she hadn’t had any medicine. Her friends and relatives came to congratulate her on her speedy recovery from such a terrible disease. Everybody was very happy.

The next year, the Fans had a baby boy. He was lively and cute, but the funny thing was, on each arm he had a birthmark, and the birthmarks looked just like sparrows!

Tên Đồ Tể Đền Tội

Châu là người thô lỗ, nhưng rất giàu, vì ông kiếm được nhiều tiền nhờ bán thịt bò. Mỗi ngày, ông giết thịt ít nhất là ba con bò. Trải qua một thời gian, do bán nhiều thịt bò mà ông trở nên một trong những người giàu nhất trong quận. 

Vào khoảng đầu thế kỷ thứ 19, khi ông Châu già cả, con ông là Quang đứng ra lo việc buôn bán cho gia đình. Hai cha con hãnh diện với nghề bán thịt này bằng cách đặt một gốc cây già ngay trước cổng nhà của họ. Nhiều năm qua, họ dùng gốc cây đó làm tấm thớt cắt thịt. Họ thường kê đầu con bò trên đó để đập mạnh cho chết. Khi hành khách đi ngang qua nhìn thấy gốc cây này họ đều biết rằng đó là quán bán thịt. 

Nhưng vào đêm nọ, một việc kỳ lạ bất ngờ đã xảy ra. Cái tấm thớt gốc cây biến thành đầu con bò và nó lăn vòng quanh khắp các đường trong thành phố! Mọi người trông thấy đều hết sức kinh ngạc. 

Tối hôm đó, khi đi ngang qua nhà ông Châu người ta nghe bên trong có tiếng ồn ào của nhiều con bò húc báng lộn nhau. Nhưng không ai hiểu rõ được việc gì đang xảy ra!

Một hai ngày sau, ông Quang vẫn đứng bán quán như thường lệ, và có một người lính vào mua thịt. Vì là nhân viên của chính quyền nên ông ta muốn mua thịt với giá đặc biệt thật rẻ.

Ông Quang hét to nạt tên lính: “Ông điên rồi sao? Tôi lỗ nhiều quá!” Vì bị mất mát tiền bạc, ông nổi cơn giận dữ. Rồi hai người gây gỗ với nhau. Ông Quang nổi điên cầm dao cắt thịt chém mạnh vào đầu anh lính! 

Khi hay tin con mình giết chết tên lính ông Châu hoảng hốt, té xuống ngất xỉu và từ trần.

Ông Quang bị nhà cầm quyền xử tử. Sau này người ta gặp thấy bà vợ và mấy đứa con ông Quang, mặc quần áo rách rưới đi xin ăn ngoài đường phố. Bà con hàng xóm bảo: “Chúng ta thật không ngờ vợ con ông Châu giàu có trước đây ngày nay lại dắt nhau đến xin ăn ngay ở ngôi nhà cũ của họ.” 

 Theo Phật giáo giải thích: “Chính ông Châu đã gây nên cảnh gia đình suy sụp tan nát, vì họ đã giết hại nhiều thú vật. Nếu bạn làm việc lành, bạn và thân quyến sẽ gặp điều tốt. Nếu bạn hành động ác, gây đau khổ cho kẻ khác, bạn và gia đình sẽ gặp nhiều khổ đau. 

 “Do đó, bạn không nên ăn thịt. Bạn cần cố gắng dứt trừ tâm độc ác, và nên thương yêu đừng sát hại các sinh vật, nhờ vậy mà mọi chúng sanh đều an lạc.” 

Mọi người đều nghĩ rằng đó là điều công bằng hợp lý. Những người giết thịt trong vùng đều nhận biết rằng điều bất hạnh xảy ra cho gia đình ông Châu; một ngày nào cũng có thể dễ dàng xảy đến với họ, cho nên tất cả đều đóng cửa các hàng thịt và họ đã thay đổi tìm nghề sinh sống khác. 

Hơn nữa, ngày nay y khoa đã chứng minh cho thấy rằng dùng nhiều thịt bò sẽ gây ảnh hưởng xấu cho sức khỏe con người. Nó sẽ tạo ra các bệnh tim và ung. Cho nên dù bạn có suy nghĩ như thế nào, thì việc ăn nhiều thịt vẫn là điều không tốt cho sức khỏe của bạn.
 
 
 

The Butcher’s End

 Chao was a coarse man, but he was rich, because he made so much money selling beef. Every day he butchered at least three heads of cattle. That’s quite a bit of beef, so over a period of years, he became one of the richest people in the country. 

 Around the beginning of the nineteenth century, when Chao was old, his son Kuang took over the family business. They were so proud of their business that they put an old stump in front of their gate. They had used that stump for many years as a chopping block. They would put the cow’s head on the block and smash it. When people saw that stump, they knew this was a butcher’s house. 

 But one night something strange happened. The stump turned into a cow’s head, and rolled all around the streets and roads of the city! The people who saw it were astonished. 

 That night, people passing by the Chao’s place heard the sound of innumerable cattle fighting inside. Nobody could figure out what was going on!

A day or two later, Kuang was doing business as usual when a soldier came to buy meat. But since he was buying meat on official business, he wanted a special low price. 

“Are you crazy?” Kuang screeched. “I’d lose money!” So instead of losing his money, he lost his temper. They quarreled. Kuang got so mad that he picked up his cleaver and split that soldier’s head wide open! 

 When Chao heard that his son killed a soldier, he was so upset that he fell over and died. 

 Kuang was put to death. Before long, his widow and children were in rags, begging on the streets. The neighbors said, “We never expected that the rich Chaos would be asking for handouts right outside the gate of their old mansion!” 

A Buddhist explained it to them. “They brought it down upon themselves by killing so many cattle. If you do good deeds, you will earn a good fortune for you and your loved ones. If you do bad deeds, you will cause yourself and your family as much suffering as you caused others. 

“This is why you should never eat meat. You should try to control your temper, and get along will with all living creatures so that everyone can enjoy life.” 

 Everybody thought that was reasonable. The other butchers in the area realized that what happened to the Chaos could easily happen to them, too, so they closed up their butcher shops and went into other lines of business. 

 Now, of course, medical science has proved many times that eating beef is bad for your health. It causes heart disease and cancer. No matter how you look at it, you should know that eating meat can do you no good whatsoever. 
 
 

Cái Lưỡi Dê 

Triều đại nhà Đường từ năm 618 đến năm 907 sau tây lịch là một trong những thời đại huy hoàng nhất của lịch sử Trung Hoa. Bấy giờ ông Phan Quả sống tại kinh đô là một quân nhân nghệ sĩ có tài cho nên ông được mời giữ một chức vụ trong triều đình khi ông còn rất trẻ. Ông dễ dàng kết thân với mọi người; do đó ông có nhiều thân hữu trong số những người bạn trẻ cùng làm chung với ông. 

Ngày nọ, nhóm bạn của ông đang đi dọc theo một nghĩa trang. Giữa những ngôi mộ, ông gặp thấy một con dê đi lạc. Nó đang chăm chú gặm cỏ. Ông Phan cùng với mấy người bạn đến bao quanh và lôi con dê về nhà. Nó bắt đầu kêu la. Bọn họ sợ người chăn dê nghe tiếng kêu sẽ đi tìm nó. Cho nên ông Phan đã tới dùng rễ cây mà kéo đứt cái lưỡi con dê ra. Ông ta hãnh diện đã làm cái việc ác đức này quá nhanh.

Sau khi về tới nhà những người bạn của ông Phan đã làm thịt và quay con dê. Rồi họ vui vẻ hả hê nhậu rượu với thịt dê.

Năm sau, ông Phan hoảng hốt khi thấy cái lưỡi của mình co rút lại. Mỗi ngày nó càng ngắn thêm và cuối cùng ông ta không nói được. Ông không thể tiếp tục đến sở làm và rồi ông Phan đành phải nghỉ việc. Ông đi tìm thầy để chữa trị cái lưỡi. 

Ông Trịnh, người cấp trên của ông Phan nghĩ rằng ông ta lười biếng nên đã bảo ông đưa lưỡi ra để ông xem thử, ông Pan có thực đau không. Ông Trịnh ngạc nhiên thấy cái lưỡi của ông Pan đã biến mất. Chỉ còn lại một chút nơi gốc cái lưỡi thôi. Ông Cheng muốn tìm hiểu tại sao xảy ra như vậy. Ông Pan cầm lấy bút lông và viết trả lời: “Chắc bởi tại năm ngoái chúng tôi bắt trộm một con dê và khi nó bắt đầu kêu la, tôi liền kéo đứt cái lưỡi nó ra.” 

Ông Trịnh biết rằng ông Phan bị mất cái lưỡi để bù trả lại cái lưỡi mà ông đã tướt đoạt của con dê. Ông khuyên ông Phan nên làm những Phật sự và hồi hướng các phước đức ấy cho con dê để mong bù đắp sự khổ đau thiệt thòi của nó. Ông Trịnh bảo ông Phan sao chép lại kinh Pháp Hoa. 

Ông Phan ân hận về hành động ác mà ông đã làm. Ông thề nguyền sẽ không bao giờ ăn thịt thú vật nữa và hết lòng cố gắng tạo sự an lạc cho con dê, qua những việc làm phước đức, giúp đỡ chùa chiền và cầu nguyện của ông.

Một năm sau cái lưỡi của ông Phan bắt đầu mọc trở lại. Ông ta vui mừng thấy lưỡi của mình đang từ từ dài ra. Ông Phan đến sở làm để báo tin cho ông Trịnh biết. Ông Trịnh hãnh diện thấy ông Phan đã ăn năn sám hối sửa lỗi của mình. 

Khi ông Phan có thể nói được trở lại bình thường, ông Trịnh đã thăng chức cho ông. Ông Trịnh là con người thành thực và sáng suốt, cho nên ông rất được mọi người kính mến. Tiếng đồn về những việc làm tốt của ông Trịnh đã đến tai vua Thái Tông, một trong những vị vua hiền đức nhất trong lịch sử Trung Hoa. Và vào năm 635 tây lịch, tức năm thứ 9 dưới triều đại của ngài, ông Trịnh đã được nhà vua thăng cấp lên đến chức Giám Sát Quan là một trong những chức vụ cao cấp nhất triều đình. 

Ông Trịnh tâu với đức vua rằng ông được thăng chức là do điều lành mà ông đã tạo ra nhằm giúp cho con dê đau khổ vì mất lưỡi có được hạnh phúc.
 
 
 

The Goat’s Tongue 

The T’ang dynasty from 618 to 907 AD was one of the great eras of Chinese history. In the capital lived one P’an Kuo, whose skill as a martial artist earned him a post in the government offices when he was still very young. He was easy to get along with, so he made many friends among the other young men working there. 

 One day, a group of them was walking along by a cemetery. Among the tombs, P’an spotted a goat that a shepherd had forgotten. The goat was minding its own business, eating the grass. P’an and his friends surrounded it and dragged it off towards home. The goat started bleating. They were afraid the shepherd would hear and come after his goat, so P’an reached in and pulled out the goat’s tongue by the roots. He was proud of his quick wits. 

After they got home, they slaughtered the goat and roasted it. They washed it down with a lot of wine and had a good time. 

 In the following year, P’an was horrified to discover his tongue shrinking. As it got shorter and shorter, P’an lost his speech. He couldn’t carry out his official duties, so he quit his job. He had to find some way to cure his tongue.

His boss, Cheng suspected P’an was just being lazy, so he ordered him to open his mouth to prove whether or not he was really sick. He was surprised to see that P’an’s tongue had already disappeared. All that was left was a little stub at the root. He demanded to know what had happened. P’an took up a brush and wrote, “It must be because a bunch of us were stealing a goat last year, and when the goat started bleating, I ripped its tongue out.” 

Cheng knew that P’an lost his tongue to balance the tongue he took from the goat. He ordered his subordinates to carry out Buddhist services to bring the goat fortune to compensate for its loss. He told P’an to copy the Lotus Sutra.

 P’an was sorry for what he had done. He swore never again to eat the flesh of an animal, and to do his best to bring the goat fortune through good deeds, dharma services, and prayers. 

After a year, his tongue began to grow back. When he found his tongue was growing back, P’an was thrilled. He ran to the office to report to Cheng. Cheng was proud of P’an for his determination to correct his mistake. 

When he could speak normally again, he promoted him. Cheng was so honest and wise that people always praised him. The word of his good deeds reached the Emperor T’ai Tsung, one of the best emperors in Chinese history, and in the 9th year of his reign, 635 AD, Cheng was promoted to the post of Imperial Censor, one of the highest positions in the Empire.

Cheng told the Emperor that perhaps he won his promotion to balance the fortune he had won for the goat that lost its tongue.

Sự Trả Thù của Những Con Ếch

Ngày xưa có một người thợ cạo tên Lương ở tỉnh An huy nước Trung Hoa. Ông có cặp mắt ty hý như mắt chuột. Mặt mày ông xấu xí. Vẻ đẹp bên ngoài không mấy quan trọng, nhưng ngay cả trong tâm ông cũng không tốt gì. Ông luôn luôn gây gỗ và so đo. Ông không bao giờ cố gắng sửa đổi những thói hư tật xấu của ông. 

Ông Lương cũng tham lam. Món ăn ông thích nhất là ếch mà người Trung Hoa gọi là “Gà ở Đồng Ruộng.” Ông không thể dùng bửa nếu không có món ăn này. Ông sành sỏi đến mười hai cách nấu món ăn thịt ếch. Ông có rất nhiều bạn mà tánh tình của họ cũng chẳng tốt gì hơn ông và tất cả đều bảo rằng nếu ếch mà trao vào tay ông Lương thì nó sẽ biến thành món ăn tuyệt hảo. 

Bạn bè càng khen ngợi tài nấu thịt ếch của Lương bao nhiêu ông càng giết chết nhiều ếch bấy nhiêu; chẳng khác gì chúng là những kẻ thù mà ông muốn tiêu diệt. Ông sát sanh như vậy mãi đến năm ông bốn mươi tuổi. 

Một đêm nọ, trong lúc đang say ngủ, ông cảm thấy khắp thân mình ngứa ngáy. Rồi ông thấy trên giường bao phủ đầy những con ếch. Chúng ở trong mền và cả trên gối! Chúng cũng có mặt trên ván giường. Ếch khắp mọi nơi! 

Ông Lương tự bảo: “Thật kỳ lạ. Được rồi, ta có cách giải quyết tụi bây.” Ông bắt những con ếch này bỏ chúng vào trong cái hủ. Ông trở lại phòng ngủ và thấy giường ông phủ đầy nhiều ếch hơn nữa! 

Ông Lương đã thức suốt đêm để bắt những con ếch bỏ ra khỏi giường. 

Hôm sau, ông gặp mấy người bạn và nói với họ tối qua ông đã lùa những con ếch xuống giường. Các bạn bè của ông không làm sao tin nổi điều đó. Thình lình ông Lương chụp lấy vai ông. Ông hét lên: “Những con ếch trở lại!” 

Một người bạn ông nói: “Tôi không thấy gì hết.” 

“Ngay đây này, một con ếch ở trên lông mày tôi. Một con khác đang bu trên tóc tôi.” Ông Lương la hoảng lên, nhưng các bạn ông ngạc nhiên, sửng sốt, vì họ không thấy con ếch nào cả. Họ nhìn ông Lương đang chạy quanh tay cầm dao cạo cắt vạch lông mày và tóc của ông. Nhưng không ai nhìn thấy một con ếch nào cả. Họ xầm xì: “Chắc ông ta điên rồi.” 

Từ đó, ông Lương thấy những con ếch xúm lại tấn công ông mỗi ngày. Ông cố gắng tự bảo vệ với chiếc lưỡi dao cạo, nhưng những con ếch vẫn tiếp tục hiện đến. Ông cầu cứu các bạn bè giúp ông, nhưng chỉ một mình ông nhìn thấy những con ếch đó, mà thôi. Ông Lương đã sống như một người điên kéo dài đến hơn sáu năm nữa trước khi ông qua đời. 

Ông kiệt sức vì phải đương đầu chống trả với những con ếch? Chúng đã trả thù ông? Hay ông trở thành người mất trí?

 Không ai có thể trả lời. Tuy nhiên mọi người đều biết rằng ông Lương chắc chắn sẽ không gặp quả báo đau khổ khủng khiếp như vậy nếu ông không giết nhiều ếch để nấu ăn.
 
 
 

The Revenge Of The Field Chickens 

Once there was a barber named Liang in Anhui. His head was kind of pinched on top like a deer’s, and he had beady eyes like a rat. He was no beauty. Outside beauty doesn’t matter so much, but he was no beauty inside, either. He always wrangled and dickered. He never tried to improve his behavior or his attitude. 

He was greedy, too. His favorite dish was frog — what some Chinese call The Chicken of the Fields. He couldn’t eat a meal without some field chicken. He knew a dozen ways to prepare frog meat. He had a bunch of friends who were no better than he was, and they all said that field chicken fixed by Liang just couldn’t be beat!

The more they praised his cooking, the more frogs Liang killed, as if they were enemies he wanted to wipe out. He kept this up until he was in his forties. 

 One night, he was sound asleep. Then he felt itchy all over. He seemed to see that his whole bed was covered with frogs. Frogs all over the blankets! Frogs all over the pillows! All over the bedstead! Frogs everywhere!

“Strange,” he said to himself. “Well, I know what to do with frogs.” He gathered up all these frogs and put them into the pot. Then he went back to his bedroom, and again he found his bed covered with more frogs! 

Liang spent the whole night this way, collecting frogs from his bed. 

The next day, he met some friends, and told them how he had spent the night harvesting frogs from his bed. His friends couldn’t figure it out, either. Suddenly, Liang grabbed his shoulder. “The frogs are back!” he shouted. 

“I don’t see anything,” one of his friends said. 

“Here, right here, there’s a frog on my eyebrows! Now there’s one in my hair!” Liang was panicked, but his friends were confounded. They didn’t see a single frog. What they saw was Liang running around and hacking off his eyebrows and hair with his razor. But nobody saw a frog at all. “He must be crazy,” they whispered.

From then on, Liang saw frogs attacking him every day. He tried to defend himself with his razor, but the frogs kept coming. He begged his friends to help, but only he could see those frogs. He lived like a madman for six more years before he finally died.

Was he worn out from fighting off the frogs? Had the frogs finally taken their revenge? Or was he just out of this mind? Nobody could tell. But everybody knew that Liang certainly wouldn’t have suffered so terribly if he hadn’t cooked so many frogs.

 Tên Đồ Tể Biến Thành Miếng Thịt Hầm

“Dù muốn hay không mày cũng phải đi!” Người hàng thịt tàn ác đã ra sức kéo sợi dây thừng. Đằng cuối sợi dây, con bò già biết rõ việc gì đang xảy ra. Nó cúi đầu xuống và không chịu nhúc nhích. 

“Hãy nhanh lên mày!” Người bán thịt cầm cây roi vừa mắng nhiếc và quất mạnh vào con bò già. Cả hai tranh chấp dằn co như thế ở ngoài đường, một bên vừa chửi rủa và lôi mạnh đi còn bên kia thì im lặng trì kéo lại.

Khi cả hai tiến đến trước một ngân hàng, con bò bất chợt quỳ gối xuống trước cửa và bắt đầu kêu khóc. Nước mắt chảy ràn rụa xuống khuôn mặt đau thương của nó. Ông giám đốc ngân hàng bước ra nhìn thấy cảnh tượng thật quá thương tâm. Con bò lộ vẻ hết sức buồn rầu!

 Ông ta hỏi: “Này anh bán thịt, con bò này giá bao nhiêu?”

“Nó giá 8.000, nhưng tôi không bán nó đâu!”

“Ông nói thế nào? Tôi sẽ trả ông 10.000.” Ông giám đốc ngân hàng nhìn con bò khóc ông vô cùng xúc động, và có ý định muốn cứu mạng sống cho nó.

Nhưng anh bán thịt nhạo báng và nói: “Con bò này đã gây nên nhiều khó khăn cho tôi. Tôi sắp chặt đầu và giết chết nó; và đó là điều mà tôi đang sắp làm. Tôi sẽ không bán nó cho ông, vậy xin ông đừng làm phiền tôi mà tăng giá lên!”

Con bò già dường như hiểu được tiếng người nói. Khi nghe biết vậy, nó thở dài đứng dậy và đi theo người bán thịt. 

Anh bán thịt rất giận dữ vì thấy con bò cứ van nài xin tha tội chết cho nó. Thay vì đưa ra chợ ông dắt nó về nhà và chặt con bò ra thành nhiều khúc. Ông bỏ nấu thịt của chúng trong một cái nồi thực lớn. 

 Đến khuya, ông đặt nồi thịt bò trên bếp lửa cháy suốt đêm; để sáng mai thịt được nấu chín nhừ và ngon. Rồi ông đi ngủ.

Sáng sớm hôm sau, bà vợ thấy ông thức dậy. Ông nói: “Để tôi xuống coi lửa củi và xem nồi thịt nấu ra sao.” Rất lâu, bà vợ thấy ông đã không trở vào. Bà liền đứng dậy đi tìm ông. Nơi nhà bếp, bà thấy lửa đang còn cháy dưới nồi thịt nhưng chồng bà đã bị té ngã vào trong chiếc nồi lớn để cùng chung nấu với thịt bò!
 
 
 

 Butcher Stew

 “You have to go, whether you want to or not!” The fierce butcher hauled on the rope with all his might. The old cow on the other end of the rope knew what was going on. It lowered its head and refused to budge. 

“Hurry up, will you!” The butcher pulled out a whip, and cursed as he whipped the old cow. They struggled all the way up the street this way, one cursing and pulling, the other silently resisting.

When they got to a bank, the cow suddenly dropped to its knees in front of the door and started to cry. Big tears rolled down its bovine face. The president of the bank came out to see what the commotion was about. The cow looked so sad!

“Butcher, what is the price for this cow?” he asked.

“It cost 8,000, but I’m not selling it!” 

“I’ll give you 10,000, what do you say?” The bank president was touched by the cow’s tears, and had decided to save its life.

 But the butcher sneered and said, “This cow has given me a load of trouble! I’m going to chop off its head and hack it to death, that’s what I’m going to do! and I’m not going to sell it to you, so don’t even bother to raise your price!”

 The old cow seemed to understand human speech. When it heard that, it got to its feet with a sigh and went with the butcher

The butcher was furious that the cow had tried to beg for its life. Instead of taking it to the market, he took it to his own house and chopped it into pieces. He threw the pieces into his biggest cauldron to cook. 

By then it was late, so he left the cauldron on the fire overnight, so it would be thoroughly cooked and delicious in the morning. Then he went to bed.

 But early the next morning, his wife heard him get out of bed. “I’m going to check the fire and see how the beef is doing,” he said. Much later, his wife realized that he still hadn’t come back yet. She got out of bed to look for him. In the kitchen, she saw the fire was still going under the cauldron somehow her husband had slipped and fallen into the cauldron and was cooking with the beef!
 
 

Bị Đoạ Làm Chó 

Phong King là một ngôi làng rất đẹp. Phần đông dân chúng sống ở đó là những nông dân chất phát. Họ rất thật thà và chăm chỉ làm việc. Mọi người đều ăn ở hòa thuận với nhau nên cuộc sống của họ rất hạnh phúc.

 Trong làng có một gã hèn mọn xấu xa, tên Trần. Ông ta làm chủ một cửa tiệm nhỏ, việc làm ăn buôn bán khá phát đạt, nhờ vậy lần hồi ông dành dụm được một số tiền nhỏ. 

Trần thích uống rượu và ăn thịt chó. Khi rảnh rỗi, ông mua rượu và nấu thịt chó để tổ chức ăn nhậu.

Ông thường nói với mọi người: “Thịt chó có mùi vị thơm tho và ăn thật hết xẩy. Không có gì ăn khoái khẩu bằng thịt chó nấu đúng điệu và nhậu nó với rượu thật ngon!” Ông Trần thích mời bạn bè đến dự tiệc, và trong nhiều năm, ông đã giết một số thịt chó.

 Năm 1756 ông Trần bị ốm. Ngày nọ, ông ngất xỉu, phải lên giường nằm, nhưng các bác sĩ không biết ông đau bệnh gì. 

Vợ ông hết lòng ở bên cạnh chăm sóc, nhất là sau khi ông bị liên tục té xỉu ngất đi. Vào một đêm khuya, ông Trần quay tròn và nhào lộn, nhưng bà vợ không thể giúp ông được gì. Rồi bà nghe ông nói lảm nhảm. Bà ghé sát tai vào và hoảng kinh khi nghe ông nói:

 “Kìa, con chó đen khác đến! 

 “Con chó vá tới cắn tôi! 

 “Hai, ba, bốn và nhiều con chó khác nữa đếm không hết, xin bà con đến lôi giúp mấy con chó ra và xua đuổi chúng đi giùm cho!” 

Rồi ông Trần la hét lớn tiếng khiến mọi người trong nhà thức giấc. “Hãy giúp tôi! Hãy giúp tôi! Ai đó, hãy đến cứu tôi với!” Mọi người đều nghe tiếng ông, nhưng không ai thấy con chó nào hết. Tất cả đều chứng kiến cảnh ông Trần quay tròn và nhào lộn trên giường với cặp mắt ông nhìn thật dữ tợn. 

 Các thân nhân của ông đều lắc đầu buồn rầu nói: “Chắc ông ta điên rồi” 

Ngay trước khi chết, ông Trần bò quanh dưới giường. Ông khom lưng đi bằng hai tay với hai đầu gối, gầm gừ và sủa như chó cho đến lúc ông qua đời. 

 Con người vào lúc sắp lâm chung nhắm mắt thường có các tướng trạng hiện ra báo trước cho biết họ sẽ tái sinh vào cảnh giới nào sau khi mất. Người chết một cách an lành, sẽ sinh lên cõi Trời hưởng nhiều phúc lạc. Kẻ nào bị đọa vào địa ngục cũng có thể biết trước. Sự khổ đau bắt đầu hiện ra trước khi họ lìa đời và họ chết một cách đau đớn. 

Ông Trần chắc sẽ bị đầu thai kiếp sau làm thân con chó. Và nhìn gương ông bị quả báo nhãn tiền, một số người đã sợ hãi không dám ăn thịt chó nữa.
 
 
 

Going To The Dogs

 Fengching was a nice little village. Most of the people living there were simple farmers. They were honest and hard-working. Everybody got along well with everybody else, and things went well with them.

 There was one mean guy in the village, called Shen. He had a little store, and business was pretty good, so gradually he had saved a small amount of money. 

 Shen loved liquor, and he loved dog meat. When there was leisure he buy some liquor and cook up a dog and enjoy a little feast. 

He told people, “Dog meat smells nice and tastes spicy! What could be better than dog meat cooked just right and washed down with fine liquor!” He would invite his friends to his feasts, so over a period of years, he had butchered quite a few dogs. 

 In 1756, Shen was feeling weak. One day he keeled over and was put to bed, but even the doctors couldn’t figure out what was wrong with him. 

 His wife stayed faithfully by his bedside, especially after he was fainting. Late on night, Shen was tossing and turning, but his wife couldn’t do anything for him. Then she heard him saying something. She leant over to listen, and her blood ran cold as she heard him say,

“Another black dog! 

“There’s a spotted dog attacking me! 

“Dog, two, three, four of them, I can’t count them all, keep them away from me, please, somebody, keep them away from me!” 

By now he was shouting loudly enough to wake the entire household. “Help! Help! Somebody come save me!” Everybody could hear him, but nobody could see a single dog. All they saw was Shen tossing and turning on his bed, with a terrible look in his eyes. 

 “He must be out of his mind,” his relatives said sadly, shaking their heads. 

Just before he died, Shen crawled under the bed. He got down on all fours and growled and barked like a dog until he died. 

Usually, before a person dies, there will be some indication of where he is going after death. People going to heaven die peacefully, and happily. People going to hell know it. Their suffering begins before they die, and they die miserably.

Shen must have been on his way to a new life as a dog. And the chances are that he ended up in somebody the eating of dog meat.

 Những Con Lươn Trả Thù 

Qúy Châu là một trong những vùng kém mở mang ỏ Trung Hoa. Nó là tỉnh núi rừng nằm ở phía tây nam. Tại đây có một người tên Lục rất thích ăn thịt lươn đến nỗi ông không thể dùng cơm nếu không có thức ăn nấu với lươn. 

Nếu có ai hỏi tại sao ông khoái ăn thịt lươn như vậy, ông luôn luôn trả lời vì “món ăn đó rất ngon.” 

 Vào năm sáu mươi tuổi, một hôm ông ra chợ mua mấy con lươn rất mập. Người bán hàng hỏi: “Ông muốn mua cá không? Cá sống, tươi và lớn ngay đây.” 
Ông Lục hỏi: “Có lươn không?”

Anh bán lươn đáp: “Ngay đây trong hủ này.” Ông Lục vén áo đưa tay vào hủ để lựa những con lươn béo mập. Ông có nhiều kinh nghiệm, bằng cách này, ông có thể chọn mua những con lươn béo mập, mặc dù ông không nhìn thấy chúng. 

Hôm đó, mọi việc xảy ra khác hẳn. Khi ông đưa cánh tay vào hủ, mặt ông trở nên tái xanh và ông thét lên một tiếng như con bò đực bị thương. Mọi người đều nhìn vào ông và thấy những con lươn trong hủ đang tấn công, và cắn cánh tay ông dữ dội. 

Không ai biết làm sao. Họ không thể giựt mấy con lươn ra khỏi cánh tay ông. Vài người chạy về nhà báo tin và mấy đứa con ông Lục mang kéo nhọn ra cứu ông. Con ông cắt những con lươn ra làm đôi, nhưng đầu của chúng vẫn bám chặt nơi cánh tay và răng chúng cắn sâu vào thịt ông. Một lúc sau, mấy người con ông cắt đứt hết đầu những con lươn với nhiều thịt xẻo khỏi cánh tay ông Lục, và cuối cùng ông chết một cách đau đớn.
 
 
 

 Eels Take Revenge

Kuichow is one of the least developed areas of China. It is a mountainous province in the southwest. A man there named Lu liked eels so much that he couldn’t eat a meal without some. 

 If anybody asked him why he ate so many eels, he always answered, “They taste so delicious!” 

 One day when he was sixty, he went to the market to buy some nice fat eels. A peddler called, “Want to buy fish? Fresh fish, live and fat, right here!” 

“Have you got eels?” Lu asked. 

“Right here, in this urn,” the peddler replied, so Lu rolled up his sleeve and stuck his arm into the urn to choose a plump eel. He had so much experience that he could choose a delicious eel this way, just by feeling. He didn’t even have to look. 

Things were different this day. When he stuck in his arm, his face suddenly lost all its color and he let out a bellow like a wounded bull. Everybody looked at him, and saw that all the eels in the urn had attacked Lu’s arm, and were biting him as hard as they could. 

Nobody knew what to do. They couldn’t get the eels off Lu’s arm. Somebody ran to Lu’s house, and his children came to the rescue with the sharp shears. They cut the eels in half, but the heads stayed on Lu’s arm, with their teeth buried in his flesh. By the time they had cut all the eels’ heads off, all the flesh was gone from Lu’s arm, and he had died of the pain. 
 
 

 Mười Một Kiếp Đầu thai Làm Thân Bò

Vào năm 1815 có một người tên Lâm qua đời. Gia đình và bạn bè ông rất buồn vì ông là người hiền lành. 

Ông Lâm nhận biết mình đang ở cảnh giới địa ngục. Lúc ấy vị Diêm Vương đang xử án. Các tên cai ngục toàn là những quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa. Một vài con quỷ khác đang chờ lên dương thế bắt người kế tiếp xuống địa ngục. Trên tường treo đầy các dụng cụ tra tấn khủng khiếp. Đây là cảnh giới do ý nghĩ và việc làm xấu ác của chúng ta tạo ra chứ không phải bởi thần linh hay ma quỷ nào cả. 

Đến lượt bác sĩ Doản bị dẫn đưa vào tòa án. 

Những tên cai ngục quát lớn: “Hãy quỳ xuống!” Ông Doản quỳ và thấy có vài người đang quỳ bên cạnh ông. Rồi ông nhận ra một tội nhân khác – đó là ông Lý người bạn chủ hàng thịt ở địa phương ông. 

Giờ đây, ông Lý tỏ vẻ không có chút gì thân thiện. Khi thấy bác sĩ Doản ông chỉ vào mặt và thưa với vị Diêm Vương:“Tất cả đều do lỗi của ông ta! Chính ông là tội phạm! Nếu ông Doản không ăn thịt bò, thì tôi đã không giết bò! Xin ngài hãy bắt ông Doản và thả tôi ra!” 

Bác sĩ Doản đáp lại: “Thưa ngài, tôi không có lỗi gì hết. Nếu ông Lý không giết, bán thịt, thì tôi đã không ăn thịt bò.” Ông Lý tức giận khi nghe ông Doản nói vậy. Những tên cai ngục liền can ngăn hai người ra. 

Vị Diêm Vương đập mạnh tay xuống bàn và quát lớn: “Hãy im đi!” Một người giết, còn người kia thì ăn. Cả hai đều có tội hết!

Diêm Vương nói: “Các ngươi không có chút lương tâm gì hết sao? Trâu bò cày ruộng để trồng lúa nuôi sống con người mà quý vị đã không biết ơn lại còn giết hại ăn thịt những con vật vô tội này. Nếu người ta ăn nhiều thịt bò, nhiều bò sẽ bị sát hại. Nếu người đời dùng ít thịt thì vài con bò bị giết thôi. Nếu không ai ăn thịt thì sẽ không có con bò nào bị giết chết. Các ngươi có biết như vậy không?” Cả hai đều tuân phục gật đầu. 

Diêm Vương phán tiếp: “Ông Lý! Tội của ngươi là không có lòng thương và giết hại các sinh vật, ta đày ngươi vào cảnh giới Địa Ngục, để ngươi nhận chịu quả báo bị hành hạ khổ đau cho đến khi nào ngươi biết ăn năn hối cải. Hãy lôi nó đi!” Các tên cai ngục hò hét đá vào ông Lý bán thịt kêu la và lôi dắt ông ta đi. 

“Còn bác sĩ Doản! Tội ông là đã ăn quá nhiều thịt bò. Mỗi lần bệnh nhân mời đãi ông dùng cơm tối, ông luôn luôn đòi ăn thịt bò. Nhà ngươi có biết đã dùng thịt hết bao nhiêu con bò rồi không? Vậy ông đã thấy tội của ông chưa?” Bác sĩ Doản ngước lên và gật đầu. 

“Không những thế, ông còn giết chết mười một bịnh nhân do sự chữa trị ngu dốt và bất cẩn của ông.” 

“Với những tội ác này, ta trừng phạt bắt ngươi phải nhận đâù thai trong mười một kiếp làm thân bò để trả món nợ do sự chữa bịnh sai lầm mà ông đả gây ra cho các bệnh nhân đó. 

Ông sẽ kết liễu mỗi kiếp sống của mình một cách đau đớn dưới lưỡi dao của tên hàng thịt để mong chuộc cái tội ông gây đau khổ cho các sinh vật hiền lành. Hảy dắt nó đi!” Bác sỉ Doản kêu thét lên, và những tên cai ngục nắm lôi đẩy ông ra ngoài tòa án. 

Diêm Vương lại quay sang ông Lâm, nói với gọng ôn tồn: “Riêng phần ông, vì ăn ở hiếu thảo với cha mẹ và có lòng yêu thương tổ quốc, nên chưa đến phiên ông, vậy nhà ngươi có thể trở về dương thế. Nhưng hãy kể cho mọi người biết những điều ông đả thấy ở đây để họ ăn hiền ở lành hầu tránh khỏi bị đọa vào cảnh giới địa ngục khổ đau này.” 

Và nhờ vậy, ông Lâm đã sống trở lại.
 
 
 

Eleven Lives As Cow

In about 1815, a man named Lin died. His family and friends were sad, because he had been such a nice person. 

Lin found himself in Hell. There is a court there, presided over by the King of Hell. The bailiffs are demons with bulls’ heads and horses faces. Other demons are waiting eagerly to go get the next to die. The walls are hung with terrifying instruments of torture. These are all created by our own wicked thoughts and evil acts, not by any gods or devils. 

A doctor, Yin was dragged into the court. 

“On your knees, scum!” roared the bailiffs. Yin knelt, and noticed someone else kneeling beside him. Then he realized he knew the other prisoner — it was his friendly local butcher, Li. 

 Li was in no friendly mood now. When he saw Dr. Yin, he stuck his finger in his face and told the King, “It’s all his fault! He’s the one! If he didn’t eat beef, I wouldn’t kill any of cattle! Take him , and let me go.” 

Yin wouldn’t have any of that! He said, “Your honor, if he didn’t kill cattle, I wouldn’t eat beef.” Li was furious when he heard that, and the bailiffs had to drag them apart. 

 The King slammed his fist on his desk. “SILENCE!” One killed and the other ate. You’re both equally guilty! 

“Don’t you have a conscience? Cows and bulls plow fields to grow grain to feed you, but you don’t have any gratitude; you eat these innocent beasts. If people eat a lot of beef, a lot of cows die. If people eat a little beef, few cows die. If people eat no beef, no cows die. Do you two understand that?” They nodded submissively.

 “Li! For your crimes against living creatures and against your conscience, I sentence you to Hell, where you will suffer until you have learned your lesson. Take him away!” The demons gleefully dragged the howling butcher away, kicking him as they went.

 “Dr. Yin! You have eaten too much beef. Every time a patient invited you to dinner, you insisted on eating beef. Do you have any idea of how many cows you have eaten? Do you admit your guilt?” Dr. Yin hung his head and nodded.

 “Not only that, but eleven of your patient died due to your stupidity and carelessness.” 

 “For your crimes, I sentence yoy to eleven lives as a cow, wherein you will pay back your debts to those victims of your malpractice. You will end each life in suffering under the butcher’s knife, as just compensation for the torments you caused innocent living creatures, Take him away!” Dr. Yin screamed as the demons pulled him out of the court.

 “As for you,” the King turned to Lin, speaking in a different tone. “You have been good to your parents and loyal to your country. It’s not your time yet, so you can go back. But be sure to tell everyone what you saw here, so they do not end up in this predicament.” 

And with that, Lin came back to life.

Ao Sen Và Con Rết 

Vào khoảng 400 năm trước có vị đại sư tên “Liên Trì,” có nghĩa là Ao Sen. Ông cầu mong tất cả mọi người được vãng sanh về Ao Sen nơi cảnh giới Tịnh Độ của đức Phật A Di Đà. 

Ngày nọ, vị sư gặp một người xách những con rết được cột vào một thanh tre. Chúng đang đau khổ. Sư Liên Trì hỏi: “Ông có thể mở rộng lòng thương mà thả hết những con rết này ra không?” 

“Không được! Những con rít độc hại này dùng làm thuốc rất hay! Tôi không muốn thả chúng ra, nhưng nếu ông mua thì tôi có thể bán.” 

“Rất tốt. Ông muốn bán với giá bao nhiêu?” Mặc dù người đó rất thô lỗ, nhưng sư Liên Trì vẫn tươi cười và nói chuyện rất lễ độ. Vị sư mua hết những con rết đó, nhưng vì bị xâu vào que tre cho nên phần lớn chúng đã chết. Chỉ có một con đang còn sống. Nó nhìn sư Liên Trì rất lâu. Rồi nó bò đi.”

“Một lát sau, nhà sư Liên Trì đang ngồi nói chuyện với người bạn về giáo lý đức Phật. Thình lình mặt đạo hữu này bỗng tái đi và ông la lên: “Hãy trông kìa con rết!” 

Một con rết to lớn, nhiều lông và ghê rợn đang bò trên tay áo của nhà sư Liên Trì. Người bạn chạy lấy một que gỗ để hất con rết xuống nhưng nó vẫn không chịu đi. Sư Liên Trì tỏ vẻ không chút sợ hãi.

Nhà sư hỏi con rết: “Phải chăng ngươi là con rết mà ta đã mua và thả ra ban nãy? Nếu chính là con thì hãy ở lại đây để ta thuyết pháp cho nghe.” 

Con rết nằm yên không cử động, và sư Liên Trì dịu dàng bảo nó: “Bất cứ ai thông suốt những lời dạy của chư Phật đều hiểu biết rằng bản thể của vạn vật trong thế giới vật chất này đều do tâm chúng ta tạo ra.

“Mọi cuộc sống đều do tâm làm chủ. Con người có ý tưởng xấu xa, ích kỷ sẽ trở thành chó sói hay cọp beo. Người nào có tâm nham hiểm sẽ biến thành loài rắn dữ, bò cạp hay loại sâu bọ độc hại khác. 

“Kiếp này con làm thân con rết có chất độc. Phải chăng đó chỉ là việc tình cờ? Không phải, mà chính do đời trước con đã có cái tâm ác độc. Nếu con muốn hết khổ đau, con phải dứt trừ cái tâm xấu ác, và con sẽ được giải thoát. Nhưng chỉ có con mới cứu thoát được cho con. 

“Con hiểu chưa? Thôi khá đủ rồi. Bây giờ con có thể bò đi. Hãy ngoan hiền nhé!” 

Con rết chậm rãi bò ra ngoài cửa sổ. Người bạn của đại sư từ dưới ghế ngồi cũng trườn mình đi ra.

Vị sư nói với ông ta: “Đạo hữu có thể nghĩ rằng loài vật được sống tự do, nhưng chúng sống trong sợ hãi. Tệ hơn nữa là chúng sống trong vô minh. Đời là biển khổ. Nếu muốn giải thoát khỏi luân hồi, đạo hữu nên niệm Phật A Di Đà cầu nguyện Ngài tiếp dẫn thần thức của đạo hữu (sau khi lâm chung) được vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Nơi đó đạo hữu có thể tự mình tu hành để thành Phật. Đạo hữu sẽ giải thoát khỏi sanh tử luân hồi, và đạo hữu có thể cứu độ cho những chúng sanh khác. Như vậy không an lạc hạnh phúc hơn là phải đắm chìm trong biển luân hồi sanh tử, tử sanh mãi hoài hay sao?”
 
 
 

Lotus Pond And the Centipede

About 400 years ago, there was a great monk called Liench’ih, which means Lotus Pond. He hoped all living creatures could be born again in the lotus pond in Amitabha’s Pure Land. 

Once he saw a man with a bunch of centipedes strung out on a sliver of bamboo. They were suffering. Liench’ih asked, “Would you be so kind as to free those centipedes?”

“No way! These are poisonous centipedes that make good medicine. I won’t let them go, but I might sell them to you, if you paid.” 

“Fine with me. How much do you want?” Even though that man was very rude, master Liench’ih smiled and talked politely to him. He bought all the centipedes, but they were almost dead because they had been skewered on the bamboo spike. Only one was still in good shape. It looked at Liench’ih for a long time. Then it ran away on all of its legs. 

 Some time later, Liench’ih and a friend were sitting around talking about Buddhist sutras, or holy books. Suddenly, his friend’s face went pale. “Look at the size of that centipede!” 

A huge, hairy, scary centipede was crawling up Master Liench’ih sleeve. His friend ran for a stick to brush it off, but the centipede wouldn’t move. Liench’ih didn’t seem worried. 

 Liench’ih talked to the centipede. “Could you be that centipede I set free a while back? If you are, just sit there quietly and I’ll teach you about Buddhism.”

The centipede didn’t move, so the Master very gently said, “Anyone who wants to thoroughly understand what all the Buddhas know, has to see that the nature of everything in the material universe is a product of our minds.

“All life is made by our minds. A person with a vicious heart becomes a wolf or a tiger. A person with a poisonous mind becomes a snake or a scorpion, or some other poisonous insect. 

“You are now a poisonous centipede. Is this just chance? No, you must have had a poisonous mind in a past life. If you want to leave behind your sufferings, leave behind your poisonous mind, and you will be free. But only you can free yourself. 

“Understand? That’s good. Now, it’s time for you to go. Be good!” 

The centipede slowly crawled out the window. The master’s friend slowly crawled out from under his seat. 

 The Master told him, “You may think animals are free, but they live in fear. Worse than that, they live in ignorance. Life is full of suffering. If you want to be free from rebirth, ask Amitabha to take you to live in his Pure Land. There you can study to become a Buddha yourself. You will be free from rebirth, and you can save other living creatures. Isn’t that better than living and dying and living and dying?”

Một Tai Nạn Vì Săn Bắn 

Núi đồi thật đẹp. Nhưng ông Ngô không chú tâm đến việc ngắm cảnh. Ông và người con dành nhiều thì giờ để săn bắn tại vùng núi này. Ông Ngô là người xử dụng cung tên rất giỏi. Ông không bao giờ bắn trật phát nào. Không cần nhắm ông vẫn bắn trúng đích. Ông chọn xong mục tiêu, giương cung lên bắn là trúng ngay. Không một con vật nào có đủ mau và lanh lẹ để tránh được những mũi tên của ông.

 Trông kìa, nơi đó, một con nai con. Giữa cảnh thiên nhiên, nai con là một trong những con vật đáng yêu nhất, nhưng ông Ngô lên núi không phải để ngắm cảnh thiên nhiên. Vừa thấy nó, ông liền rút mũi tên ra khỏi ống và vù một cái, con nai liền ngả lăn ra chết. Cách đó vài phít (feet) ông Ngô thấy mẹ nó trong bụi cỏ. Từ nơi ông đứng, ông không thể bắn trúng nó, cho nên ông chờ.

Nai mẹ vô cùng buồn khổ cho đứa con nhỏ của mình! Nó khóc than và liếm trên những vết thương của con nai. Khi nó đang chú tâm săn sóc cho con nó, ông Ngô bắn lẹ một phát, nai mẹ liền chết ngay tại chỗ. Nhưng ông Ngô vẫn chưa thấy đủ. Ông nghĩ có thể còn nhiều con nai khác ở trong vùng, vì ông nghe có tiếng động xào xạc chung quanh đám cỏ. Có thể có ít nhất là một hoặc hai con nữa.

Ông nghĩ “ba con nai tốt hơn là hai con,” và ông chuẩn bị. Rồi ông xác định vị trí nơi phát ra tiếng động và bắn vào bóng mát nơi đám cỏ.

Ông vui mừng khi nghe tiếng của một con vật khác chết ngã xuống đất, nhưng niềm vui của ông đã biến thành sự đau khổ khi ông nghe có tiếng rên!

Con nai đâu kêu rên như vậy! Đó là tiếng rên của con người! Ông Ngô vội vàng chạy lại và thấy mũi tên thứ ba của ông không phải bắn hạ con nai mà đã giết chết đứa con trai cùng đi săn với ông! 

Ông Ngô vô cùng kinh ngạc. Hình như ông nghe có tiếng nói bảo ông: “Này ông Ngô! Giờ đây chắc ông đã thấm thía nỗi đau khổ, khi thấy đứa con đã bị giết chết bởi chính mũi tên của mình? Loài vật cũng yêu thương con của chúng như ông vậy. Ông có thấy từ trước đến nay ông đã gây ra không biết bao nhiêu sự đau thương chết chóc cho cha mẹ của những con vật nhỏ?”

Ông Ngô đứng đó, chết lặng người, trong lòng ngập tràn đau khổ và ông chú ý nghe có tiếng động gần đó. Trong giây lát ông nhận thấy rằng con vật trong đám cỏ không phải con nai mà là con cọp! Nhưng quá trễ. Trước khi kịp chạy thoát, miệng cọp đã vồ ngoặm lấy cánh tay ông thường dùng để bắn giết thú vật, và trong phút chốc toàn thân người ông cũng bị cọp ăn hết.
 
 
 

A Typical Hunting Accident

The mountains were splendid. But Wu didn’t care a whit for scenery. He and his son spent a lot of time hunting in these mountains.Wu was a dead shot with his bow and arrow. He never missed. He was such a good shot that he barely had to aim. He just picked a target, pulled his bow, and shot it down. No animal was quick enough or agile enough to escape his arrows.

Look, over there, a little fawn! A little fawn must be one of the most adorable animals in nature, but Wu wasn’t in the mountains to admire nature. As soon as he spotted it, he whipped an arrow out of his quiver and zoom! the fawn fell over dead. Then Wu noticed its mother a few feet away in the grass. He couldn’t get a good shot at her from his angle, so he waited. 

She was terribly sad about her little baby! She let out a cry as she starting licking her baby’s wounds. Just as she was concentrating on that, Wu pulled off a quick shot and the mother deer died on the spot.

But that wasn’t enough for Wu. He thought there might be more deer in the area, because he heard something rustling around in the grass. There was at least one more in there, maybe two. 

“Three deer is better than two,” he thought, as he prepared. Then he located the source of the sound and shot at a shadow in the grass. He was proud to hear the sound of another dead body falling to the ground, but his pride turned to anguish when he heard a groan! 

Deer don’t groan like that! That was a human voice! Wu rushed over and saw that his third shot had killed not a deer, but his own son, who had come out hunting with him.

Wu was stupefied. He seemed to hear a voice telling him, “Wu! Now do you know what it is like to see your baby shot to death with an arrow? Animals love their young as much as you do. How much anguish have you caused animal parents?”

 Wu stood there, numb, too heartbroken to pay attention to a sound that came from the side. Then in a flash he realized that the other animal he had heard in the grass was not a deer, but a tiger! But he was too late. Before he could move, his shooting arm was in the tiger’s mouth, and in a moment, the rest of him was, too.

Thần Linh Trừng Phạt Người Ăn Thịt Chó

Ngày xưa tại tỉnh Quảng Đông bên Trung Quốc có một vị đại tướng tên Trường. Ông ta là nhà đại học giàu và có trình độ hiểu biết cao cấp về quân sự. Tánh tình ông hung dữ và cứng rắn cho nên ông có nhiều kẻ thù. Nhưng ông cũng là người có học thức rộng, có tài làm thơ, và là một thi sĩ xuất sắc lúc bấy giờ. Ông nổi tiếng trong việc sáng tác thơ văn cũng như về lòng can đảm của một quân nhân.

Nhưng, giống nhiều người Quảng Đông khác, ông có một nhược điểm là thích ăn thịt chó. Không có một ngày nào mà ông không giết chó để nấu ăn. Ông dùng thịt chó như người ta ăn thịt gà và thịt heo. Kết quả là gặp ông ở đâu, tất cả những con chó đều tru rống lên.

Vì có tài cho nên ông Trường được giữ một chức vụ quan trọng trong chính quyền. Có lần nhà cầm quyền gửi ông đến tỉnh Phúc Kiến. Trong chuyến đi thanh tra này, ông muốn đến viếng thăm ngọn núi Võ danh tiếng. Ngọn núi dựng đứng thẳng lên bầu trời trông giống như chiếc gậy đánh dã cầu. Và rất khó để leo lên nên ông Trường phải nghĩ lại đêm trong làng gần đó.

Những người lính hầu biết ông thích ăn thịt chó cho nên đã mua mấy con chó làm thịt để nấu cho ông dùng bữa tối.

Hôm sau, phái đoàn của ông muốn đến viếng thăm ngôi chùa Lão Giáo có cảnh trí rất đẹp như người đời thường nhắc tới.

Khi phái đoàn đến chùa, ông Nguyên, vị pháp sư trông coi ở đó muốn ngăn chận không cho họ vào, nhưng không ai dám nói gì đến ông Trường là một nhân vật có nhiều thế lực của chính quyền. 

Ngay khi vừa mới bước vào chùa, ông Trường nhìn thấy một luồng ánh sáng vàng chói mắt. Ông không thể nhìn nó. Ông cảm thấy trong mình khó chịu và ngất xỉu. Khi những người theo hầu đỡ ông Trường dậy, ông cấm khẩu không nói được và thân thể ông bị bại liệt. Toàn thân người ông mềm nhũn như không có xương sống. Khi ông quỳ xuống lạy, người ta nhận thấy ông như một xác chết! 

Những tên lính theo hầu kinh hoảng. Họ hỏi vị pháp sư làm sao cứu ông sống lại. Vị pháp sư nói: “Vị thần Vương linh chúng tôi thờ ở đây rất linh thiêng. Ngài rất thương chó bởi vậy người nào thường ăn thịt chó họ sợ không đến gần nơi này. Họ không dám chọc giận vị thần khủng khiếp đó hay xúc phạm đến ngôi chùa của ngài. 

“Tôi muốn ngăn chận ông Trường lại, nhưng vì ông là một quan chức có quyền thế, nên tôi không dám làm phiền ông. Khi chọn lựa đến viếng thăm nơi này có nghĩa là ông sẵn sàng chấp nhận lấy cái chết.”

Những người theo hầu ông Trường đều sợ hãi. Một vị hỏi: “Nhưng tại sao thân thể ông ta mềm nhũn như vậy?”

Vị thầy pháp trả lời: “Sự việc thường xảy ra như thế. Vì tất cả những đốt xương trong người ông đều gãy vụn ra hết, bởi lý do ông bị thần Vương linh đánh bằng roi.”
 

Whipped By The God

In Kuangtung there was a general who was also a great scholar. His name was Chang. He was a highly trained martial artist. He was rough and strong, and could take on any number of enemies. But he was also a very highly educated scholar who could write poetry as well as the best poets of his day. He was as well known for his writing as for his military prowess.

But, like so many Cantonese, he had a weakness. He loved to eat dog meat. There was never a day when a dog wasn’t cooking in his kitchen. He ate dog the way other people eat chicken or pork. As a result, wherever he went, all the dog howled. 

Chang was so talented that he was given important posts. Once he was sent to Fukien. During a tour of inspection, he climbed the famous Wu Mountain which sticks straight into the sky like a baseball bat. It is very difficult to climb, so he had to spend the night at a village there. 

His subordinates knew their chief liked dog, so they bought some local dogs for his dinner. 

The next day, they went to take a look at a Taoist temple with great scenery somebody had told them about.

When they got to the temple, the sorcerer in charge, Yuan, seemed to want to stop them, but he did not dare say anything to such a powerful imperial official as Chang!

As soon as Chang stepped into the temple, he saw a piercing gold light. He couldn’t stand it. He fell down in a faint. When his subordinates picked him up, he couldn’t speak, and he seemed to be paralyzed. His whole body was limp, like he didn’t have a bone in him. When they felt his forehead, they realized that he was already dead!

His subordinates were in a panic. They asked the sorcerer what was up. He said, “The god we worship here, Wangling, is very powerful. He loves dogs, so people who eat dog meat are usually afraid to come near this place. They dare not provoke such a powerful spirit, or profane his temple.

“I wanted to stop his honor Chang, but he was a powerful Mandarin, so I did not dare to do anything. His choice of coming here means that he was fated to die.”

Chang’s subordinates were awed. One of them asked, “But why is his body so limp?”

The sorcerer replied, “It always happens that way. Every bone in his bones has been broken into bits, because he has been whipped by the god Wangling.”

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
23 Tháng Bảy 2015(Xem: 4830)
Thời Đức Phật tại thế ở nước Xá Vệ, có một huyện nhân dân đều quy Tam bảo, phụng trì năm giới và thực hành mười thiện nghiệp của Phật dạy. Khắp huyện không bao giờ sát sanh, người uống rượu nấu rượu cũng không có.
22 Tháng Hai 2015(Xem: 8376)
Một ngày kia, khi Đức Phật ngụ tại tịnh xá Kỳ Viên (Jetavana), một số Tỳ Kheo hỏi ngài là có lợi ích gì không, khi giết dê, cừu, và những sinh vật khác để cúng giỗ người thân đã qua đời.
19 Tháng Mười 2014(Xem: 12907)
Do duyên: Trước năm 1975, có vị giáo sư người Thiên chúa giáo, khi đọc truyện Thái tử Tu-đại-noa bố thí vợ con, vị ấy đã lên án khá gay gắt trong một bài viết, nói rằng, hành động bố thí vợ con là quá đáng, là không có nhân tính (tôi nhớ có thể nhầm, ngại không đúng nguyên văn). Vừa rồi, độc giả Thái Kim Du, có lẽ là một cư sĩ, trong một comment dưới bài viết của tôi trên trang mạng Thư Viện Hoa Sen, có nội dung sau: ....