Phần 6 - Phật Giáo Trong Sinh Hoạt Văn Hóa

06 Tháng Hai 201200:00(Xem: 8082)


HỘI THẢO KHOA HOC

300 NĂM PHẬT GIÁO
GIA ĐỊNH - SÀI GÒN - TP HỒ CHÍ MINH
Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2002

Phần 6 - Phật giáo trong sinh hoạt văn hóa

Phật giáo trong sinh hoạt văn hóa tại Sài Gòn-TP Hồ Chí Minh
VÕ ĐÌNH CƯỜNG 

Văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra trong quá trình phát triển của lịch sử, định hình cho sự hiện hữu của con người. Sự hiện hữu này tùy thuộc vào hoàn cảnh chung quanh và vào chính thể cách, tư duy, tình cảm của một cộng đồng con người ở một địa phương. Do đó, trong cái chung của một nền văn hóa loài người, có những nền văn hóa mang tính riêng biệt để có thể gọi là văn hóa của làng xã, quận huyện, đô thị, quốc gia, khu vực địa lý v.v... Vì văn hóa định hình cho sự hiện hữu con người, thể hiện sự hiện hữu ấy nên văn hóa còn mang tính hướng dẫn và dự phóng cho sinh hoạt của tương lai. Phật giáo (PG) cũng như nhiều tôn giáo lớn khác của loài người, đã được thể hiện trong sinh hoạt tại những nơi mà tôn giáo của Từ bi và Trí tuệ này đâm chồi và nẩy nở, tức là, đã dự phần làm nên văn hóa và định hình cho nếp sống của cộng đồng. 

Các chúa Nguyễn từ đầu thế kỷ XVII, khi mở mang bờ cõi phía Nam, trong nỗ lực xây dựng một thế lực, một bờ cõi chống với nhà Trịnh, đã tìm cách phát triển PG để có thể xây dựng một nền văn hóa vững mạnh, hậu thuẫn cho chính trị và định hình cho sự phát triển quốc gia. Việc cho xây cất chùa Linh Mụ tại Huế (1601) khi mới chân ướt chân ráo đến Thuận Hóa, chúa Nguyễn Hoàng đã đặt cơ sở cho việc thực hiện ý định ấy. Chúa Nguyễn Phúc Chu trùng tu, xây dựng thêm cho chùa Linh Mụ, việc mời các Thiền sư Nguyên Thiều, Thạch Liêm... từ Trung Hoa sang cũng là một nỗ lực xây dựng văn hóa Phật giáo. 

Năm Mậu Dần 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Thống suất Nguyễn Hữu Kỉnh vào Nam chia đất Đông Phố, lập huyện Phước Long, dinh Trấn Biên (thuộc tỉnh Đồng Nai ngày nay), lập huyện Tân Bình, dinh Phiên Trấn (thuộc Sài Gòn-TP Hồ Chí Minh ngày nay) thì PG cũng theo các đoàn di dân mà phát triển tại vùng đất này. Bấy giờ ở Đồng Nai đã có nhiều chùa Phật và hai chùa đã được chúa sắc tứ. Cũng chẳng bao lâu, tại Phiên Trấn, PG phát triển nhanh chóng. Ngôi chùa cổ nhất thành phố chúng ta hiện nay còn tồn tại là chùa Giác Lâm, được xây dựng năm 1744 đời chúa Nguyễn Phúc Khoát là một bằng chứng cho sự hiện diện và đóng góp của văn hóa PG từ khi thành phố được thiết lập. 

Mỗi ngôi chùa là một trung tâm sinh hoạt văn hóa. Từ việc thực hiện nghi lễ, việc huấn luyện nếp sống tâm linh hiền thiện, đến việc giáo dục, nghiên cứu, biên soạn kinh sách, phát hành các pháp khí như tranh tượng, sách báo PG ở chùa, tất cả đã làm phong phú các sinh hoạt văn hóa của thành phố. 

Từ đầu thế kỷ XX, phong trào chấn hưng PG tại Sài Gòn-Gia Định đã đóng góp tích cực cho việc phát triển văn hóa của thành phố. Việc phiên dịch kinh sách ra chữ quốc ngữ, việc thành lập Thích học đường, Phật học Thư xã, Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học, xuất bản tạp chí Từ Bi Âm... là những bằng chứng hùng hồn cho sự đóng góp văn hóa của PG. 

Những đặc trưng của văn hóa PG cần được nghiên cứu sâu hơn trong suốt 300 năm lịch sử thành phố ta qua cách kiến trúc chùa, nghệ thuật đúc chuông, tượng, tranh vẽ, âm nhạc, đặc biệt trong thể cách tụng đọc kinh kệ, trong cung cách thực hiện nghi lễ, trong sinh hoạt hội đoàn Phật tử trong sách vở, báo chí, kịch nghệ, phim ảnh PG tại thành phố ta. Theo với đà phát triển, nền giáo dục PG từ tiểu, trung, đại học cũng phát triển, góp phần làm phong phú, đa dạng cho sinh hoạt văn hóa nước nhà. Nhân đây, chúng tôi xin bày tỏ niềm mong ước của mình là làm sao giới PG thành phố ta nỗ lực nghiên cứu sâu hơn về những đóng góp văn hóa của PG cho thành phố. Cụ thể là chúng ta cần những bổ sung tiếp cho cuốn lịch sử Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh mà tôi đã có dịp được đọc bản thảo. 

Sau ngày giải phóng đất nước, năm 1981, Giáo hội PG Việt Nam được thành lập, PG thành phố ta đã nhanh chóng vươn lên, góp phần hữu hiệu cho việc xây dựng và phát triển thành phố. Qua đó, những hoạt động văn hóa của PG thành phố đã chứng tỏ được sức phát triển của hoạt động PG không những tại địa phương mà còn tiêu biểu cho văn hóa PG cả nước. Gần 100 trong khoảng 1.000 ngôi chùa tiêu biểu cho bộ mặt PG tại thành phố đã và đang được trùng tu, tôn tạo. Kinh sách PG in ấn càng lúc càng nhiều, Thành hội PG đều đặn cho in ấn và phát hành năm bảy chục đầu sách, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội cũng đóng góp vào việc nghiên cứu Phật học và con số trên mười đầu sách được thực hiện hàng năm cũng là những đóng góp đáng kể.

Tuần báo Giác Ngộ, nguyệt san Giác Ngộ, Tập Văn của Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội được phát hành rộng rãi trong và ngoài nước. Các cuộc hội thảo do PG thành phố tổ chức đã thu hút được nhiều giáo sư, học giả từ nhiều giới trên khắp cả nước và kể cả một số ở nước ngoài. Các băng từ các bài thuyết giảng Phật pháp, phim ảnh PG, tranh tượng và nhiều pháp khí khác được sản xuất tại thành phố cũng được quần chúng hoan hỷ đón nhận. 

Một dấu hiệu đầy khích lệ đáng ghi nhận là các giáo sư, học giả và giới văn nghệ sĩ thành phố ta càng lúc càng thể hiện tình cảm và thiện chí đóng góp đối với PG. Các cuộc lễ lạc, hội thảo, các bài nghiên cứu, sáng tác PG cũng như những công trình xây dựng văn hóa đều có sự tham gia của lực lượng quan trọng này. 

Hoạt động văn hóa của PG thành phố hiện nay là những kế thừa của Phật sự mà 300 năm qua PG đã đóng góp cho thành phố. Chúng ta có điều kiện để vươn lên, để mở rộng các sinh hoạt văn hóa của mình. Đó là quyết tâm vì Đạo pháp và Dân tộc, là sự ủng hộ của giới trí thức và của đông đảo quần chúng Phật tử, sự giúp đỡ tận tình của Nhà nước. Bên cạnh đó, chúng ta cũng còn nhiều khó khăn cần vượt qua, trong đó nổi bật cả về mặt chủ quan và khách quan là việc tổ chức và hành chánh. Thành hội PG cần có thêm nhân sự chuyên môn và điều hành hành chánh trong các sinh hoạt văn hóa. Trong lúc đó, dù Nhàâ nước vẫn lưu tâm giúp đỡ Thành hội, nhưng những thủ tục hành chánh đối với sinh hoạt văn hóa PG còn rườm rà, phứác tạp. Ví dụ, các giấy phép tổ chức hội thảo, giấy phép in ấn sách vở, tài liệu PG, thủ tục phát hành các băng từ về Phật học và văn nghệ PG, thủ tục nhận sách vở báo chí Phật học từ nước ngoài cũng như từ trong nước gởi đi v.v... tất cả đã gây trở ngại nhiều cho các hoạt động văn hóa PG. 

Mong sao, PG thành phố ta tiến hành tốt đẹp việc thực hiện lý tưởng vì Đạo vì Đời, trong đó, việc xây dựng và phát triển văn hóa của nước nhà có sự đóng góp tích cực của PG, tạo nên một bản sắc văn hóa dân tộc, định hình cho một bản chất, một lối sống tâm linh đẹp đẽ, phong phú của người Việt Nam.«
 
 

Kỷ niệm 300 năm Phật giáo Gia Định-Sài Gòn
Sa môn THÍCH THÔNG BỬU 


 

 

I. KHÁI QUÁT VỀ CHỦ ĐỀ KỶ NIỆM 300 NĂM PHẬT GIÁO (PG) GIA ĐỊNH - SÀI GÒN “THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH” 

Trước 300 năm, vùng này rải rác một vài sắc dân sống theo tục lệ du canh du cư, dựa trên sông Đồng - sông Cửu, và cũng chính nhờ nhân tố này mà các thương thuyền từ miền Trung Việt Nam dừng chân buôn bán với thổ dân. Đất đai phì nhiêu, khí hậu mát mẻ, nước ngọt, rau ngon đã khiến những người dân nước ngoài lần lượt đến đây lập nghiệp và họ trở thành nông dân, hoặc vợ trông nom nông trại, chồng kiêm cả thương lẫn nông. 

Cũng thuở ấy ở Trung Hoa, nhà Thanh thắng nhà Minh. Quan trường nhà Minh, một số không chịu đầu hàng, họ giong thuyền tỵ nạn, tìm nơi đất lành tạm trú để chờ dấy nghiệp “phản Thanh, phục Minh”. Họ chạy sang phía Việt Nam, dựa theo sông Đồng - sông Cửu, họ gặp người Việt Nam và một số sắc dân an cư lạc nghiệp ở đây, nên họ nhập vào cùng ăn cùng ở cùng làm. Lúc bấy giờ chưa có nền hành chánh. Quan trọng trong số quan tướng nhà Minh có 3 vị: Thượng tướng Trần Thượng Xuyên, ở Biên Hòa (vùng Cù lao Phố), sau dời về vùng bến Lê Quang Liêm (Chợ Lớn bây giờ). Vị thứ nhì là quan văn Mạc Cửu, ở tại Hà Tiên, và thứ ba là quan văn Dương Ngạn Địch, ở vùng Mỹ Tho. Sau đó người nhà ám sát Dương Ngạn Địch, gây nội chiến. Cùng lúc, lại có giặc Xiêm La (Thái Lan) xua quân đánh phá vùng này. Triều đình vua nhà Nguyễn cử quân dẹp loạn. Khi an bình, nhà Nguyễn lập nền hành chánh tại đây. Từ đây, vùng này được mang tên Gia Định và sau đó dần dần có tên Nam Kỳ lục tỉnh. Tất cả các quy thức chính trị, quân sự, hành chánh, xã hội, văn hóa... đều rập khuôn theo triều đình nhà Nguyễn (Tham khảo tài liệu Việt Nam nhất thốngchí và sử liệu của học giả Trần văn Giàu và thi phẩm Từng giọt ma ni).

Lúc bấy giờ về tôn giáo thì có Nho - Thích - Lão; nhưng Nho và Lão có lẽ còn lẻ loi, nên dấu vết văn hóa chẳng còn bao nhiêu. Các cơ sở của PG, chùa tháp đã hiện hữu trong nền văn hóa và tín ngưỡng dân chúng đa số. Nhưng khi Pháp chiếm Việt Nam thì Nam Kỳ lục tỉnh bị nhượng cho Pháp và nửa phần đất Gia Định bị cắt cống hiến đứt cho Pháp một nửa. Từ đây mới có hai chữ Sài Gòn (mà người Hoa gọi là Tây Cống). Vì quyết tâm Tây hóa phần đất Sài Gòn, nên người Pháp đã dỡ phá rất nhiều ngôi chùa, đập nhiều ngôi tháp ở vùng này. Tuy vậy nay vẫn còn nhiều ngôi chùa “đại già lam” với tầm vóc kiến thiết quy mô, nên nay được liệt kê vào nơi văn hóa lịch sử. 

Chứng tích những ngôi chùa bị Pháp dỡ, điển hình nhất là pho tượng Phật bằng gỗ của chùa Phước Tường, hiện nay vẫn còn tại Viện Bảo tàng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh (Thảo cầm viên). 

Đạo Phật tại Việt Nam, vào thời kỳ Pháp đô hộ, không chỉ riêng ở Nam Kỳ lục tỉnh (miền Nam Việt Nam), hoặc ở riêng Sài Gòn là bị đập tháp, dỡ chùa, phá bỏ tượng Phật, mà cả nước cũng đều chung số phận. Thảm khốc hơn hết là mất tự do tín ngưỡng. Đây mới chính là điều nghiệt ngã nhất của người Việt Nam. Ngày 6-8-1950, người Pháp mật lệnh cho Quốc trưởng Bảo Đại ban hành đạo dụ số 10, tinh thần đạo dụ là triệt hạ tôn giáo. Riêng chỉ có đạo Thiên Chúa được công nhận là tôn giáo duy nhất mà thôi. Các đạo khác, nhất là PG, một tôn giáo chiếm đa số dân chúng và đã hiện diện lâu đời ở đất nước này thì lại bị đạo dụ số 10 hạ xuống ngang hàng là một hiệp hội, như hiệp hội đua ngựa, hiệp hội đá gà... Nhiều người Việt Nam có tín ngưỡng PG vẫn hoài tưởng Pháp, là vì họ chưa hiểu được dã tâm tiêu diệt PG Việt Nam, qua đạo dụ số 10 của thực dân Pháp. Chẳng những riêng đối với PG, mà cả dân tộc Việt Nam, người Pháp đã áp dụng đúng chính sách “thực dân”. Chữ “thực” ở đây là trồng dân, chứ không phải là ăn - thực dân là trồng dân. Ai vô dân Tây - nhận theo quốc tịch Pháp thì được ưu tiên, nhất là đồng tín ngưỡng như người Pháp. 

Vua nhà Trần dâng công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành, được vua Chiêm đáp nghĩa hai châu Ô, Lý và phong công chúa Huyền Trân lên ngôi Hoàng hậu Chiêm bang; vua nhà Nguyễn cắt nửa phần đất Gia Định, cống hiến cho vua nước Pháp. Vua Pháp chẳng những không đáp nghĩa, mà còn đập phá đền miếu, chùa tháp của dân tộc Việt Nam. 

Người Pháp thuở đó còn có cái bệnh “được chân lân đầu”. Khi được đất, được người lại muốn làm cha, làm cố, làm ông, làm bà người Việt Nam. “Mẫu quốc Pháp vạn tuế”. Từ các công sở, tư sở cho đến nơi tín ngưỡng, đâu đâu cũng bắt người Việt Nam xưng mình là ông cha ông cố, ông Tây, bà đầm... dù ông Tây bà đầm ấy tuổi chỉ đáng cháu con! Người Pháp đã áp dụng chính sách cai trị hà khắc hơn bất cứ thời đại nào trong lịch sử Việt Nam bị xâm lược. Người dân Việt Nam bần cùng khốn khổ, hơn bất cứ thời kỳ nào. Nhất là những người Việt Nam có tín ngưỡng Phật giáo, rất thấm thía rằng chưa từng thấy lúc nào bị khinh miệt, bị ngược đãi, bị “kỳ thị tôn giáo” như thời kỳ được mẫu quốc Pháp bảo hộ. Bị chửi mắng “mẹc xà lù”, đá đít, bạt tai... tù đày, thủ tiêu... Con chó bị xéo đến đường cùng, nó còn tự vệ, tức là bảo tồn lẽ sống, huống gì con người, mà lại là con người có ngót năm ngàn năm lập quốc và đã từng chiến thắng vẻ vang biết bao lượt xâm lược hung hãn bạo tàn. 

Tức nước vỡ bờ, toàn dân không phân biệt đạo - đời, hướng theo tiếng gọi giành độc lập từ vườn hoa Ba Đình, ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945. Tất cả đều đứng dậy, giành độc lập, dưới sự lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuộc trường kỳ kháng chiến 9 năm kết thúc bằng những trận đánh uy hùng khắp nơi, cao điểm nhất là trận Điện Biên Phủ. Việt Nam bắt buộc chính quyền Pháp và nước Pháp phải đầu hàng. Pháp vẫn chưa buông tay, lại tiếp tục sang nhượng Việt Nam cho Mỹ. Mỹ thay Pháp, đưa vị cựu thượng thơ Ngô Đình Diệm lên địa vị Thủ tướng, sau đó lên Tổng thống Việt Nam cộng hòa - từ bến Hải đến Cà Mau. 

Việc làm đầu tiên của người Mỹ tại Việt Nam là xóa hiệp định Genève về hòa bình Việt Nam. Mỹ cho Ngô triều ban hành nhiều sắc luật và đặt cộng sản ngoài vòng pháp luật, đặc biệt nhất là việc duy trì đạo dụ số 10 của Pháp, để tiếp tục tiêu diệt PG. Những Mỹ tinh vi hơn, biết cách sử dụng Phật tử để tiêu diệt PG. Như trường hợp dùng Nguyễn Văn Đẳng - tỉnh trưởng Thừa Thiên-Huế và Thiếu tá Đặng Sĩ là Phật tử, sử dụng xe tăng Mỹ cán chất 6 em Phật tử tại Huế. Tại Phú Yên chôn sống 47 Phật tử chung ba hầm, trong lúc đó vị tỉnh trưởng Phú Yên lại là một Phật tử... Khắp nơi, từ Cà mau đến bến Hải, nơi nào PG đồ cũng bị đàn áp dã man. Công chức, tướng lãnh, sĩ quan, quân nhân nào có lý tưởng tôn thờ đạo Phật thì bị đày đến các vùng tử địa.

Tăng ni Phật tử bị thủ tiêu, bị bắt bớ, tù đày, tra tấn dã man. Tại Huế, ba ngôi chùa lớn, trụ sở trung ương của Tổng hội PG bị phong tỏa (nội bất xuất, ngoại bất nhập), cúp điện, cúp nước. Nói chung, đâu đâu cũng phủ trùm một màn tang thương, vận mạng PG đặt trong tình trạng “hấp hối”. Phong trào đấu tranh của toàn dân, nhất là mặt trận giải phóng cũng đang gặp nhiều gian nan, bởi quốc sách ấp chiến lược của Ngô triều. 

Trong lúc đạo pháp và dân tộc lâm nguy thì vùng đất Gia Định-Sài Gòn lại bừng lên khí thế đấu tranh. Đấu tranh để giành sự sống. Buổi lễ cầu siêu lần thứ 4, từ chùa Phật Bửu (đường Cao Thắng) đến chùa Xá Lợi (đường Bà Huyện Thanh Quan) của hàng ngàn tăng ni Phật tử đã đổi thành cuộc diễu hành. Ngay trong cuộc diễu hành quy mô này, đất Gia Định-Sài Gòn có một ngài Hòa thượng, bước ra chuyển cuộc diễu hành thành cuộc biểu tình bất bạo động. Đoàn biểu tình đi đến ngã tư Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt, liền đổi thế hàng dọc, thành hình vòng tròn hoa sen. Y áo tăng ni màu vàng, nên hình vòng tròn như một bông sen vàng. Ngài Hòa thượng Thích Quảng Đức, trụ trì chùa Quán Thế Âm, Phú Nhuận, thuộc tỉnh Gia Định; Ngài rời đoàn biểu tình, bước ra ngồi giữa vòng tròn như một gương sen, giữa đóa sen vàng. Ngài tẩm xăng vào người và chính tay châm lửa tự thiêu thân mình, để cứu nguy dân tộc và đạo pháp. Lửa bốc cao phủ kín thân ngài. Ngài vẫn ngồi vững yên 15 phút. Khi Ngài nằm xuống, tay vẫn còn kiết ấn cam lộ. 

II. QUẢ TIM BẤT DIỆT VÀ NGÔ TRIỀU 

Ngày trưa hôm ấy, ngày 20-4 nhuần Quí Mão (Dương lịch là 11 tháng 6 năm 1963). Đài phát thanh Sài Gòn truyền thanh lời Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông có vẻ xúc động đối với việc tự thiêu của ngài Thích Quảng Đức. Nhưng em dâu của Tổng thống là bà vợ ông cố vấn Ngô Đình Nhu - thì ngược lại. 

Cùng ngày hôm ấy, giả thân của ngài Thích Quảng Đức đem về quàn tại chùa Xá Lợi, sau một tuần lễ mới di quan đến lò thiêu An dưỡng địa (Phú Lâm) làm lễ trà tỳ. Hàng triệu người uất nghẹn lặng lẽ tiễn đưa. Suốt tám tiếng đồng hồ với lửa nung ngàn độ mà quả tim vẫn không cháy. Nung lại một lần nữa - cũng không cháy. Ngay chiều hôm ấy, nguồn tin QUẢ TIM BẤT DIỆT được truyền đi khắp năm châu. Ngô triều bối rối, cấp tốc mở phiên họp gia tộc, bàn thảo kế hoạåch ngăn chặn lợi thế đấu tranh của PG, qua ảnh hưởng quả tim bất diệt. Bác sĩ Trần Kim Tuyến - chúa trùm ngành tình báo của Ngô triều, lãnh sứ mệnh đi khám nghiệm quả tim tại chùa Xá Lợi, bác sĩ Tuyến về phúc trình rằng, ông đã đủ cách, nhưng không còn chất hóa học nào, kể cả a-xít cực mạnh, cũng chẳng thể làm hủy diệt được quả tim! Đúng là quả tim bất diệt! Bác sĩ Tuyến đề nghị Ngô triều nên “HÒA” với PG. Vợ chồng ông cố vấn Ngô Đình Nhu không chấp nhận lời đề nghị của bác sĩ Tuyến. Thế là đêm 20-8-1963, chiến dịch “Nước lũ” tổng tấn công các chùa, bắt tất cả tăng ni. Điểm chính là chùa Xá Lợi, để cướp quả tim bất diệt của Bồ Tát Quảng Đức. Nhưng khi cướp được quả tim đem về, lúc ấy mới vỡ lẽ rằng họ đã thu chiến lợi phẩm là một quả tim giả bằng thạch cao! 

Ngày 30-4-1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, quả tim bất diệt được Nhà nước Việt Nam giữ gìn và bảo quản cho đến ngày nay. 

Lúc Hòa thượng Trí Thủ làm Chủ tịch Giáo hội PG Việt Nam, có đề nghị chúng tôi, hãy nhân danh trưởng tử Bồ Tát, làm đơn xin nhận lãnh quả tim về tôn thờ tại nơi di tích cuối cùng của Bồ Tát Quảng Đức, chờ khi nào Giáo hội có chùa thì giao lại cho Giáo hội! Chúng tôi ngại vì chưa xây được bảo tháp, nên không dám nhận lãnh bảo quản. Nay quả tim bất diệt vẫn được Nhà nước Việt Nam giữ gìn và bảo quản cẩn trọng, vì đây chẳng những là của quý bảo riêng PG và cũng chẳng phải riêng gì của Việt Nam, mà là của cả nhân loại và muôn loài. 

Ngoài quả tim bất diệt, Bồ Tát Quảng Đức còn lưu lại hậu thế những vần thơ kệ, những huyết tâm thư, nhất là những lời dặn bảo huyền nhiệm nhập đời. Trích một đoạn thơ kệ của Ngài: 

“Đệ tử hôm nay nguyện đốt mình 

“Làm đèn soi sáng nẻo vô minh 

“Khói thơm cảnh tỉnh bao người ác 

“Tro trắng phẳng san hố bất bình 

Đúng vậy! Thân ngài làm đèn đã soi sáng nẻo vô minh và tro trắng của thân Ngài đã phẳng san hố bất bình - trước nhất là bình đẳng tôn giáo; chẳng những chỉ có thời đó, mà còn là nhu cầu cho mãi mãi ngàn sau, chẳng những quả đất, mà còn cho cả liên hành tinh. Ba ngàn thế giới đều được nhuần triêm. 

(Cần tham khảo thêm chi tiết, xin đón xem tập Kỷ yếu kỷ niệm năm thứ 35 Bồ Tát Quảng Đức tự thiêu và Chư Thánh tử đạo, do tổ đình Quán Thế Âm biên soạn). 

* * *

Trên phần đất Gia Định-Sài Gòn thuở xưa, giới Tăng tín đồ PG, nhất là các bậc chân tu, đã đóng góp tâm sức mình cùng hợåp với mọi giới, xây dựng và bảo vệ Việt Nam, trong đó có Gia Định-Sài Gòn. Cũng trên phần đất Gia Định-Sài Gòn, ngày nay giới Tăng tín đồ PG lại cũng đổ mồ hôi, nước mắt, lẫn tim tủy, kể cả xương máu của mình, để hợp sức đồng tâm với toàn dân cả nước bảo vệ quê hương. Đặc biệt là Bồ Tát Quảng Đức - đã lưu tâm trạng mình cho hàng đệ tử Gia Định-Sài Gòn bằng những dòng thơ kệ: 

“Gia Định-Sài Gòn hỡi các con 

“Năm mươi năm hạnh nguyện đã tròn... 

“Những gì đáng độ Thầy đã độ 

“Thầy tranh chánh pháp lúc mất còn! 

Chăng riêng gì Bồ Tát Quảng Đức ở vùng đất Gia Định-Sài Gòn, mà còn biết bao Tăng Ni Phật tử đã hy sinh để bảo vệ Đạo pháp và Dân tộc: 

* Đại đức Thích Thiện Mỹ (ngày 27-10-1963) đã tự thiêu tại Công trường Sài Gòn. 

* Cũng trên đất Gia Định-Sài Gòn, Đại đức Thích Huệ Hồng tự thiêu tại đường Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa), quận Ba. 

* Thượng tọa Thích Thiện Lai, năm 1970 tự thiêu tại chùa Phổ Quang (Phú Nhuận - Gia Định) để cầu nguyện hòa bình. 

* Đại đức Thích Thiện Ân, năm 1970 bị thảm sát tại Việt Nam Quốc tự - Sài Gòn.

* Đại đức Thích Thành Tuệ, bị bắt tại Gia Định-Sài Gòn, đày đi Côn đảo và chết ở Côn Đảo. 

* Đại đức Thích Nguyên Tài, năm 1964 mất tích tại Hóc Môn - Gia Định. 

* Ni cô Thích nữ Huệ Lạc, năm 1967 tự thiêu để bảo vệ Hiến chương tại tỉnh Gia Định. 

Ngoài chư Tăng Ni thì còn nhiều Phật tử tại Gia Định-Sài Gòn đã hy sinh để bảo vệ Đạo pháp và Dân tộc: 

* Nữ sinh Quách Thị Trang (1963) biểu tình chống bạo quyền, bị thảm sát tại chợ Bến Thành! 

Bồ tát Quảng Đức và các bậc tiền nhân đã lưu truyền bí pháp gì, lời dạy gì. Hay là ngày nay, các cấp lãnh đạo thế quyền lẫn giáo quyền có truyền dạy những phương pháp gì, những lời dạy gì cho đàn hậu tấn, cho lớp trẻ đang sống trên mảnh đất thân yêu. Trên quê hương Gia Định-Sài Gòn, nay là thành phố Hồ Chí Minh, để lớp người thừa kế đủ khả năng hầu dấn bước trên con đường xây dựng quê hương, hài hòa cùng nhân loại và muôn loài, chẳng những riêng quả địa cầu, mà cả liên hành tinh, cũng đều là tình huynh đệ. 

Kỷ niệm những ngày qua và sẵn sàng cho những ngày đến, cả hai phải song hành!«

Mùa Phật Đản 2542 năm Mậu Dần (1998)
 
 

Hoạt động báo chí Phật giáo 
trong 300 năm phát triển của Gia Định-Sài Gòn-TP Hồ Chí Minh
THÍCH THIỆN BẢO 

I. TỔNG QUÁT TÌNH HÌNH IN ẤN XUẤT BẢN BÁO CHÍ 

1/ Thời kỳ khai hoang (buổi đầu đến 1859): Theo đà Nam tiến, người Việt đã dần dần đặt chân đến vùng đất phương Nam để khai phá, lập nên thêm làng và kiến tạo cuộc sống nơi vùng đất mới... để rồi, năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh chính thức thiết lập chế độ hành chánh-cai trị, đặt phủ lập huyện trên vùng đất Đồng Nai-Sài Gòn.

Phật giáo (PG) có mặt rất sớm trong sinh hoạt của cư dân. Với những am tranh vách lá trong buổi đầu nhưng chùa đã đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của những người xa xứ. Chùa cũng phát xuất từ những am, cốc bằng tranh vách lá này được hình thành, phát triển, và những nhu cầu cảm thụ về văn hóa, nghi lễ, giáo dục, truyền bá Phật pháp cho cư dân cũng được các Tăng nhân đáp ứng phục vụ cho tinh thần tín ngưỡng của nhân dân. 

Với hàng nghìn năm bị Nhà nước phong kiến Trung Hoa đô hộ, người Việt chủ yếu dùng chữ Hán làm văn tự chính. Sự truyền bá giáo lý lúc đó chỉ bằng các bản chép tay, hoặc khắc trên bản gỗ, và đó là yếu tố hạn chế không phổ biến giáo lý được sâu rộng trong quần chúng nhân dân thời bấy giờ. 

Người Việt Nam cũng đã biết làm giấy rất sớm, trong sách Địa Dư Chí của Nguyễn Trãi có chép, ở xã Yên Thái (tức làng Bưởi) trước năm 1435 đã làm giấy. Nghề in sách cũng xuất hiện khá sớm ở Việt Nam, vào khoảng TK 12, người Việt đã có in sách như: Cuốn Thiền tông chỉ nam được khắc bản gỗ sau khi vua Trần Thái Tông (1218-1277) viết xong. Năm 1295, nhà vua cho in kinh Địa Tạng, năm 1319 Thiền sư Pháp Loa cho in 5.000 cuốn kinh Địa Tạng, được lưu trữ ở Viện Quỳnh Lâm. Đây là một ví dụ điển hình cho sự hình thành của công việc in ấn. Ở Đàng Trong cũng được tiếp tục phát triển mà thành tựu, tiêu biểu là nghề in tranh ởã làng Sình (Phú Xuân) và các tác phẩm Hán-Nôm khác. Các bản gỗ in kinh ở xứ Gia Định xưa thì muộn hơn và đa phần là cuối thế kỷ XIX.

2/ Thời kỳ Pháp thuộc: Từ khi người Pháp đặt chân lên đất Nam bộ, nhằm thực hiện ý đồ thống trị và đồng hóa nhân dân ta nên họ đã nghĩ ra phương cách truyền bá chủ trương đường lối của “mẫu quốc”, và chữ Quốc ngữ ghi bằng mẫu tự La-tinh ra đời thay cho chữ Hán - Việt và chữ Nôm, và nó đã trở thành văn tự hành chính chính thức. Các vị Tổ sư vẫn khắc bản gỗ, chép tay những kinh sách bằng chữ Hán, chữ Nôm nhằm phổ biến giáo lý trong nội tự hoặc cho tín đồ, bằng nhiều loại hình khách nhau, nổi bật trong thời kỳ này là quyển: Hứa sử vãn truyện, Tỳ ni Sa di nhật dụng yếu lược do Tổ Hoằng Ân-Minh Khiêm, chùa Giác Viên, tổ chức in ấn bằng bản khắc gỗ với những thợ in tại chùa... Những tài liệu này đã trở thành những giáo tài giảng dạy cho người xuất gia tại các trường hương, trường kỳ, trường hạ lúc bấy giờ; và kế đó là các bản in kinh của chùa Kim Cang. 

Giai đoạn sau này, chúng ta nhận thấy báo, tạp chí PG chưa thấy xuất hiện, vẫn là những tác phẩm in ấn bằng gỗ như: Phát Bồ đề tâm văn, Quy nguyên trực chỉ của ngài Từ Phong... và một số tác phẩm chép tay lưu hành nội bộ. 

Khi toàn bộ Nam Kỳ bị người Pháp chiếm, với những chính sách thuộc địa được đặt lên đất nước ta, người Pháp đã sử dụng phương tiện thông tin đại chúng làm công cụ hữu hiệu và đắc lực cho chính sách thực dân. Năm 1863, viên Thống đốc Nam kỳ đã gởi thư cho Bộ trưởng thuộc địa Pháp yêu cầu chính phủ Pháp gởi thợ sắp chữ sang Việt Nam, dần dần nhu cầu về thông tin đa dạng, phong phú, nên các viên chức thuộc địa phải đào tạo công nhân in tại chỗ. Năm 1862, đường dây điện thoại đã được nối từ Sài Gòn - Biên Hòa, và năm 1863, Bưu điện Sài Gòn đã xây dựng hoàn chỉnh. Cũng từ đây, hệ thống viễn thông phát triển, góp phần tích cực thúc đẩy sự nghiệp báo chí ở Nam kỳ. Và năm 1865, tờ Gia Định báo ra đời, đánh dấu khởi điểm của lịch sử báo chí Việt Nam. Tuy nhiên, tờ báo này còn ít nhiều mang tính chất công báo, chứ chưa là một tò báo thật sự; và phải đến đầu thế kỷ XX, mới có các tờ báo của những người làm báo Việt Nam, lấy báo chí làm cơ quan ngôn luận cho phong trào duy tân, cho chủ đích xã hội - văn hóa của mình.

II. NHỮNG BƯỚC CHUYỂN MÌNH CỦA PHONG TRÀO DUY TÂN TÁC ĐỘNG VÀO NỘI TÌNH PHẬT GIÁO

Đứng trước cảnh người Pháp chiếm Nam Kỳ, phong trào Duy Tân của cụ Phan Châu Trinh nhằm phục hưng Quốc học, mục tiêu khai hóa cho nền dân trí, xác định ý thức hệ dân tộc để khỏi bị đánh mất tinh thần dân tộc trong lúc đất nước ta đang bị ngoại bang đô hộ. Phong trào Đông Kinh nghĩa thục đã tác động mạnh vào những Tăng nhân thạc đức trước thực trạng suy vi của đạo Phật. Đây chính là tiền đề khơi nguồn cho phong trào chấn hưng PG. 

1. Phong trào chấn hưng Phật giáo tại miền Nam: 

Ngoài sự tác động của nhân sĩ trí thức lúc bấy giờ, phong trào chấn hưng PG tại miền Nam còn chịu sự tác động của phong trào chấn hưng PG Trung Hoa do Thái hư Đại sư khởi xướng trên tạp chí Hải Triều Âm (Trung Quốc). Nhìn vào bối cảnh chung của đất nước, ai có tâm huyết đối với đất nước đều cùng chung một quan điểm là muốn thoát khỏi sự nô lệ của người Pháp, trong đó từng đoàn thể xã hội phải có sự chuyển mình để làm cho tinh thần dân tộc được khơi dậy. Đây chính là yếu tố PG bước vào giai đoạn chấn hưng. 

2. Các tổ chức hội, báo, tạp chí Phật học ra đời: 

a/ Như ở phần trên đã trình bày, những Tăng nhân và các vị tôn đức nhìn thấy đất nước bị đô hộ, Phật giáo đang lâm vào con đường suy vi, nên các Ngài đã thao thức lo lắng cho tiền đồ của PG, nên đứng ra tập hợp thành lập tổ chức đoàn thể Tăng già nhằm chấn hưng lại những nội tình Tăng già. trong số đó có Hòa thượng (HT) Khánh Hòa, một trong những vị tiên phong chấn hưng Phật giáo tại miền Nam. Chí nguyện đó được sự đồng tình ủng hộ của HT Huệ Quang, Khánh Anh, Thiện Chiếu... Muốn gây ý thức phong trào trong Tăng đoàn, ngoài những cuộc vận động thuyết phục, hợp tác thành lập hội, Ngài còn cho ra đời tạp chí Pháp Âm, số ra mắt đầu tiên ngày 13-8-1929. Đây là tờ báo PG đầu tiên tại Việt Nam và cũng là tờ báo làm tiền đề cho những báo, tạp chí Phật học xuất hiện tại miền Nam. 

Người tiếp sức cho tờ Pháp Âm và tờ Phật Hóa Tân Thanh Niên của sư Thiện Chiếu đặt trụ sở tại chùa Chúc Thọ (xóm Gà - Gia Định) với mục đích thiết thực hơn Pháp Âm, nhưng mới chỉ ra được 2 số thì bị đình bản. 

b/ Đến năm 1931, Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học ra đời và ngày 1-1-1932, tờ Từ Bi Âm của Hội cũng được xuất bản số đầu tiên do HT Khánh Hòa làm chủ nhiệm, trụ sở đặt tại chùa Linh Sơn cổ tự, quận 1 (đường Cô Giang ngày nay). Báo ra được 45 số thì HT Khánh Hòa xin từ chức, HT Chánh Tâm (Thiên Phước - Trà Ôn) được đề cử làm chủ nhiệm. Từ Bi Âm hiện diện 11 năm, đến năm 1942 thì đình bản do kiệt quệ về tài chánh. 

c/ Năm 1937, Hội Cư sĩ Tịnh Độ cho xuất bản tờ Pháp âm do Lê Văn Hậu làm chủ nhiệm và Trần Quỳnh làm chủ bút, ra được 16 số thì đình bản. 

d/ Năm 1958, Hội Phật học Nam Việt cho xuất bản tạp chí Từ Quang do Chánh Trí Mai Thọ Truyền làm chủ bút, ra đuợc 214 quyển. Sau khi Mai Thọ Truyền mất, tạp chí này kéo dài cho đến tháng 4-1975 mới đình bản. Trong VNPGSL, Nguyễn Lang cho rằng tạp chí Từ Quang đã đóng góp đáng kể trong việc truyền bá tinh thần Phật học tại Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung, được Tăng Ni cả nước hưởng ứng viết bài công tác. 

e/ Tịnh độ tạp chí: của Hội Tịnh Độ tông Việt Nam do Đoàn Trung Còn làm chủ nhiệm và Hội trưởng, mỗi năm ra 4 số từ năm 1955, đặt trụ sở tại 143 Đề Thám, quận 1. 

f/ Tạp chí Phật giáo Việt Nam của Tổng hội PG Việt Nam do HT Huệ Quang làm chủ nhiệm, xuất bản vào năm 1955, nhưng chỉ được 3 năm sau thì đình bản. 

III. NHỮNG THẬP NIÊN SAU THỜI KỲ CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO 

1/ Giai đoạn 1963-1975: 

Ở giai đoạn này, khi công nghệ in được phát triển mạnh, với sự du nhập thông tin từ nhiều nguồn bên ngoài đổ về, các luồng tư tưởng nhiều khuynh hướng cũng được đưa vào đất nước Việt Nam, sách báo PG bắt đầu bùng nổ, các nhà xuất bản như Lá Bối, An Tiêm, Sen Vàng, Phật học tùng thư v.v.. với nhiều loại hình sách báo PG ra đời trong các cuộc đấu tranh về quan điểm tư tưởng và cả phong trào bất bạo động của PG tại miền Nam. Có người cho giai đoạn này là giai đoạn phát khởi mạnh mẽ nhất, là giai đoạn bùng nổ kinh, sách, báo PG. 

Sau công cuộc đấu tranh năm 1963, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) ra đời, Viện Hóa đạo đã cho xuất bản tuần báo Hải Triều Âm (tuần báo văn nghệ - thông tin - nghị luận do HT Nhất Hạnh làm chủ bút, HT Hộ Giác làm chủ nhiệm, số đầu tiên ra ngày 21-4-1964, dày 12 trang. Tòa soạn và trị sự đặt tại 220 Lê Thánh Tôn, Q.1). Một năm sau, do tình hình thực tế của Giáo hội, đáp ứng nhu cầu của PG lúc bấy giờ, Hải Triều Âm được đổi thành nhật báo Chánh Đạo, nhưng ngày 13-9-1969 thì bị đình bản do đăng nhiều bài công kích chính quyền Sài Gòn, TT Thiện Minh bị chính quyền truy tố ra tòa án quân sự vùng 3 và kết tội “tán trợ đào binh, chứa chấp vũ khí và liên lạc với cộng sản”. 

Sau khi báo Chánh Đạo bị đóng cửa không cho hoạt động, GHPGVNTN đã xuất bản báo Thiện Mỹ vào ngày 27-10-1964 gồm 16 trang, do ông Lê Văn Hiếu làm chủ nhiệm, cư sĩ Võ Đình Cường làm Tổng thư ký, nhưng chỉ được 53 số thì bị đình bản. 

Năm 1971, GHPGVNTN cho ra nhật báo thứ 2 với tên Gió Nam, do TT Huyền Diệu làm chủ nhiệm, nhưng chỉ hơn một năm sau thì bị đình bản do GHPGVNTN tố cáo tội ác vụ Sơn Mỹ, Mỹ Lai, trước tòa án Hoa Kỳ, nên phiên xử ngày 31-12-1969 ủy quyền cho luật sư Paul Marking đại diện quyền lợi nạn nhân và bị đình bản. Đây là hai tờ báo nhật báo đầu tiên từ khi PG du nhập vào Việt Nam cho đến ngày nay. 

Ngoài ra, có các tạp chí như Giữ thơm quê mẹ (do nhà sách Lá Bối xuất bản), tạp chí Vạn Hạnh (do HT Đức Nhuận làm chủ nhiệm), Tư Tưởng (của Đại học Vạn Hạnh), tạp chí Thiện Chí (của đoàn thanh niên Thiện Chí), Đất Tổ (do Lê Văn Hòa làm chủ nhiệm, xuất bản 1965), Tin Tưởng (của sinh viên Phật tử, xuất bản 1968)... Bên cạnh đó, các tạåp chí của các Tổng vụ GHPGVNTN cũng được ấn hành nhằm truyền bá tinh thần Phật học như: Bát Nhã của Tổng vụ Tài chánh-Kiến thiết do HT Thích Trí Thủ làm chủ nhiệm, tạp chí Hoằng pháp của Tổng vụ Hoằng pháp do HT Huyền Vi làm chủ nhiệm, tạp chí Văn Hóa của Tổng vụ Văn hóa do HT Mãn Giác làm chủ nhiệm, tạp chí Hải Triều Âm của Tổng vụ Thanh niên do HT Thiện Minh, Giác Đức, Nhật Thường luân phiên giữ trách nhiệm, tạp chí An Lạc của TT Thích Thông Bửu làm quản nhiệm. 

2/ Giai đoạn 1975 cho đến ngày nay: 

Vào ngày 1-1-1976, báo Giác Ngộ ra số đầu tiên do Ban Liên lạc PG yêu nước TP. Hồ Chí Minh quản lý, HT Thích Minh Nguyệt làm chủ nhiệm, cư sĩ Võ Đình Cường làm Tổng Biên tập, đây là tờ báo bán nguyệt san, mỗi tháng 2 kỳ. 

Vào ngày 20-10-1990, báo Giác Ngộ trực thuộc THPG TP.HCM do HT Thích Trí Quảng làm Tổng Biên tập. Kể từ 6-4-1996, báo GN đã trở thành tuần báo, ra thêm tờ nguyệt san. 

Với gần 23 tuổi, báo GN đã 3 lần thay đổi khổ báo và nội dung. Ngày nay Giác Ngộ đã trở thành tiếng nói duy nhất của Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN), từng bước thay đổi nội dung và hình thức, phù hợp với tình hình xuất bản báo chí hiện đại, hòa vào hệ thống báo chí của TP. HCM nói riêng và báo chí VN nói chung. 

Tập văn do Ban văn hóa T.Ư GHPGVN xuất bản sau khi thống nhất Phật giáo 1981, cư sĩ Võ Đình Cường chủ biên, đến nay đã được 41 số. Đây là tập văn chuyển tải những tư tưởng Phật học của các nhà nghiên cứu Phật học trong cả nước. 

IV. MỘT VÀI Ý KIẾN THAY CHO LỜI KẾT

- Tuy từng thời điểm trong sự chuyển mình của lịch sử đất nước Việt Nam có khác nhau, nhưng tất cả đều nỗ lực truyền bá tư tưởng đạo Phật Việt Nam trở nên phổ biến để mọi người hiểu được giá trị đích thực của nền giáo lý Phật Đà. 

- Những giai đoạn sống còn để vươn lên tìm lối đi đúng với chánh pháp có những sự xung đột giữa cũ và mới trong cuộc đấu tranh nội bộ PG nhưng vẫn giữ được bản sắc ôn hòa, khoan dung và độ lượng, xem trọng việc tu tập hướng về sự giải thoát giác ngộ để giải quyết vấn đề khổ đau của con người là chính. Mọi quan niệm tư tưởng, ý thức hệ chỉ là những phương tiện để làm sáng tỏ lối đi đến chân lý đúng với tinh thần đức Phật đã dạy. 

Nhìn lại chặng đường đã đi qua của các bậc tiền bối tổ sư đã dày công đóng góp xây dựng, chúng ta mọi người con Phật mới thấy được giá trị đích thực mà các ngài đã đặt chân lên đất Gia Định-Sài Gòn-TP.Hồ Chí Minh trong suốt chiều dài lịch sử, từ lúc khởi đầu khai hoang lập ấp của nhân dân vùng đất mới này. Cũng từ đó chúng ta nhận ra được giá trị thiêng liêng mà chúng ta đang thừa hưởng, ngõ hầu tiếp bước “theo dấu chân xưa”, phát huy tinh thần tích cực của báo chí PG trong giai đoạn bùng nổ thông tin, nhằm góp phần giữ được bản sắc của nền văn hóa dân tộc, đồng thời làm cho gHPGVN sánh vai cùng các nước trong khu vực cũng như trên toàn thế giới. Đó là nhiệm vụ của những người lãnh đạo về mặt tinh thần của PG Việt Nam, làm sáng tỏ hơn nữa tinh thần khế lý, khế cơ mà đức Phật đã để lại, nó đã được một thời huy hoàng và thịnh vượng trên quê hương Việt Nam trong nhiều thế kỷ qua.

Sách tham khảo: 

- Việt nam Phật giáo sử luận - Nguyễn Lang (tập 3) 

- Lịch sử báo chí Việt Nam - Hồng Chương 

- Phật giáo Nam bộ - Trần Hồng Liên 

- 50 năm chấn hưng Phật giáo - HT Thiện Hòa 
 
 

300 năm ngày thành lập Gia Định-Sài Gòn-TP Hồ Chí Minh
tiểu ban nghi lễ thành hội pg tp hcm

Nội dung bài này trong góc độ chuyên môn của mình, chúng tôi xin lược vài nét về vai trò nghi lễ của Phật giáo (PG) trong sự hình thành phát triển của Gia Định-Sài Gòn-TP. Hồ Chí Minh nói riêng và cho đời sống con người nói chung. 

Nói đến nghi lễ hoặc nói riêng NGHI và LỄ là một vấn đề sinh động, rộng lớn, nó bàng bạc trong đời sống tinh thần, cư xử giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên. 

Nghi là những việc phải làm. 

Lễ là những việc phải tuân. 

Làm con người sống không chỉ biết cơm ăn, áo mặc, nhà ở... bởi lẽ thiếu nghi con người sẽ thiếu nghĩa, thiếu nhân bản để sống trong xã hội, đem lại tình thương xây dựng trên nền tảng trái tim biết nói và lòng nhân hậu của con người. Thiếu lễ xã hội sẽ loạn ly, lâm vào tình trạng vô cương đưa đến mất luân thường đạo lý. Qua đây chúng ta xóa bỏ được định kiến ngộ nhận nghi lễ là hình thức, là phương tiện đàn tràng! Trái lại, nó là chất liệu thiết yếu phải luôn hiện hữu trong tư duy, trong tập quán con người. Sự tiếp nối nòi giống con người, sự truyền thừa giềng mối của Tổ đạo, đều phát nguyên từ đạo lý thiết lập những nghi thức và lễ nghĩa. Ở mức độ cao, hình thức nghi lễ biểu hiện qua lăng kính văn hóa, giáo dục v.v.. 

Do vậy, những bước chân đầu tiên của chư Tổ đã hoằng hóa tại đất Gia Định như... Nguyên Thiều-Siêu Bạch chùa Kim Cang, Thành Đẳng-Minh Lượng chùa Đại Giác - Biên Hòa, Phật Ý-Linh Nhạc chùa Từ Ân, Tổ Tông-Viên Quang chùa Giác Lâm, Đạt Bổn chùa Kim Cương, Thiệt Thoại-Tánh Tường chùa Hoa Nghiêm, đều ở đất Gia Định, cũng đã mang trên mình hành trang nghi lễ hòa nhập cùng với di dân với vùng đất mới. 

Mặt tích cực của lịch sử dân tộc chúng ta khó có thể quên những công lao của Sĩ Nhiếp trong những năm đầu công nguyên đã hướng dẫn cho dân chúng Đại Nam những phương cách sống về nghi lễ, văn hóa, thời tiết, về nông nghiệp. Những triết lý “uống nước nhớ nguồn” “lễ bái lục phương” như trong kinh Thiện Sanh, dạy cho mọi người lễ nghi của đạo làm người. Sống cho đủ tình, chết cho trọn đạo, đó là thao thức hai mặt trong đời sống con người. Những thao thức đó đã được nhà chùa dùng lễ, dùng nghi đáp ứng đòi hỏi của thực tế. Nhà khoa học kỹ thuật nghiên cứu, nhà văn học nghệ thuật sáng tác, nhà bác học chế tác, nhà sư thì có khả năng hun đúc tinh thần của cộng đồng dân chúng, để thăng hoa tâm hồn, sản sinh những tâm linh hoàn thiện. Lời kinh tiếng kệ những cung bậc âm điệu du dương của nghi lễ đã làm lắng đọng lòng người, quên đi những ưu phiền hướng tâm tư về chân thiện mỹ. 

Vị thầy - vị sư được xuất thân từ chốn thiền môn, nơi mà những ngày đầu nhập đạo sa cơ đã được học luật Tỳ ni, để rèn luyện cho vị thầy tương lai có phong cách đĩnh đạc, đạt tới đạo phong với đầy đủ lễ nghi, theo tinh thần của Tỳ ni “Hữu uy khả úy, hữu nghi khả kính”. Đó là những bài pháp không lời giáo hóa đắc dụng đã đi vào lòng người một cách dịu êm và thiết thực. 

Vì thế, giáo dục của PG không chỉ là sự dạy và học mà còn là quá trình chuyển hóa nội tâm, cải tạo cái xấu, bồi dưỡng và phát triển cái tốt, trang bị cho mỗi cá nhân những nhận thức chánh kiến của đức tin chân chánh, những phẩm chất tâm linh, ý chí và đạo đức nhân bản, để họ làm hành trang tư lương cho đời sống an lạc, hạnh phúc cá nhân, gia đình và cộng đồng xã hội. 

Năm 1992 nhân mùa Vu Lan báo hiếu, nhà văn hóa thanh niên TP. Hồ Chí Minh đã tổ chức một buổi mạn đàm về người mẹ, điều đó thể hiện truyền thống đạo Phật đã thâm nhập và thích hợp với xã hội gần đây, một thống kê nhu cầu tín ngưỡng đi lễ chùa. 

Chúng ta thường nói khi nào đất nước bình yên thì đạo Phật phát triển hoặc PG hưng thì đất nước thanh bình thịnh trị. Trong đó đất nước phát triển nhờ có minh quân chính chúa. Đạo Phật xương minh nhờ có minh sư khéo điều ngự trong vận cách lễ nghi mà thể hiện bằng nhân trị và đức trị của xã hội qua nhiều lĩnh vực. 

Qua đó, chúng ta thấy rằng giáo dục cũng chính là lễ nghi, là việc thiết yếu hướng dẫn con người trong sinh hoạt, nó góp phần duy trì lâu dài cuộc sống sinh học và tâm linh tốt đẹp hơn. 

Tóm lại, suốt chặng đường 300 năm của Gia Định-Sài Gòn đến TP. Hồ Chí Minh, PG khi ẩn khi hiện, khi thịnh khi suy, vẫn luôn luôn hòa mình trong lòng con người và mảnh đất, đã góp công sức của mình vào công cuộc kiến quốc; trong đó phạm trù nghi lễ đã góp vai trò quan trọng trong nền tảng đạo đức xã hội cho việc trị quốc an dân, duy trì phát triển cơ sở và niềm tin của Đạo, của Đời. 

Ôn lại 300 năm của thành phố cũng là 300 năm của PG, dòng chữ số 1698 trên bức phù điêu nghĩa trang liệt sĩ TP.HCM thể hiện công sức của các bậc tiền nhân đã đứng lên và nằm xuống để trang điểm cho thành phố này luôn thăng hoa trong suốt ba thế kỷ qua. Tôn giáo nói chung, PG nói riêng, vẫn luôn hòa nhập với người Việt Nam trên tinh thần thể nhập. 

“Trang sử Phật cũng là trang sử Việt 

Trải bao độ hưng suy 

Có nguy mà chẳng mất” 

(V.H.C.)

Việc làm của chúng ta hôm nay là việc làm đầy hiếu kính và lễ nghi của truyền thống uống nước nhớ nguồn, đền đáp bốn ơn, trong đó có ơn đất nước quốc gia, mà trang sử PG Gia Định-Sài Gòn-TP. Hồ Chí Minh đã góp phần tô điểm thành phố quang huy, trở thành trung tâm cho các mặt phát triển đến các tỉnh đồng bằng Nam Bộ. 

Một chặng đường 300 năm đi qua với bề thế quy mô của PG trong các thời đại và xã hội ngày nay, đã và đang xây dựng để nói lên tiếng nói của mình trong âm ba vang dội của thời đại mới, xã hội mới. Tiến trình 300 năm tới của PG, chúng ta sẽ làm gì để nối tiếp đạo mạch truyền thừa, để thừa tự di sản của tiền nhân. Làm gì để giữ gìn nghi lễ, đạo đức, đào tạo cho thế hệ tương lai để xây dựng Giáo hội, xây dựng xã hội, trong thời đại mới vẫn đầy đủ thuần phong mỹ tục, giữa cộng đồng dân tộc, giữa lòng TP.Hồ Chí Minh ngày nay đang hướng về phía trước vẫn còn là những đóng góp cần khám phá và định hướng của PG thành phố chúng ta.
 
 

Một số vấn đề chung quanh di sản chữ Hán 
(gồm câu đối liên và hoành phi) trong các chùa ở đất Gia Định xưa
GS HUỲNH MINH ĐỨC

I.- THỰC TRẠNG

Gia Định xưa gồm chung Phước Long và Tân Bình, là mảnh đất mà các chúa Nguyễn đã chọn làm bổn doanh đầu tiên trong công cuộc khai khẩn đất đai để hoàn thành cuộc Nam tiến. Trong khoảng thời gian 300 năm, nơi này đã nhận lấy nhiều sự kiện lịch sử.

Trong phạm vi hạn hẹp của tài liệu nghiên cứu này, chúng tôi muốn nhận định lại bức tranh mang tầm vóc của một chứng tích lịch sử thuộc văn hóa : “Qua các chữ Hán trên các câu đối trong các chùa, cổ nhân muốn để lại gì và căn dặn gì với con cháu?”.

Trước hết, về mặt tư liệu, chúng tôi muốn kiểm chứng rồi đánh giá lại xem, qua một thời gian dài nhiều biến cố tàn phá (do con người, do chiến tranh, do thời gian), hiện trạng nguyên thỉ của nó như thế nào. Dĩ nhiên khi nghiên cứu, chúng ta chỉ dựa vào những phần còn mang giá trị nguyên thỉ, xứng đáng mà thôi.

Chúng ta đều biết, suốt 300 năm hình thành và phát triển vùng đất Gia Định này, nhiều tư liệu lịch sử, trong đó có những câu đối, hoành phi trong các chùa... hiện đang bị mất mát, hoặc bị thay hình đổi dạng rất nhiều. Thực trạng này qua điều tra, thu thập trong bước đầu, chúng tôi có phân tích như sau:

Chùa là nơi luôn có người ở và gìn giữ. Tuy vậy, so với các đình miếu thì tư liệu chữ Hán trên các câu đối hoặc hoành phi tại các chùa lại:

a)- Mất mát nhiều hơn. Ở đây, chúng tôi muốn nói về số lượng chứ chưa nói về chất lượng.

b)- Thậm chí có những ngôi chùa rất cổ, lại bị mất trắng, không còn câu nào. Một trong những lý do bị mất mát, theo chỗ suy đoán của chúng tôi, không phải do bị trộm, mà chính vì do sửa chữa nhiều lần, mỗi lần sửa chữa thì chùa có vẻ mới hơn, rực rỡ hơn, nhưng những tấm gỗ có khắc câu đối lại bị bỏ rơi, thất thoát.

c)- Có nơi, người ta lại tự động viết thêm lên các vách những câu đối có tính hình thức, mà chữ viết thật nguệch ngoạc, nội dung tầm thường.

d)- Cũng có khi vì muốn làm mới câu đối, bằng cách cho phục chế câu đối cũ, người ta đã phục chế sai cả chánh tả chữ Hán.

e)- Ngoài ra, còn một số ngôi chùa được đưa từ miền Bắc vào trong thời gian vài chục năm gần đây thôi. Chúng tôi chưa dám kết luận gì về giá trị tư tưởng của những câu đối này, nhưng chúng tôi không thể đưa vào chung với những ngôi chùa cổ tại đất Gia Định.

f)- Có một vài ngôi chùa cổ, qua nhiều lần sửa chữa, tất cả các câu đối mất hết, thay vào đó, các vị sư trụ trì cho treo lẻ tẻ vài cặp câu đối, nội dung hay tuyệt vời, nhưng lại thuộc thuần túy dạy làm người theo tư tưởng Nho giáo. Theo lời của thầy trụ trì thì đây là do thầy nhặt được trong một dịp thăm nhà quen, thấy được hai cặp câu đối bị thất lạc nơi từ đường của một gia đình, thầy vội xin về treo phía hậu liêu chùa. Nếu thầy không xin và mang về chùa treo thì nó sẽ bị thất lạc. Thế là câu đối của từ đường lại được treo trong chùa. Ví dụ chùa Long Phú ở Biên Hòa (Đồng Nai).

g)- Nhưng cũng có trường hợp, câu đối liên của chùa, nhưng không biết vì sao bị thất lạc, người ta lại mang vào đình miếu, treo xen lẫn vào nhau với các câu đối ca tụng thần linh. Ví dụ tại đình An Hòa (Biên Hòa, Đồng Nai).

II.- Giá trị tư liệu

Tất cả tư liệu thuộc di sản chữ Hán còn lại tại hiện trường trong các chùa đều ở hình thức câu đối liên và hoành phi, toàn viết bằng chữ Hán.

a)- Giá trị hình thức cấu tạo theo luật âm dương bằng trắc

Hình thức câu đối liên được quy định một cách chặt chẽ về luật âm dương. Câu đối là kết tinh của phú. Dịch Quân Tả trong quyển Văn học sử Trung Quốc (GS Huỳnh Minh Đức dịch), đã định nghĩa: “Phú... giống với tản văn mà cũng khác với tản văn, giống với thi mà cũng khác với thi. Nó là một hỗn hợp giữa thi và văn. Nói theo danh từ hiện đại thì nó là loại tản văn mang tính chất thơ, hoặc nó là loại thơ có hình thức tản văn. Về mặt cú pháp, phú được viết theo những câu dài ngắn không đều nhau. Theo nghĩa cổ điển thì phú có nghĩa là trình bày việc gì đó một cách trực tiếp... Điểm đặc biệt của nó là “âm luật”, nghĩa là chú trọng đến “vận”.

Ông nói tiếp: “Sự hình thành của Hán phú hiển nhiên đã chịu ảnh hưởng của Kinh Thi lẫn Sở từ”.

Dần dần, Hán phú chịu ảnh hưởng nặng nề của âm luật của biền văn thời Lưỡng Tấn Nam Bắc triều, cho ra lối văn đi từng cặp như biền văn. Văn tế và phú thí dụ điển hình của lối Đường phú. Về hình thức, thực chất bài văn tế gồm nhiều cặp biền văn hợp lại. Mỗi cặp có quy định âm luật và số chữ riêng. Nếu tách riêng từng cặp thì gọi là “cặp đối liên”.

Có một điều khá thú vị là, căn cứ vào sự nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi có thể khẳng định rằng lối văn đối liên tuy đến đời Đường mới thành hình, nhưng về mặt ứng dụng để sáng tác thì :

* Trung Quốc chỉ ứng dụng để làm riêng từng cặp câu đối liên mà thôi.

* Việt Nam chúng ta chẳng những làm riêng từng cặp đối liên, mà còn dùng chúng ghép thành bài văn tế, phú...

Việt Nam ta có những bài văn tế hoặc phú làm bằng chữ Nôm rất nổi tiếng như : Hàn Nho phong vị phú của Nguyễn Công Trứ, bài Tài tử đa cùng phú của Cao Bá Quát, bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc và Văn tế Trương Công Định của Nguyễn Đình Chiểu...

Dù gọi là phú hay văn tế thì hình thức cấu tạo đại thể cũng như nhau : không có câu riêng lẻ, mà chỉ cấu tạo thành từng cặp một. Trong phạm vi này, chúng ta không đi sâu vào phú hay văn tế. Phú và văn tế như chúng ta vừa kể trên ở Việt Nam ít thấy đề cập trong văn học sử Trung Quốc.

Văn tế Việt Nam được làm theo lối Đường phú.

Chúng ta thử phân tích về mặt cấu tạo hình thức các cặp đối liên:

1- Câu viết theo lối tứ tự : Mỗi vế độc lập gồm 4 chữ.

Ví dụ : (Văn tế Trương Công Định của Nguyễn Đình Chiểu)

................tứ tự................ /................tứ tự................ 

Giặc cỏ bò lan / Tướng quân mắc nạn

 vần bằng vần trắc

2- Câu viết theo lối bát tự : Mỗi vế độc lập gồm 8 chữ.

................bát tự ................/................bát tự................

Ví dụ : (Văn tế Trương Công Định của Nguyễn Đình Chiểu)

Tiền vàng ơn chúa, trót đã rỡ ràng/ Yên bạc mưu binh, nào còn trễ nãi

 vần bằng vần trắc

3- Câu viết theo lối song quan (hai cánh cửa) : Mỗi vế có từ 5 chữ đến 9 chữ.

................song quan................/ ................song quan................

Ví dụ : (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu)

Mười tám ban võ nghệ nào đợi tập rèn/ Chín chục trận binh thư không chờ bày bôë

 vần bằng vần trắc

4- Câu viết theo lối cách cú : Mỗi câu gồm 2 vế, một dài một ngắn.

................a................/ ................b................

................a’................/ ................b’................

Vế a đối với vế a’ qua sự cách ngăn của b, hoặc b đối với b’ phải qua sự cách ngăn của a’.

Ví dụ : (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu)

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp muốn tới ăn gan

 vần trắc vần bằng

Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ

 vần bằng vần trắc

5- Câu viết theo lối hạc tất (gối hạc) : Mỗi câu gồm 3 vế.

................a................/ ................b................/ ................c................

................a’................/ ................b’................/ ................c’................

 a đối với a' b đối với b' c đối với c' 

Ví dụ : (Văn tế dân Lục tỉnh của Nguyễn Đình Chiểu)

Tiếc non nước ấy nhân dân dường ấy gây sự này nào thấy phép tẩy oan

 vần trắc vần trắc vần bằng

Biết cha mẹ đâu tộc loại ở đâu chạnh tình đó mới ra ơn điều khuất

 vần bằng vần bằng vần trắc

Điểm lại thì tất cả các câu đối liên trong tất cả các chùa, trong phạm vi nói riêng và có lẽ ở khắp nơi trên nước Việt Nam, khi làm câu đối đều phải tuân thủ tuyệt đối các luật đối và luật bằng trắc như chúng tôi đã trình bày trên. Chỉ có điều là tùy theo trình độ của tác giả cao hay thấp mà các chữ đối có chỉnh hay không mà thôi.

* Cấu tạo đối theo luật hư và thực :

Ví dụ : trắng lốp đối với đen sì (tính từ đối với tính tưâ, đối đúng và hay)

 ăn gan đối với cắn côí (danh từ đối với danh tưâ, đối đúng và hay)

Ngày xưa các cụ thường gọi là hư phải đối với hư, thực phải đối với thực.

III.- KẾT LUẬN

Quá trình hoằng dương Phật pháp là trách nhiệm của cộng đồng Phật giáo (PG). Chùa (tự) là trụ sở vừa là nơi để tu hành và đồng thời cũng là nơi thuyết pháp để hoằng dương Phật pháp. Vấn đề dùng kinh kệ để thuyết pháp là vấn đề khác. Ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến hình thức dùng những cặp đối liên để hoằng dương Phật pháp.

Như chúng ta đã biết, hình thức câu đối rất ngắn, gọn, không dài dòng lê thê như văn xuôi, như thi ca, như bài minh, bài kệ. Cho nên, khi dùng câu đối liên thì phải cô đọng tối đa tư tưởng muốn phát biểu vào trong phạm vi hai câu, vừa ngắn, vừa phải tuân thủ một cách nghiêm khắc của luật bằng trắc.

Tuy nhiên, chúng ta phải hãnh diện về vấn đề này, vì, nếu so ra với các chùa thuộc các quốc gia quanh ta như Campuchia, Lào, Thái Lan... thì các chùa này xây cất chắc chắn hơn, trang trí thếp vàng rực rỡ hơn, nhưng bên trong tuyệt không có chữ nghĩa. Mà chữ nghĩa dĩ nhiên là những chứng tích cao cấp của văn minh, văn hóa.

Chúng tôi có những đề nghị như sau:

1- Từ nay nếu có sửa chữa chùa, xin cố gắng giữ lại tất cả những cặp đối liên và các bức hoành phi vốn vô cùng quý giá trong các ngôi chùa cổ.

2- Nâng cao thật sự trình độ Hán văn thuộc kinh điển PG và Nho giáo cho các tu sĩ trẻ đang có trọng trách hoằng dương Phật pháp cho tương lai.

3- Phải có một kế hoạch, một chương trình, dịch kinh điển PG sang Việt văn thật khoa học, chú giải rõ ràng, Hán-Việt đối chiếu... Những kinh sách Phật đã dịch hiện nay, chưa đạt đến tầm cao.

4- Phải lập một ủy ban thu tập, điều tra tình trạng còn hay mất tất cả các câu đối, hoành phi trong các chùa thuộc phạm vi đất Nam Kỳ.

5- Thu tập xong, phải có một ủy ban phân loại, dịch giải, xiển dương tư tưởng Phật giáo còn tiềm ẩn trong những mảnh gỗ vô tri treo trên các hàng cột của các chùa.

Xong, mong các vị tu sĩ trong mỗi chùa, tối thiểu phải thông hiểu những gì mà chùa mình đang cất giữ (nếu có), đang treo trên vách. Nói khác đi, đã đến lúc chúng ta phải học và biết rõ những vị đại sư các thế hệ trước đã muốn nói gì với con cháu hiện nay qua các câu đối đó? Hay là các câu đối đó chỉ treo cho đẹp mà thôi? Tôi nghĩ các câu đối trong chùa cũng là một cách hoằng pháp tuyệt vời chứ không chỉ treo cho đẹp mà con cháu cứ vứt bỏ.

Những nhận xét về hiện trạng của các câu đối liên như đã nói trên, tôi cũng chỉ mong tìm hiểu lại một hình thức hoằng pháp của cổ nhân mà thôi.

Biết đâu khi chúng ta hiểu được ý nghĩa của những câu đối liên và hoành phi trên một cách rõ ràng thì nội thất của ngôi chùa lại chẳng sáng hẳn lên?

Hy vọng trong một ngày rất gần đây, tôi sẽ lần lượt cho ra những tác phẩm liên quan đến vấn đề trên trong các chùa, đình miếu và từ đường tại đất Gia Định từ 300 năm nay.«

TP Hồ Chí Minh, Mạnh hạ, cát nhật, tháng 5-1998
 
 

Vài đặc điểm của giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương
THÍCH PHƯỚC SƠN

Vị giáo chủ đầu tiên của đạo giáo Bửu Sơn Kỳ Hương là đức Phật Thầy Tân An, thế danh Đoàn Minh Huyên. Sau khi ông qua đời, có các vị Phật Trùm, đức Bổn sư Ngô Lợi, ông sư Vãi Bán Khoai..., các vị này được xem là hậu thân của đức Phật Thầy - tiếp tục sứ mệnh truyền bá đạo giáo. Nhưng tùy lúc, danh xưng giáo phái được thay đổi. Lúc đầu gọi là đạo giáo Bửu Sơn Kỳ Hương, lấy ý nghĩa là “mùi hương lạ trên vùng núi báu”. Đến khi đức Bổn sư Ngô Lợi truyền đạo thì đạo giáo lấy tên là đạo “Tứ Ân Hiếu Nghĩa”, nhấn mạnh trọng trách thực hiện bổn phận đối với bốn ân. Chúng ta có thể ghi nhận mấy nét đặc sắc của giáo phái này như sau :

1- Hình thức và nếp sống của các vị giáo chủ:

Các vị giáo chủ này không mang hình thức của một Tăng sĩ đầu tròn áo vuông, không có sự truyền thừa rõ ràng, chính thống, không thực hành nếp sống xuất gia ly dục như các vị Tỳ kheo. Họ ăn mặc như người thường, sống một đời sống giản dị, đạm bạc, với tâm nguyện phụng sự tha nhân nhiệt thành.

2- Cách thức thờ tự và nghi lễ :

Giáo phái này chủ trương không thờ tượng cốt, không dùng chuông mõ, không tụng kinh, không cúng các thực phẩm, mà chỉ thờ một tấm vải đỏ gọi là trần điều, tượng trưng cho tinh thần vô tướng viên dung của đạo Phật, cúng Phật bằng hoa quả và nước lã, kính lạy ông bà và tổ tiên.

3- Giáo lý căn bản :

Căn bản giáo lý của đạo giáo này vẫn là giáo lý của Phật Thích Ca, khuyên người làm lành, lánh dữ, tin nguyên nhân quả tội phước, nhưng có pha trộn một luân lý Nho giáo trong cung cách xử thế. Nói chung gồm có hai phương diện:

a)- Phương diện tu thân: Lấy Giới, Định, Tuệ làm kim chỉ nam cho sự tu học để hướng đến một đời sống hạnh phúc, an lạc. Giới: ngăn ngừa những hành vi bất thiện, tội lỗi. Định: làm cho tâm an tịnh, không rối loạn. Tuệ: thấy rõ chân tướng của các sự vật và sự thật của cuộc đời.

b)- Phương diện xử thế: Nỗ lực làm tròn bổn phận đối với 4 trọng ân: 1. Ân tổ tiên, cha mẹ: Dạy cho tín đồ nhớ đến nguồn gốc tổ tiên, giữ tròn hiếu thảo đối với cha mẹ, chu toàn đạo nghĩa làm người. 2. Ân đất nước: Dạy tín đồ tấm lòng yêu nước, có nghĩa vụ giữ gìn và bảo vệ giang sơn do cha ông để lại. 3. Ân Tam bảo: Khuyên tín đồ tôn thờ và biết ơn 3 ngôi báu, nơi mình cần phải nương tựa để hướng đến chân-thiện-mỹ. 4. Ân đồng bào và nhân loại: Dạy tín đồ tấm lòng nhân ái, biết yêu thương và biết cứu giúp đồng bào, đồng loại.

4- Quan tâm đến vấn đề y tế xã hội:

Hầu hết các vị giáo chủ và các vị cao đồ đều vô cùng tận tụy trong công tác chữa bệnh cho dân chúng bằng những phương thuốc dân tộc, và đều nổi tiếng là những thầy thuốc mát tay, được mọi người tín nhiệm. Vì lúc bấy giờ, tình trạng đất nước và xã hội ta còn nghèo nàn, lạc hậu, phương tiện y học và thuốc men còn quá thiếu thốn, các vị này đã lợi dụng cơ hội chữa bệnh để giảng đạo, khuyên quần chúng làm việc phước thiện ; nhờ đó mà đạo giáo phát triển nhanh, tín đồ mỗi lúc một đông.

5- Quan tâm đến công tác dinh điền khuyến nông:

Đức Phật Thầy ngoài tài trị bệnh cứu dân, còn đặc biệt khuyến khích nông dân khai hoang lập ấp, đặt tên các nơi đó là trại ruộng. Những trại này được mở ra nhiều nơi tại vùng đất núi Thất Sơn. Kế tục sự nghiệp ấy, đức Bổn sư Ngô Lợi đi giảng đạo trong vòng 15 năm tại vùng núi Thất Sơn đã lập ra 4 thôn : An Định, An Hòa, An Thành và An Lập v.v... Đến sư Vãi Bán Khoai cũng vậy, Ngài đi sâu vào làng mạc, gần dân nghèo... để thuyết pháp, khuyên dân chúng phát triển nông nghiệp. Những chỗ thuyết pháp của các vị, quần chúng tham dự rất đông, nơi nào ít nhất cũng 1 - 2 nghìn người tham dự.

Các vị ấy đặc biệt quan tâm đến nông nghiệp là vì ý thức được rằng “có thực mới vực được đạo” và “no thì nên Bụt, đói sẽ ra ma”, như ông bà ta từng bảo. Nếu dân chúng lâm vào cảnh bần cùng đói khổ, họ rất dễ làm liều, gây nên tội ác.

6- Cổ vũ tinh thần yêu nước:

Trách nhiệm đối với quê hương và dân tộc là hai điểm trong bốn trọng ân của đạo giáo này. Những hoạt động của các vị giáo chủ luôn luôn gắn liền với nghĩa vụ cứu nước, giúp dân. Họ rất ưu tư trước cảnh mất nước, nô lệ và sẵn sàng lên tiếng bênh vực đồng bào khi chứng kiến những nạn tham quyền, cường hào, những sự áp bức bất công xảy ra trong xã hội. Do đó, chính quyền Pháp thường theo dõi và tìm cách ngăn trở, thậm chí có lúc bắt giam, khủng bố, không cho họ truyền giáo và cứu giúp dân lành. Ngoài đức Phật Thầy Tây An, các đức Phật Trùm, đức Bổn sư Ngô Lợi, cho đến sư Vãi Bán Khoai, không ai tránh khỏi cặp mắt dòm ngó, cản trở của nhà cầm quyền Pháp lúc bấy giờ.

Thiết tưởng sự ưu thời mẫn thế là một tình cảm đáng quý, nhưng đối với các bậc tu sĩ phải có một giới hạn nhất định, và phải coi đó như một phương tiện chứ không phải cứu cánh. Nếu xem vấn đề chính trị như một mục đích cứu cánh, thì khi đạt đến mục đích đó rồi, chúng ta sẽ cảm thấy bị hụt hẫng, hết lý do để tồn tại, thậm chí còn có thể xảy ra nạn giành giật, xâu xé và tiêu diệt lẫn nhau là khác. Những bài học này chúng ta đã thường gặp và cũng rất dễ thấy. Thế nên, sứ mệnh của tôn giáo là phải đạt đến những giá trị cao cả hơn, giá trị ấy vượt khỏi thời gian và không gian; có như vậy mới hóa giải được mọi sự bất đồng, dẫn con người đến chỗ cảm thông nhau để cùng nhau xây dựng một thế giới an lạc và tốt đẹp thực sự. Nhưng điều đáng tiếc là có một số tín đồ của một vài tôn giáo đã làm chúng ta cảm thấy thất vọng.

7- Phổ thông hóa giáo lý:

Phương pháp truyền đạo của giáo phái này là sử dụng thể văn vần song thất, lục bát, lời văn bình dị, nghĩa lý dễ hiểu, có tính cách phổ cập đại chúng, hấp dẫn người nghe, nhằm trình bày những vấn đề thực tiễn, những nghĩa vụ cụ thể của mỗi tín đồ đối với gia đình, xã hội và đất nước.

Tóm lại, giáo phái này thừa nhận nguyên lý nhân quả luân hồi tái sinh, xem các vị giáo chủ sau này là hậu thân của các vị giáo chủ trước. Trường hợp chuyển kiếp này giống như trường hợp các đức Đạt lai Lạt ma của Lạt Ma giáo Tây Tạng.

Giáo phái này đã nỗ lực hiện đại hóa Phật giáo, đem đạo vào đời, cập nhật hóa những giáo lý của đức Phật Thích Ca, phát huy những điểm giáo lý thích hợp với hoàn cảnh và thời đại, đáp ứng được phần nào những nhu cầu bức thiết của xã hội đương thời, có điều các vị giáo chủ ấy vẫn tôn thờ đức Phật Thích Ca, vâng hành giáo lý của Phật, chỉ cải cách một vài hình thức nhỏ mà tự xưng là giáo chủ thì hình như chưa được ổn. Có lẽ danh xưng Phật Thầy hay Giáo chủ là do các tín đồ quá sùng thượng các vị ấy nên suy tôn như thế mà thôi.

Một ưu điểm khác của giáo phái này là cố gắng dung hòa giữa giáo lý của đạo Phật với luân lý của Nho giáo và dung hòa các truyền thống khác của dân tộc. Chúng ta thấy rằng, khi hoàn cảnh và thời thế thuận lợi, có những vị giáo chủ, tu sĩ đủ tài đức giáo hóa và hướng dẫn tín đồ đi đúng chánh đạo, thì đạo giáo này phát triển mạnh. Trái lại, khi hoàn cảnh không thuận lợi, không có những vị lãnh đạo đủ tài, đủ đức để cho tín đồ ngưỡng mộ, quy phục, thì nó trở nên suy vi.
 
 

300 năm nghệ thuật tạo hình Phật tượng Gia Định-Sài Gòn
NGUYỄN ĐẠI PHÚC - HUỲNH NGỌC TRẢNG 

Nói chung, nghệ thuật tạo hình Phật tượng ở xứ Gia Định-Sài Gòn từ buổi đầu đến thập kỷ 40, 50 của thế kỷ này dường như là một tiến trình song hành của hai dòng phái: dân gian và chuyên nghiệp. 

I. Ở các thôn làng Nam bộ, đây đó, có những ngôi chùa làng được gọi là “chùa mục đồng” mà theo truyền thuyết thì các Phật tượng thờ ở đó là do bọn trẻ chăn trâu/bò lấy đất sét ở gò mối hay dưới ao tự nặn ra. Nặn ra rồi bày trò cúng kiếng rồi bỏ đó. Lại theo lời tục truyền, có đứa đem tượng xuống ao/sông tắm thì các tượng ấy nổi... Dân chúng cho là linh hiển, thế là cất chùa để thờ nên gọi là “chùa mục đồng”, tượng Phật ấy gọi là tượng Phật “mục đồng”. Đằng sau các yếu tố thần kỳ đó cho thấy một sự thật rằng vào buổi đầu khai hoang, dân chúng đã tự tạo Phật tượng để thờ ở các ngôi chùa làng. Đây là một tập thành biểu thị lòng sùng tín và là một bộ phận tiên khởi của lịch sử mỹ thuật Phật giáo Gia Định. 

Đặc trưng nghệ thuật của tập hợp Phật tượng mục đồng là sự chân thực hồn nhiên làm sững sờ người xem như một cảm nhận thảng thốt khi bất chợt nghe một câu hò trên sông lúc hoàng hôn. Nói cách khác, chúng được tạo tác bằng một thủ pháp riêng như ca dao - dân ca được ứng tác bằng thi pháp dân gian khác với thi pháp của thi ca bác học. Tác phẩm được tạo nên là tình là ý của người tạo tác mà không là kỹ năng hay sử dụng công của thợ điêu khắc chuyên nghiệp. Nó là sản phẩm của “họa pháp” đại tả ý - nếu có thể gượng ép lấy thuật ngữ này để định danh đó. cái đẹp của chúng là ở chính sự thô phác ấy. 

II. Chất liệu của tập hợp Phật tượng dân gian mà chúng tôi định danh chung là “Phật tượng mục đồng” bao gồm tượng gỗ, tượng đất sét, tượng đất nung. 

1. Pho tượng Phật lần chuỗi ở chùa Hội Sơn (Thủ Đức) và các tượng khác không xác định được tên gọi ở chùa Long Tân (Tân Vạn - Biên Hòa) là các tượng bằng đất nung đặc ruột. Đây là những di tích của tiến trình từ tượng mục đồng đất sét đến tượng gốm đất nung bán chuyên nghiệp. 

Các tượng gốm đất nung ở đình Phú Định (quận 6), đặc biệt ở chùa Từ Quang (191 Ba Tơ, P.7, Q.8) là những di tượng gốm đất nung thuộc thế hệ đầu của xóm Lò Gốm Cây Mai / xứ Sài Gòn xưa: niên đại đoán định là từ đầu đến giữa thế kỷ XIX. Trong khi đó các bộ tượng gốm đất nung của các chùa Thiên Phước (Thủ Đức), Trường Thọ (Gò Vấp), Diệu Giác (Bình Thạnh) có thể được tạo tác hồi đầu thế kỷ XX vì chúng có kỹ pháp tạo hình và phong cách nghệ thuật khá đồng nhất với loại tượng này ở vùng Dĩ An - Biên Hòa. 

Gọi các tượng này là tượng gốm bán chuyên nghiệp vì chúng được tạo tác bằng kỹ pháp học được do thợ gốm chuyên nghiệp (hay do các thợ chuyên nghiệp trực tiếp thực hiện) được hầm bằng trấu, có ôn độ thấp, gốm nung chín còn non và đặc biệt là trình độ tạo tượng là còn non kém, không đạt được trình độ già dặn như Phật tượng sành Cây Mai. 

2. Xóm lò gốm ở vùng Phú Lâm - Phú Định được ghi trong bản đồ Gia Định-Sài Gòn (Sài Gòn lúc đó hiểu là Chợ Lớn ngày nay) vào năm 1815, tức nó đã thành lập trước đó - có thể là cuối thế kỷ XVIII. Các lò gốm ở đây sản xuất gạch, ngói, đồ gia dụng và có lẽ các lò Nam Hưng Xương, Bửu Nguyên, Đồng Hòa là các lò chuyên làm tượng thờ và các nhóm tượng trang trí của chùa miếu - gọi chung là sản phẩm “công nghệ miếu vũ” - tập trung quanh cầu Phú Lâm đến gò chùa Cây Mai nên thường được gọi là “gốm Cây Mai”. 

Pho tượng gốm Cây Mai có niên đại chính xác và sớm nhất là tượng Giám Trai ở chùa Giác Viên: 1880 và các niên đại muộn nhất là loại tiểu tượng gốm Cây Mai là 1921. Điều đó cho phép xác định các tượng thuộc tập hợp Phật tượng sành là khoảng cuối thế kỷ trước đầu thế kỷ này. 

Phật tượng gốm Cây Mai không nhiều nhưng đó là những bảo tượng vì vẻ đẹp của men màu “lưu ly” - nói như thế nhân thường gọi, mà là trình độ nghệ thuật, của tài năng tạo hình - đặc biệt là việc xử lý thần thái của nét mặt và qui pháp tạo hình đã thật sự có tuân thủ nghiêm túc nhất định về nghi qui và đồ tượng học Phật giáo có tính mẫu mực (1). 

3. Gốm cây Mai đầu thế kỷ XX bắt đầu tàn rụi vì nhiều nguyên nhân. Thợ gốm ở đây lần lượt dời về Lái Thiêu, Biên Hòa. Ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của thợ gốm cây Mai đã góp phần tạo nên các bộ tượng gốm đất nung nói trên. Các sản phẩm bán chuyên nghiệp này được các chùa đặt mua khá nhiều. Địa bàn phổ biến của chúng từ trung tâm Biên Hòa đến Vũng Tàu - Bà Rịa, xuống Dĩ An, Gia Định, xuống tại chùa Phước Hậu (Trà Ôn - Vĩnh Long). 

Ngoài ảnh hưởng của thợ gốm Cây Mai đối với phong trào tự tạo tượng gốm đất nung hầm non bằng trấu nói trên, họ còn là những thợ cả, thầy dạy cho đội ngũ nghệ nhân gốm của trường Mỹ nghệ bản xứ Biên Hòa (lập năm 1903) mà kết quả là đã tạo nên loại sản phẩm nổi tiếng một thời ở thị trường trong nước và thế giới - gọi là gốm Mỹ nghệ Biên Hòa. Số lượng tượng Phật của gốm mỹ nghệ Biên Hòa là một sưu tập đa dạng và phong phú được tạo tác bằng phương pháp thủ công hoàn toàn, hoặc in khuôn, hoặc rót khuôn và tận dụng nhiều kỹ thuật trang trí khác nhau: chạm khắc, tô men, vẽ men. Bảng màu men của gốm mỹ nghệ Biên Hòa rất phong phú nhưng được sử dụng có liều lượng, có nghiên cứu nên đã tạo nên nhiều Phật tượng trang nghiêm hoàn mỹ. Điều đó, quí vị có thể nhìn thấy ở sưu tập ảnh mà chúng tôi trưng bày ở đợt triển lãm “Bảo tượng pháp khí” này. 

III. Bộ phận Phật tượng gỗ là tập thành phong phú nhất về số lượng, về đề tài cũng như phong cách và kỹ pháp tạo hình. 

Các Phật tượng của chùa Kim Chương (khai sơn 1755) mà ngày nay còn bảo quản được ở chùa Hội Thọ (Cái Bè - Tiền Giang) là những pho tượng có niên đại 1813 - năm tái thiết lớn và ngôi chùa sắc tứ này được thế nhân xưng tụng là “đại bửu sát” của cả xứ Nam Trung (xem Gia Định thành thông chí) đây là những Phật tượng mà tác giả tạo tác hẳn là nghệ nhân Huế. Chúng ta không có tài liệu Hán Nôm nào để khẳng định là chúng được Cao Hoàng hậu cho chở từ kinh đô Phú Xuân vào, nhưng căn cứ vào đặc điểm đồ tượng học, vào phong cách tạo hình chúng ta có thể kết luận về điều đó. Tương tự A Di Đà của chùa Khải Tường là pho tượng của vua Minh Mạng dâng cúng vào khoảng sau năm 1832, khi ông vua này “lấy của kho 300 lạng bạc, giao cho quan địa phương theo cách thức đã định của Bộ Công, gọi thợ xây dựng” ngôi chùa ở nơi mình sinh ra, gọi là chùa Khải Tường “để ghi sự tốt lành to tác, chứng tỏ nơi phát phúc lâu dài”(Đại Nam thực lục chính biên. Bản dịch của Viện sử học, H.1962, tập 9, trang 173 - 174). 

Nói chung, đây là những Phật tượng gỗ có tính chất chuẩn mực của nghệ thuật tạo tượng đầu thế kỷ XIX. Trong khi đó các Phật tượng trước sau niên đại này ở các chùa cổ: Trường Thọ, Long Huê, Tập Phước, Phước Tường, Huê Nghiêm, Long Nhiễu, Giác Lâm, Giác Viên... lại còn hoặc thô phác hay quá chân phương, thiếu sinh động... và phải đến những năm 60, 70 của thế kỷ này mới thấy xuất hiện các Phật tượng đạt được chuẩn mực nghệ thuật trang nghiêm thực sự đáng được gọi là có “tướng hảo quang minh”. Các Phật tượng ở các chùa Phước Hòa, Pháp Hội của nghệ nhân điêu khắc gỗ Nguyễn Đức Thống là những ví dụ. 

Gia Định-Sài Gòn là thành phố ngã ba đường, nơi hội tụ của nhiều dòng chảy văn hóa. Đặc điểm này cũng biểu hiện khá rõ trong nghệ thuật tạo hình Phật tượng. Các chi phái thợ chạm khắc gỗ từ Thuận-Quảng, từ miền Bắc, từ Thủ Dầu Một, từ Sa Đéc, Long Xuyên, trong đó có các nghệ nhân người Hoa, đã đổ về đây. Họ đã tạo tác nên một tập đại thành Phật tượngå theo qui pháp tạo hình và phong cách nghệ thuật khác nhau; và rồi trong những thập niên đầu thế kỷ này, đội ngũ những nhà điêu khắc Phật tượng lại được bổ sung những người tốt nghiệp từ các trường mỹ thuật chính qui. Họ đã tạo tác Phật tượng bằng nhiều chất liệu khác nhau: gỗ, gốm đất nung, sành sứ, thạch cao, xi-măng... 

Gỗ là chất liệu truyền thống của nghệ thuật tạo tượng; đặc biệt gỗ mít/mít nài do tên gọi chữ Hán của nó là cây ba la mật nên được coi là thứ gỗ thiêng đặc dụng. Ngày nay, việc tạc tượng Phật gỗ vẫn còn duy trì, song đa phần ngả qua hướng tạo tượng mỹ nghệ hơn là tượng thờ. Phật tượng thờ làm bằng thạch cao, xi măng giờ đây được đắc dụng hơn nhưng do sản xuất hàng loạt nên ít thấy những Phật tượng có giá trị nghệ thuật độc đáo. 

Tượng đáá ở Nam bộ, trước đây là sự “tiếp nhận” các di tượng đá đa phần là thần của Bà la môn giáo để thờ - gọi chung là Phật đá. Gần đây Phật tượng bằng đá của nghệ nhân điêu khắc đá Bửu Long (Biên Hòa) bắt đầu được quan tâm. Một trong những tượng Phật đá hiện đại đáng chú ý là tượng Phật Quan Âm của chùa Quan Thế Âm (Phú Nhuận). 

Nói chung, trong 300 năm lịch sử của Gia Định-Sài Gòn-thành phố Hồ Chí Minh, các chi phái thợ, các nhà điêu khắc đã tạo tác nên một tập thành Phật tượng khá phong phú. Qua biết bao biến cố dữ dội suốt ba thế kỷ qua, những Phật tượng còn lại đến nay là một bộ phận quan yếu của lịch sử mỹ thuật vùng đất này. Điều này đã chỉ ra nhiệm vụ của thế hệ ngày nay đối với những giá trị cổ xưa còn sót lại. Những pho tượng cổ, dù không được coi là có “tướng hảo quang minh” theo cái nhìn của con người thời nay; nhưng đó là những giá trị lịch sử một đi không tái lại. Do vậy, việc phế bỏ hay sơn sửa mới đều làm hại đến giá trị vốn có của chúng, dù việc làm đó xuất phát từ những thiện ý.
 
 

(1) Tạm kể các tượng đáng lưu ý sau đây: Giám Trai (Giác Viên), Bồ Đề Đạt ma, Tiêu Diện Đại sĩ (Phụng Sơn - chùa Gò), Chuẩn Đề (Giác Sanh), Tiêu Diện Đại Sứ (tượng đứng - Vạn Đức), Tiêu Diện Đại sĩ (tượng ngồi - Bửu An), Thiện Hữu (đình Phú Định), Di Đà Tam Tôn (cực lớn), Giám Trai, Bồ Đề Đạt Ma (Phước Lưu - Trảng Bàng), nhiều tượng Phật ở Phật điện chùa Vạn Linh (Bình Thủy - Cần Thơ)... 
 
 

Phật giáo trong cái nhìn của nho sĩ Nam Bộ
cao tự thanh

Là một bộ phận cấu thành của thiết chế văn hóa-xã hội truyền thống Việt Nam, Phật giáo (PG) cũng là một yếu tố góp phần thể hiện, đồng thời thực hiện tiến trình lịch sử Việt Nam ở Nam Bộ các thế kỷ trước. Tuy nhiên, phát triển trong những điều kiện xã hội và chính trị khác hẳn thời Lý-Trần. Phật giáo ở Nam Bộ cũng mang một giá trị thay đổi qua các thời kỳ lịch sử và ở những không gian xã hội khác nhau, nhưng cho dù không phải đều là thiện duyên, đó cũng là những cơ duyên giúp nó liên tục tự hoàn thiện bằng sức mạnh dân tộc và không ngừng tự đổi mới qua thực tiễn xã hội. Từ cách hiểu này, việc tìm hiểu PG qua cái nhìn của nho sĩ ở Nam Bộ thế kỷ XVIII-XIX là một vấn đề có thể và cần thiết được đặt ra.

Nhìn lại lịch sử Nam Bộ qua bốn giai đoạn trước 1802, 1802-1867, 1867-1945 và từ 1945 đến nay, trong đó giai đoạn đầu gồm thời kỳ Đàng Trong (từ đầu đến 1777) và thời kỳ nội chiến Tây Sơn-Nguyễn Ánh (1778-1802), có thể thấy thời kỳ Đàng Trong là xuất phát điểm lịch sử rất thuận lợi cho sự phát triển của PG ở Nam Bộ. Tất cả các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đều là những người sùng thượng đạo Phật. Thậm chí khóc một người ái thiếp qua đời, Hiển Tông Phước Châu còn làm bốn bài thơ, trong đó có câu cuối cùng là “Kim bằng diệu pháp không vương lực, Tiến bạt u hồn đạt thượng phương” (Nay nhờ diệu pháp Như Lai giúp, Nâng đỡ hồn thơm tới cõi Tây) (1). Nhiều văn thần võ tướng Đàng Trong cũng là những Phật tử tiêu biểu, trong đó có những người như Trần Đình Ân, Nguyễn Hữu Hào còn là các trí thức Phật học điển hình (2).

Hơn thế nữa, nếu tập quán văn hóa-tín ngưỡng đã khiến những kẻ đứng đầu tập đoàn thống trị họ Nguyễn hướng tới đạo Phật để tìm kiếm một sự thỏa mãn về tri thức và tinh thần, thì ý thức chính trị-giai cấp cũng giúp họ nhìn thấy nơi đây một lực lượng có thể góp phần củng cố và mở rộng thế lực phần đời của mình trong hoàn cảnh lịch sử-xã hội ở Đàng Trong buổi ấy (3). Theo với sự phát triển của Nho giáo ở Đàng Trong, thiết chế văn hóa-tư tưởng kiểu “Nho-Thích song hành” này sẽ từng bước mất đi ở Thuận-Quảng vào nửa đầu thế kỷ XVIII. Nhưng ở Nam Bộ thì tuy các chuẩn mực lối sống của Phật giáo đã dần dần không còn đáp ứng được các nhu cầu quản lý xã hội nữa, song tính hội tụ trong văn hóa của vùng này lại tạo điều kiện thuận lợi cho sự duy trì truyền thống Tam giáo hòa đồng.

Cho nên mặc dù trước 1777, Nguyễn Cư Trinh ở Quảng Ngãi từng phê phán kiểu tu hành của PG là vô dụng : “Có đâu đi bắt chước thầy sãi mà tu trì. Đương ban ngày dù có phép lên trời. Luận đạo trị chẳng ích chi cho nước” (4) trong Sãi vãi hay Nguyễn Dưỡng Hạo ở Thuận Hóa đã coi việc Ngô Thế Lân phối hợp triết lý Tam giáo để nhìn nhận Thái cực đồ là “bị mê hoặc vì thuyết chung nguồn khác dòng” (hoặc ư nhất ngôn dị lưu chi thuyết) (5), nho sĩ Nam Bộ thế kỷ XVIII vẫn nhìn nhận PG theo một cách khác hơn. Trước khi Tây Sơn vào Nam Bộ lần đầu năm 1776, Trịnh Hoài Đức từng có một tình bạn khá đặc biệt với nhà sư Viên Quang :

Ức tích thái bình thì

Lộc Động phương thịnh mỹ

Thích Ca giáo hưng sùng

Lâm ngoại tổ phú quý

Ngã vi thiêu hương đồng

Sư tác trì giới sĩ

Tuy ngoại phân thanh hoàng

Nhược mặåc khế tâm chí

(Nhớ thuở thái bình xưa

Đồng Nai vừa thịnh mỹ 

Đạo Thích được tôn sùng

Nhà ngoại còn phú quý

Ta làm trẻ dâng hương

Sư là người giữ giới

Áo tuy chia xanh vàng

Lòng vẫn chung ý khí...) (6)

và mặc dù từ 1751-1752 từng xuất phát từ ý hướng giúp vua trị nước của một nhà nho mà phê phán đạo Phật, khoảng 1755-1765, viên Tham mưu Ngũ dinh Gia Định Nguyễn Cư Trinh vẫn coi chùa Phật là một biểu trưng của văn hóa Việt qua những lời thơ hùng tráng đẹp đẽ trong bài Tiêu Tự thần chung họa thơ Hà Tiên thập vịnh của Mạc Thiên Tích ở Hà Tiên:

Thần phong dao lạc lộ hoa xao

Thiều đệ cô thanh quá thụ sao

Kim thú hào tàn tinh hải chử

Mộc kình đả lạc nguyệt lâm ao

(Gió sớm nhẹ lay sương móc sa

Cây ngăn xào xạc tiếng chuông qua

Thú vàng thét lớn dòng sao rụng

Chày gỗ khua mau ánh nguyệt nhòa)

Thật ra, cho dù phê phán hay thừa nhận PG, các nhà nho Đàng Trong trước 1777 cũng ít lưu ý tới khía cạnh triết lý tôn giáo mà chủ yếu chú trọng vào hệ thống chuẩn mực lối sống. Chẳng hạn trong thư trả lời để phản đối Nguyễn Dưỡng Hạo, Ngô Thế Lân đã viết: “Phàm sự lưu hành của Phật-Lão-Thích, không biết túc hạ lấy gì để nhìn. Hay nói cái học của Lão-Thích chỉ vì mình mà cho là họ sai chăng? Nhưng cái học vì mình của Lão-Thích còn hơn cả cái học vì người của chúng ta nữa, huống chi cái thực học của nhà nho chúng ta thì gì không vì mình, há có thể vì thế mà chê họ là sai sao ? Hay nói cái học của Lão-Thích bỏ hết luân thường để trong sạch riêng mình mà cho là họ là sai chăng ? Nhưng kinh Phật nói có Bồ tát tại gia, có Bồ tát xuất gia, tùy theo hiểu biết nông hay sâu, căn trí lớn hay nhỏ thôi, mà đạo Lão cũng thường nói bất kể làm quan hay làm dân, cứ có chí là có thể tu theo đạo thật. Lão-Thích có khi nào dạy người ta làm trái luân thường đâu...”. Định hướng tiếp cận đầy tính thực tiễn này sẽ được các nhà nho Nam Bộ kế thừa và phát triển thành tiêu chuẩn cao nhất để nhìn nhận và đánh giá Phật giáo trong thời gian sau.

Sau khi chiếm lại được Nam Bộ lần cuối năm 1788, nhằm huy động tối đa sức người sức của ở vùng này vào cuộc chiến tranh phong kiến chống Tây Sơn, chính quyền Nguyễn Ánh đã can thiệp vào sinh hoạt tôn giáo ở địa phương như lập danh sách Tăng Ni đạo đồng ở chùa năm 1790 hay bắt các Tăng Ni dưới 50 tuổi cũng phải chịu lao dịch như dân năm 1798 (7). Song, mặc dù phát triển đột biến trong nội chiến cuối thế kỷ XVIII, đồng thời mau chóng trở thành lực lượng dẫn đạo của chính quyền Gia Định trước 1802, các nhà nho Nam Bộ vẫn không hề chống báng hay bài bác PG, mà ngược lại, còn tìm tới nó như một không gian vô ngã để kéo lại sự quân bình trong tâm lý của những kẻ sĩ vừa là người trong cuộc, vừa là chứng nhân của một thời nồi da xáo thịt, đất nước loạn ly. Đề thơ ở chùa Gò Cây Mai, một tác giả khuyết danh trước 1788 đã viết:

Thiền môn hà xứ phỏng mai hoa

Tạm yết chinh tiên thuyết Phạn gia

Hương nhập trà bình yên chính noãn

Nhất sinh trần lự bán tiêu ma

(Cửa Phật tìm hoa khó có nơi

Dừng roi xuống ngựa chuyện trò chơi

Bình trà khói ấm hương mai ngát

Một tấm trần tâm nửa đã vơi).

Đề Mai Khâu tự (8)

Còn khoảng 1799, Ngô Nhơn Tịnh đã tỏ ra ưa thích không những kinh Dịch của Nho giáo (Ái quan Chu Dịch dĩ trì thân), thiên Tiêu dao du trong Nam Hoa kinh của Trang Tử (Ái tụng Nam Hoa đệ nhất thiên), kinh Hoàng Đình của Đạo gia (Ái khán Hoàng Đình nhất bộ kinh), mà còn cả kinh Kim Cương của nhà Phật:

Ái niệm Kim Cương nhất bộ kinh

Tâm đầu hàng phục thoại phân minh

Nhược năng liễu đắc như như thị

Công phá sầu thành bất dụng binh

(Thích đọc Kim Cương một bộ kinh

Trong lòng khâm phục lẽ phân minh

Sắc không nếu hiểu điều minh triết

Thì phá thành sầu khỏi dụng binh)

Thuyết tình ái (9)

Từ 1802 trở đi, PG ở Nam Bộ phát triển trong hoàn cảnh đất nước thống nhất trở lại nên cũng tích lũy thêm được những nhân tố phát triển mới. Nhưng sau cuộc binh biến thành Phiên An 1833-1835 thì hệ thống chuẩn mực lối sống của nó đã ít nhiều không ăn khớp với đời sống xã hội ở địa phương nữa. Cho nên lại có một Sãi vãi mới xuất hiện ở Nam Bộ qua Dương từ hà mậu của Nguyễn Đình Chiểu. Cái đề án cải cách xã hội trên phương diện lối sống lấy vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng làm trọng tâm này quả cũng mang một cái nhìn có vẻ khá cực đoan về PG, nhưng giống như Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Đình Chiểu trong thực tế chỉ phê phán một bộ phận Tăng Ni và Phật tử quay lưng với cuộc đời và đất nước trong hoàn cảnh quốc gia phong kiến Việt Nam đang bị hút dần vào quỹ đạo xâm lăng của chủ nghĩa thực dân-tư bản phương Tây.

Chính vì vậy mà trong bài Văn tế nghĩa sĩ chết trận Cần Giuộc năm 1861, ông vẫn lấy hình ảnh “Chùa Tôn Thạnh năm canh ưng đóng lạnh” để tỏ lòng tiếc thương những nghĩa sĩ nông dân xả thân vì đất nước. Ở mức độ cụ thể hơn, Võ Thành Đức trong bài phú Gia Định thất thủ vịnh sau này còn viết: “... Chùa Cẩm Đệm trải đến Cây Mai, Phật Bồ Tát phải nghèo ôm bụng” (10), lấy sự điêu tàn của chùa Phật để khái quát cảnh nước mất nhà tan. Và tương tự, tác giả bài Đề Mai Khâu tự khoảng 1876, nhà nho yêu nước thương đời Nguyễn Thông cũng thấy thanh thản trước cảnh chùa Phật Quang ở Bình Thuận “Nhớ lại những nơi mình đã tới, Quên buồn quá nửa tại thiền môn” (Phật Quang tự di ngụ tập vịnh) (11). Rõ ràng đối với các nhà nho Nam Bộ thế kỷ XIX, PG cũng là yếu tố tiên thiên gắn bó một cách tự nhiên với đời sống tinh thần của họ.

Cho nên sau 1868, người thủ lãnh nghĩa quân Hóc Môn cũ Trần Thiện Chánh mặc dù phê phán lối sống “mũ ni che tai” khi tới chùa Đại Quang, tỉnh Sơn Tây, “Lành dữ liền bên cửa vẫn gài, Hư vô không bợn chút trần ai, Đài gương chẳng chiếu bồ đề tối, Y bát truyền nhau yên ổn thay !” (Đại Quang thiền tự), nhưng với nỗi lòng u uất của một người yêu nước xa quê vẫn tìm thấy nơi nhà sư ở chùa...

* * *

Mặc dù là những người đại diện của thiết chế văn hóa-xã hội chính thống thời phong kiến, các nhà nho Nam Bộ nhìn chung vẫn rất gần gũi với PG về mặt lối sống và tâm linh, nên rõ ràng trong đời sống tinh thần của họ thì Phật giáo thường xuyên là một ảnh hưởng vững bền và sâu sắc. Truyền thống Tam giáo hòa đồng được kế thừa trong dòng chảy hội tụ văn hóa trên vùng đất mới, đã đưa tới cho PG ở Nam Bộ thêm một nguồn sinh lực, giúp nó đổi mới không ngừng để theo kịp với thực tiễn của dân tộc. Chính trên con đường phá chấp một cách tự nhiên ấy, nó đã góp phần tạo ra sự thống nhất về lối sống và tâm lý trong toàn thể cộng đồng.

Những ý kiến phê phán này khác của các nhà nho Nam Bộ đối với PG vì vậy chủ yếu là một thái độ xã hội nhìn từ góc độ lý tưởng kinh bang tế thế của họ, còn nhìn từ phía PG thì đó là một tư liệu phản biện, một hệ thống đối chứng cần thiết cho sự phát triển của nó, sự phản biện và đối chứng đã góp phần giúp nó Việt hóa hoàn toàn thiền phái Lâm Tế từ thế kỷ thứ XVIII và từng bước đi tới hệ phái PG yêu nước Bửu Sơn Kỳ Hương cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đây cũng chính là hành trang mà lịch sử đã chuẩn bị cho PG ở Nam Bộ bước vào chặng đường kế tiếp, nên dễ hiểu vì sao trong những thời kỳ đen tối nhất của lịch sử dân tộc trong thế kỷ XX, cửa thiền ở Nam Bộ đã trở thành nơi mà nhiều nhóm xã hội khác nhau cùng ký thác tâm tình và nguyện vọng, khiến PG ở vùng này không chỉ bảo lưu các giá trị tôn giáo truyền thống, mà còn cả những yếu tố văn hóa Việt Nam.

Qua ba trăm năm phát triển và cống hiến của mình, PG ở Nam Bộ đã trải qua nhiều biến động tự thân cũng như nhiều thăng trầm lịch sử. Sự thừa nhận của tầng lớp trí thức địa phương, trong đó có các nhà nho đối với PG trước nay, do đó là điều không cần bàn cãi nhiều hơn, và sự phê phán của họ cũng là điều khó mà tránh khỏi. Nhưng điều cần nhấn mạnh là nho sĩ Nam Bộ không phê phán PG về mặt triết lý Phật học, mà chủ yếu về mặt chuẩn mực lối sống và cũng chỉ phê phán hệ thống chuẩn mực này vào những lúc mà nó tỏ ra không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn xã hội. Những cái nhìn khác nhau đối với PG của nho sĩ Nam Bộ thế kỷ XVIII-XIX vì vậy đều mang ý nghĩa là sự kế thừa một cách sáng tạo truyền thống Tam giáo hòa đồng lâu đời của dân tộc trên vùng đất mới, một yếu tố tích cực kích thích PG ở Nam Bộ phát triển mạnh hơn trên con đường Phật pháp bất ly thế gian pháp, con đường mà từ Phật Thích Ca đến các Phật tử chân chính đều hướng tới trong mục tiêu vượt lên bể khổ trầm luân.«

Tháng 5-1998
 
 

(1) Đại Nam liệt truyện tiền biên. Cao Tự Thanh dịch, Nxb Khoa học xã hội, 1995, Truyện Kính phi họ Nguyễn. tr.78.

(2) Đại Nam liệt truyện tiền biên, sđd, Truyện Trần Đình Ân, tr.219 và Thích Đại Sán, Hải ngoại ký sự, Viện Đại học Huế xb, 1963, tr.55-57, 74-82, 109-113.

(3) Xem thêm Cao Tự Thanh, Nho giáo ở Gia Định, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1996, tr.22-28.

(4) Lê Ngọc Trụ, Phạm Văn Luật, Sãi vải - Nguyễn Cư Trinh với quyển Sãi vải, Khai Trí, Sài Gòn, 1963, tr.125-126.

(5) Ngô Thế Lân, Phục Nguyễn Dưỡng Hạo thư Nam hành kỳ đắc tập, tài liệu chữ Hán chép tay hiện được lưu giữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2939.

(6) Theo Nguyễn Liên Phong, Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca, Phát Toàn, Sài Gòn, 1909, quyển 1, tr.28, (nguyên văn chữ Hán). Xem thêm Cao Tự Thanh, Về bài thơ của Trịnh Hoài Đức tặng Hòa thượng Viên Quang, Tập văn Phật Đản của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, số 23, tháng 4-1992.

(7) Đại Nam thực lục, Nxb Sử học-Khoa học-Khoa học xã hội, Hà Nội, 1962-1978, tập II, tr.123 và 289.

(8) Đại Nam nhất thống chí, Lục tỉnh Nam Việt, Nha Văn hóa Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xb, Sài Gòn, 1973, phần chữ Hán in kèm, tỉnh Gia Định, mục Tự quán, tờ 35b.

(9) Thập anh thi tập, bản in chữ Hán năm Minh Mạng thứ 3 (1822).

(10) Theo Ca Văn Thỉnh, Hào khí Đồng Nai, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1983, tr.137-138 và Thái Bạch, Thi văn quốc cấm thời thuộc Pháp, Khai Trí, Sài Gòn, 1968, tr.223-227 (văn bản hiệu đính của chúng tôi). Việc xác định tác giả của bài phú này dựa theo Nguyễn Liên Phong, Điếu cổ hạ kim thi tập, Imprimèrie de l’Union Sài Gòn, 1915, phần Hạ kim thi tập, tr.15-16.

(11) Xem thêm Cao Tự Thanh, Đoàn Lê Giang, Tác phẩm Nguyễn Thông, Sở Văn hóa và Thông tin Long An xb, 1984, tr.169-172.

(12) Cao Tự Thanh, Thơ Trần Thiện Chánh, nxb Khoa học xã hội, 1995, tr.101-105, và 112-114.
 
 

Tinh thần Phật giáo trong sân khấu dân tộc 
ở Việt Nam và một số nước Đông-Nam Á
Nghệ sĩ BẠCH TUYẾT
Tiến sĩ Nghệ thuật học

Sân khấu Đông Nam Á (ĐNÁ) có đặc điểm dùng ngôn ngữ văn học làm cơ sở với cách hát và động tác cách điệu, với trang trí mang tính ước lệ. Khác với sân khấu kịch phương Tây theo lý luận của Aritote, những câu chuyện được diễn tả như thật, mỗi chi tiết được cụ thể hóa, cơ học hóa trên sàn diễn đã được công nghiệp hóa. Sân khấu tao nhã phương Đông thường là những tích truyện cổ truyền miệng từ trong dân gian được khái quát hóa, nghệ thuật hóa; thường được bày ra ở các sân chùa, sân đình, bờ ruộng bãi mía... nơi có số đông dân chúng tụ họp thành làng xã, tài nghệ cá nhân của diễn viên và ban nhạc nền với các nhạc cụ dân tộc là yếu tố chính thu hút người xem trong mỗi đêm diễn. 

Yếu tố tôn giáo hình thành tư tưởng triết ý trong hầu hết các vở diễn xuất phát từ tinh thần Bi, Trí, Dũng của đạo Phật. Tinh thần Phật giáo (PG) là một trong những nhân tố tiềm ẩn của dòng ý thức ăn sâu bén rễ cấu tạo nền văn hóa chung gắn bó các dân tộc trong khu vực để từ đó sân khấu ĐNÁ mang đến cho công chúng khán giả những bài học, những kinh nghiệm mang tính khái quát thông qua tác phẩm, quan niệm về cái đẹp đồng nghĩa với cái thiện và cái chân. 

Sân khấu cổ truyền của một số quốc gia ĐNÁ còn ghi nhận sự hiện diện của hai bộ Sử thi đồ sộ của người khổng lồ Valmiki (Ấn Độ). “Ramayana” hầu hết như được cả thế giới biết đến cùng với “Mahabharata” mang nội dung ca ngợi cái Đẹp của đạo đức, tinh thần anh dũng, hy sinh vì chính nghĩa, ca ngợi những vị thần, những con người sống trung thực, liên kết nhau, giúp đỡ nhau chống lại cái ác, kẻ làm điều xấu sẽ bị vạch mặt chỉ tên, bị đám đông dân chúng khinh bỉ xa lánh, người lương thiện bị hàm oan, bị hại cuối cùng được bà con xóm làng cưu mang, cứu giúp tìm cách chống lại bọn ác. Cùng với những tác phẩm văn học nổi tiếng của Trung Hoa như “Tam quốc chí”, “Đông Chu liệt quốc” “Tống Giang Thủy Hử”... là hàng loạt những tác phẩm được xây dựng dựa trên câu chuyện về Đức Phật Thích Ca từ lúc Ngài rời kinh thành đi tu cho đến khi thành đạo, là những nguồn cảm hứng bất tuyệt, cung cấp vật liệu trong quá trình sáng tác, dàn dựng và biểu diễn trên sân khấu cổ truyền ĐNÁ. Tính kế thừa về tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại qua hai bộ sử thi và những bộ trường thiên tiểu thuyết của Trung Hoa, đối với các tác phẩm sân khấu của Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia, Malaysia, Indonesia rất sâu sắc. Riêng ở Thái Lan, những thập niên 90, đã có một số vở diễn được các tác giả và đạo diễn khai thác dựa trên tạng Kinh của đức Phật, đó là vở “Đoc Tripikata”. 

Theo nhiều nhà nghiên cứu nghệ thuật sân khấu truyền thống trong cũng như ngoài nước, ở Việt Nam thời Lý-Trần, ngôi chùa là trung tâm văn hóa của cộng đồng làng, xã, nơi biểu diễn các loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền đậm tính chất dân gian thấm đượm hương vị PG. Sử chép rằng các vua Lý-Trần đã nhiều lần xuống chiếu đại xá các tội phạåm biết ăn năn hối cải, chiếu miễn giảm thuế cho dân bị thiên tai địch họa. Các vua cùng các hoàng hậu cũng đã ra chỉ dụ lập chùa xây đình cất miếu khắp cùng đất nước từ rừng cao núi thẳm đến vùng đồng bằng đông đúc dân cư. Tinh thần PG nổi bật lúc bấy giờ thể hiện lòng nhân ái, lượng bao dung, đức hiếu sinh (từ bi, hỷ xả), lấy hạnh phúc con người và sự giải thoát làm mục đích, không phân biệt già trẻ gái trai, cao thấp sang hèn.

Tư tưởng PG, thông qua các tác phẩm sân khấu, khuyến khích, tạo điều kiện cho con người tự ý thức, hành động, tự hoàn thiện và nhất là tự định đoạt lấy số phận mình, khẳng định sự tồn tại khoảnh khắc nhưng vô cùng quý báu của mình trong dòng sống miên viễn của vũ trụ. Nghệ thuật sân khấu truyền thống thời Lý-Trần chan hòa tinh thần PG, nhân vật trung tâm xuất hiện trước khán giả là để chuyển tải ý niệm nhân ái, bao dung, tư tưởng cốt tủy của hình thức tôn giáo được Việt Nam hóa qua cuộc đời vĩ đại của đức vua Trần Nhân Tông, người mở lối cho Thiền tông VN hiện diện một cách tự hào trong ngôi nhà PG thế giới. Sân khấu lúc bấy giờ hướng về tin thần bất khuất của các vị cao tăng đạo cao đức trọng, tư tưởng uyên thâm, học Phật, yêu nước, yêu dân tộc... từ nguồn cội này, sân khấu truyền thống dân tộc đi sâu, ngấm dần vào tâm thức của dân chúng, hình thành sự rung cảm đồng điệu giữa người thưởng ngoạn và người làm nghệ thuật chân chính của mọi thời đại. 

Trên sân khấu ca kịch cải lương Việt Nam, hình thành từ những năm đầu thế kỷ, chủ đề PG đã được khai thác thiên về tính giáo dục. Những vở diễn được công chúng cũng như Phật tử đón nồng nhiệt và phần nào thỏa mãn trong cách lý giải và trình bày giáo lý của đức Phật về thuyết “nhân quả báo ứng”. Thuyết này bao trùm cả vũ trụ nhân sinh, chỉ rõ người làm lành, gieo nhân thiện tất nhiên nhận được quả lành, người lỡ lầm làm điều xấu xa, ác đức phải nhận lấy hậu quả đau lòng ; nhưng nếu bản thân người ấy biết ăn năn cải hối tự mình sửa sai, tìm cáh làm nhiều điều tốt thì họ vẫn được hưởng cái tốt của họ gieo đồng thời với những quả xấu mà họ đã gây trước kia. Những vở diễn có đề tài PG vẫn được dựng đi, dựng lại mỗi hai hoặc ba thập niên tuy có sửa đổi tuỳ theo thời, nhưng tựu trung vẫn chuyển tải được cái rốt ráo của đạo pháp, như Thiện sẽ có thiện báo ứng, Ác có ác báo hiện lên đòi không bao giờ sai, nếu như chưa thấy là vì củi chưa đủ cơm chưa tới, thời gian chưa đến. 

Vở “Tam Tạng thỉnh kinh” gợi mở cho người xem nhận thức phần nào hành trình gian nan qua trăm sông ngàn suối, trăm hiểm ngàn nguy để đi tìm chân lý giác ngộ, tìm lại cái bản lai diện mục của chính mình, hiểu mình, biết khả năng tự thân để từ đó sống cuộc đời có ích cho mình, cho người, chỉ ra cho mình, cho người, cái quí báu nhất ở tự nơi mỗi người, khiến người xem liên tưởng tới những nẻo tắt ngõ quanh của con đường trần gian có quá nhiều gai chông hầm hố ; và mỗi người cần phải chuẩn bị cho mình đầy đủ hành trang để vượt thiên sơn vạn lý về đến nơi mình mong muốn. 

Vở “Mục Liên Thanh Đề” là bài học nhắc nhở mọi người đừng nghĩ điều xấu, đừng mở miệng nói lời ác độc, đừng làm việc ác như ngườâi mẹ u mê đối với các tỳ kheo, đồng thời nhắc nhở mọi người về lòng hiếu thảo của một vị bồ Tát dành cho mẫu thân, người cho mình thịt xương trí não. Ngài xả thân cầu đạo, dốc lòng tinh tấn kiên trì khiến các tỳ kheo, các vị Bồ tát, Trời, Người cảm động. Ngài nhất quyết cứu mẹ dù biết rằng mẹ mình có lầm lỗi. 

“Quan Âm Diệu Thiện” là tấm gương sáng ngời của một công nương lá ngọc cành vàng, chịu oan uổng, chịu bị hành hạ khổ sở để cứu nhân độ thế. quan trọng hơn nữa là tấm lòng hiếu thảo muốn giác ngộ thân sinh vốn là một vị vua kém hiểu biết về Phật pháp. Bà đã hoán cải được vua cha bằng lòng nhẫn nhục, đức hy sinh của mình, và đã trị quốc, an dân bằng lòng bao dung nhân từ độ lượng của một vị cha già. Chủ đề tư tưởng của vở thấm nhuần tinh thần từ bi trí tuệ của đạo Phật. Nhắc nhở trong mỗi con người có sẵn tánh Phật; và, đạo Phật là biểu hiện tuyệt vời của tự do và dân chủ. Đức Phật đã từng nói chính bản thân mỗi người phải hiểu biết chính xác sự việc đó là tốt đẹp thiện lương, lúc bấy giờ hãy tin thọ và phụng hành. Qua hành động cao đẹp hy sinh vì mọi người của ni cô Diệu Thiện mà vua cha thấy được lỗi lầm của mình và tự giác trở thành vị vua tốt, người cha hiền. 

Ở vở “Quan Âm Thị Kính”, từ những giây phút đầu, tác giả khiến người xem cảm kích trước tấm tình chung thủy và lòng kính trọng của người vợ dành cho chồng mình, lònghiếu đễ của một cô con dâu ngoan hiền thảo ngay, một mực thương yêu chìu chuộng, dâng cơm dời nước, cung phụng đầy đủ cho người mẹ chồng lúc nào cũng mang lòng hằn thù đối với nàng dâu. Vào phút cuối, người xem cảm kích kính phục lượng từ bi cao cả của vị Bồ Tát nhận hết về mình vô vàn đau thương tủi nhục để làm tấm gương sáng rực soi tỏ đức hiếu sinh với đời, giúp con người có cơ hội quay về với chánh pháp. Hai trong số nhiều vở viết về lịch sử đức Phật như “Phật nhập Niết bàn”, “Thích Ca đắc đạo”... của gánh Tân Thinh vào những năm 30, và mới gần đây được đưa lên phim ảnh... tuy chưa phải là một tác phẩm đạt chất lượng nghệ thuật như mọi người mong muốn, nhưng dù sao cũng là những tác phẩm giúp cho công chúng khán giả tiếp cận với giáo lý của đức Phật một cách đơn giản, dễ hiểu và hấp dẫn.

Người xem có dịp nghe, thấy kể lại con đường đi tìm sự giác ngộ của một người được sinh thành như bao người, có nhiều phước báo thế gian hơn bao người, nhưng can đảm từ bỏ những phương tiện vật chất quí giá, ly gia cắt ái, đội nắng che mưa, áo mỏng thân gầy, nhịn ăn nhịn mặc, nhịn đói nhịn khát, kiên nhẫn miệt mài cho đến khi sở nguyện đạt thành đem lợi lạc cho nhân loại trải suốt mấy ngàn năm nay. Tuy nhiên, từ thập niên 60 trở lại đây, trong một số vở cải lương có đề tài PG, người xem chưa đồng tình với cách luận giải thiếu nghiêm túc, chính xác bởi một số tác giả không có điều kiện nghiên cứu giáo lý PG một cách xuyên suốt, khiến cho cái nhìn PG đôi khi tiêu cực. Nhân vật trung tâm thường khi rơi vào nghịch cảnh, rời bỏ cuộc đời nương về cửa Phật ; do vậy, tính chất giải thoát vốn thuộc về cốt tủy của đạo Phật đã ít nhiều bị sai lạc. 

Sân khấu ĐNÁ, trong đó có VN, có thể nói là sân khấu ít nhiều chịu ảnh hưởng đậm đà màu sắc tôn giáo. Từ Thái Lan, Indonesia, Myanmar, Malaysia, Laos, Campuchia... Hồi giáo, Ấn giáo, đặc biệt là tư tưởng Bi, Trí, Dũng của PG hiện diện trong hầu hết các tác phẩm kinh điển của nhiều loại hình sân khấu dân tộc trong khu vực. Nó như dòng suối nguồn nhân hậu thủy chung chảy giữa lòng các dân tộc, đem ánh sáng mát rượi tươi tắn, ấm nồng, thiện lương đến những vùng đất khô hạn bẩn chật lòng nhân, lan tràn bạo lực. Riêng Lào là quốc gia có nền sân khấu truyền thống đậm đặc sắc màu PG so với các nước bạn trong vùng. Các kịch mục đa phần dành giới thiệu quảng bá một cách ấn tượng năm điều thuộc giới Phật của nhà chùa dành cho Phật tử như không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu nhằm giáo dục người dân Lào sống theo tinh thần PG. 

Sân khấu lễ hội phương Đông vốn dĩ không tách rời hai yếu tố bi - hài mà sân khấu Aristotle nhìn nhận như hai phạm trù riêng biệt. Nó hướng về tinh thần bi kịch lạc quan, do đó có một sự gặp gỡ hồn nhiên giữa nền sân khấu chính thống với tưởng PG bằng lối kết thúc có hậu, đoàn viên, tự tại... Bước hội tụ và phát triển các hệ nhân vật trong sân khấu truyền thống ĐNÁ phần nào tiếp cận một cách hiện thực, trung thành với triết học Phật giáo thông qua sự đa dạng, đa diện của các mẫu - nhân vật, như thần thánh - ma quỷ, minh quân - bạo chúa, quan trung - quan nịnh, người hiền - kẻ ác... như là mối quan hệ biện chứng trong quy luật Sinh, thành, Hoại, Diệt của thế giới con người. 

Chúng ta vui mừng với thành phố ba trăm năm, trong đó thâm sâu cội nguồn văn hóa dân tộc chưa bao giờ bị ngắt quãng ngăn chia, và tinh thần PG đã tự bao đời vốn là một thành tố hiện diện hài hòa giữa cấu trúc văn hóa truyền thống của dân tộc VN cũng ở như các quốc gia ĐNÁ, và sân khấu cổ truyền mang sứ mạng chuyển tải. Cách giáo dục con người của sân khấu dân tộc không xa lạ với tính chất “trực chỉ nhân tâm” như ta thường cảm nhận khi nghiên cứu công án của các vị tổ sư Thiền dùng khai ngộ đệ tử. công chúng tham gia vở diễn vui buồn, thương ghét, căm giận hoặc nức lòng với các nhân vật, vừa thỏa mãn nhu cầu giải trí vừa thấm nhuần tư tưởng tốt đẹp an lành của PG.

Khán giả tự nhìn lại mình không chỉ sống, hoặc phản ứng đơn thuần cái bản năng sinh học, mà qua đó nhân vật có thật, hiện diện ngay trong chính thân mình, những con người đáng yêu quí đáng tha thứ. Với giọt nước mắt, với tiếng cười hồn nhiên, sau khi rời khán phòng, khán giả tự chọn cho mình một thái độ, tự sắm sửa cho mình hành trang cần thiết để tiếp tục dấn thân đảm nhận vai diễn của mình trong vở kịch duy nhất của mỗi đời người. 

Vị trí xác đáng của đạo Phật trong sân khấu truyền thống là hiện thực khách quan, không phải chỉ một triều đại hoặc một thời đại nào đó, mà còn là sự hội nhập các dòng văn hóa thăng hoa sân khấu truyền thống các dân tộc trong khu vực ĐNÁ từ trong quá khứ cũng như trong tương lai. 

Trở lại với lời Phật ý tổ, chúng ta nhận ra rằng do sáu căn đắm nhiễm sáu trần sanh ra sáu thức đã dẫn chúng sanh vào mê lộ luân hồi sanh tử ; thì cũng ngay chính căn, trần, thức này sẽ đưa chúng sanh “phản vọng về chơn”. Như vậy, với tám mươi bốn ngàn pháp môn phương tiện, phải chăng loại hình nghệ thuật sân khấu với nội dung PG đúng nghĩa và hợp thời cũng là một thành tố đặc biệt đáng kể. Và chúng ta có thể thông qua lời ca, tiếng nhạc, bằng hình tượng nhân vật tạo thêm chất liệu xúc tác vào phạm trù Chân, thiện, Mỹ để cảm hóa lòng người. Từng bước nhận ra chân tánh quí báu sẵn có xưa nay của chính mình, đó cũng là một tất yếu biện chứng của tinh thần khế lý, khế cơ của nhà Phật. 

Nên chăng với nhu cầu thưởng ngoạn đồng thời với yêu cầu chuyển tải những giá trị tinh thần đạo đức cho công chúng trong thế kỷ tới đây thông qua cung cách tiếp thị hiện đại, tôi mạo muội đề đạt với các lãnh đạo PG nên đưa loại hình nghệ thuật sân khấu dân tộc thành một bộ môn được giảng dạy chính thức tại các học viện PG khắp ba miền Nam Trung Bắc. Từ đó hình thành những câu lạc bộ giao lưu, biểu diễn, trao đổi nghệ thuật văn hóa dân tộc mang tinh thần PG giữa các vị tu học với công chúng Phật tử trong nước cũng như trong và ngoài khu vực ĐNÁ, nhằm phổ biến, nâng cao sự hiểu biết giáo lý đức Phật bằng nhiều phương tiện, nhiều hình thức phong phú, bằng con đường chánh pháp, dìu dắt những ngườâi thật lòng đến với đạo. Hơn nữa, còn có thể giúp công chúng và nhất là những Phật tử thế hệ trẻ có cơ hội tiếp xúc, học giỏi, hành trì và thâm nhập giáo lý đạo Phật một cách khoa học, vừa hồn niên vừa hấp dẫn, thích hợp với điều kiện sinh hoạt hiện đại của công chúng khán giả Phật tử thế kỷ XXI; sống một cuộc sống trong sáng, trí tuệ, kính Phật, yêu nước, yêu dân tộc, nhớ ơn tổ tiên ông bà cha mẹ, yêu thương con người, gìn giữ, bảo vệ và phát triển môi trường thiên nhiên ngày càng hài hòa, tốt đẹp hơn cho nhân loại. 

Tóm lại, từ những ngày đầu quá trình hình thành và phát triển, các quốc gia trong vùng đã ghi nhận sân khấu truyền thống, cùng với các tôn giáo, đặc biệt là PG, luôn tồn tại gắn bó với nhau. Trong tiến trình giao kết, vai trò của Phật giáo làm chất men thúc đẩy lòng hướng thiện của con người thông qua tác phẩm trên sân khấu truyền thống và người thể hiện trước công chúng. Tư tưởng PG, rõ ràng đã là cái nền vững chắc hỗ trợ sân khấu truyền thống khẳng định tính nhân bản của loại hình trong dòng văn hóa dân tộc. Là hai nếu xét trên bình diện hình thức, phương pháp thể hiện, nhưng nó sẽ không tách rời trước cái nhìn toàn cảnh về mục đích tối cao của con người, ước muốn vươn tới sự hoàn thiện cho cá nhân, cho cộng đồng cũng như nhân loại.«

16-4-1998 
 
 

Hình bóng tín ngưỡng dân gian trong các tự viện ở vùng Sài Gòn-Gia Định
TRƯƠNG NGỌC TƯỜNG

Các chùa cổ ở vùng Sài Gòn-Gia Định đều thờ rất nhiều tượng Phật, Bồ tát và các vị Thiện thần. Có chùa thờ vài ba mươi tượng. Có chùa thờ năm bảy mươi tượng. Đặc biệt nhiều chùa đã hé cửa đón tín ngưỡng dân gian vào, do đó rất nhiều nơi đã xây miếu thờ các vị nữ thần trong khuôn viên chùa. Nhiều chùa trong chánh điện thờ cả Ngọc Hoàng Thượng đế, Nam Tào, Bắc Đẩu, Thập điện Diêm Vương..., kể cả tín ngưỡng Lão giáo. Linh quan Thổ địa vốn là thần tiếp dẫn các đền miếu được biến thành thần tiếp dẫn của các nhà chùa. Quan Thánh Đế quân, một biểu tượng trung nghĩa (1) được người Hoa tôn thờ, đã trở thành thần Già lam, tương đương với đức ông Cấp Cô Độc thế vị thần hộ trì ngôi Tam bảo ở miền Bắc. Trong số các vị thần, các vị Bồ tát hay các vị Phật, chúng ta chú ý đến Linh Sơn Thánh mẫu, Giám Trai sứ giả, Ngũ Hiền vì mang tính đặc thù hơn cả.

A.- Linh Sơn Thánh mẫu

Linh Sơn Thánh mẫu còn gọi là Bà Đen, nữ thần núi Một tức núi Điện Bà ở Tây Ninh. Sự tích Linh Sơn Thánh mẫu rất ly kỳ, do nhân gian gán ghép mà có bóng dáng như một nhân vật lịch sử và dính líu với hệ thống chùa chiền dòng Lâm Tế Liễu Quán. Theo Đại Nam nhất thống chí, từ xưa tại núi Một đã có một điện thờ Bà Đen nên núi này mới có tên là núi Điện Bà. Đến năm Tự Đức thứ 3 (1850), núi Điện Bà được chính thức đặt tên là Linh Sơn và được ghi vào “tự điển” (2); có lẽ sau giai đoạn này, Bà Đen mới có danh hiệu Linh Sơn Thánh mẫu.

Linh Sơn Thánh mẫu là thần phù hộ xóm ấp, được nhân gian lập miếu thờ khắp vùng Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Sài Gòn, Tân An và Mỹ Tho. Nhiều cơ sở tín ngưỡng như đền Ấn Độ (ở đường Trương Định, quận 1), chùa Linh Sơn (đường Cô Giang, quận 1) đều được xây dựng trên nền cũ miếu Linh Sơn Thánh mẫu. Hiện chùa Linh Sơn cũng lấy hiệu cũ.

Theo các nhà nghiên cứu, Linh Sơn Thánh mẫu được xem như nữ thần hộ tự có thể bắt nguồn từ Dei Khmao (tức Bà Đen) của Phật giáo Khmer, nên hai vị thần này tuy danh xưng khác nhau mà chức năng giống nhau.

B.- Giám Trai sứ giả

Giám Trai sứ giả là vị Bồ Tát quản lý việc ăn uống trong Tăng đoàn, do đó các chùa Bắc tông chỉ thờ Giám Trai như một biểu tượng. Ở miền Trung, Giám Trai sứ giả là “Đại Thánh Câu Ma La Vương” (xem lại sự tích). Riêng tại Sài Gòn-Gia Định, Giám Trai sứ giả (còn gọi là ông Giám) là một biểu tượng dân dã hơn.

Về mặt nghệ thuật tạo hình, hình tượng Giám Trai sứ giả chưa thống nhất theo một chuẩn mực, các tượng thì bằng đất sét thô hoặc bằng gỗ làm từ thế kỷ trước, hình dáng chất phác. Tượng Giám Trai ở chùa Giác Viên (quận 11) bằng đất nung là hình tượng nhân vật Sa Tăng trong truyện Tây du là tác phẩm đặc biệt. Những tượng thờ gần đây thường làm theo hình dáng của một anh nông dân lao động : đầu vấn khăn, áo phạch ngực, chân mang dép rơm theo kiểu Nhật Bản. Một điểm ai cũng có thể thấy rõ là các ông Giám vùng Biên Hòa, Thủ Đức, Thủ Dầu Một (do gần rừng) nên thường xách rựa quéo đốn cây. Còn các ông Giám vùng Sài Gòn, Mỹ Tho, đổ xuống miền Tây (ở vùng đồng bằng) nên thường xách búa bửa củi.

Giám Trai Nam Bộ thường được thờ ở nhà trù, mang chức năng của một vị thần quản tự, kiêm chức năng của Táo quân. Chỉ khi có trai đàn chẩn tế cô hồn, Giám Trai sứ giả mới trở lại chức năng truyền thống. Có câu đối thờ Giám Trai sứ giả như sau:

Phật lực vô biên, phàm thực biến thành pháp thực

Pháp môn vô lượng, hỏa trù hóa tác thiên trù

(Phật lực vô biên, phàm thực biến thành pháp thực

Pháp môn vô lượng, bếp trần chuyển hóa bếp trời)

Theo truyền thuyết Nam Bộ, Giám Trai là một nông dân làm công quả trong chùa. Anh ta ở chùa nhiều năm nhưng không biết kinh kệ, vì “dốt đặc cán mai”, chỉ có sáu chữ Di Đà mà quên trước nhớ sau, quên sau nhớ trước. Nhưng anh ta vẫn thành chánh quả vì có lòng tin thể hiện qua công việc của mình. Có thể nói, đây là một Bồ tát của người dân Nam Bộ.

C.- Ngũ Hiền

Ngũ Hiền là hình tượng các vị Bồ tát Phổ Hiền cưỡi bạch tượng, Bồ tát Văn Thù cưỡi thanh sư, Bồ tát Quan Âm cưỡi kim hẩu, Bồ tát Đại Thế Chí cưỡi bạch hổ. Đây là bộ Tây phương Tam thánh kết hợp Hoa nghiêm Tam thánh, vừa thể hiện từ, bi, trí, hạnh nguyện của Phật giáo (PG), vừa thể hiện tinh thần kết hợp thiền tịnh của Phật giáo Nam Bộ. Như thế, tượng vị Phật đang ngồi trên mình sư tử thuyết pháp giữa bốn vị Bồ tát vừa kể là Phật Thích Ca vừa là Phật Di Đà.

Một số chùa thờ Ngũ Hiền bằng tượng, còn đa số thờ bằng sám bài (3). Thường ngày, bộ sám bài ấy thường đặt trước hương án, nhưng khi cần thiết, tháo rời chân để chuyển đến các lễ hội trai đàn theo yêu cầu của xã hội. Về mặt tạo hình, hình tượng Ngũ Hiền rất phong phú, các tượng thờ hoặc sám bài gần đây thường làm theo quy ước truyền thống, có thể nhận dạng rõ ràng. Trái lại, các tác phẩm có niên đại xưa thường là theo sự tưởng tượng của từng cá nhân. Thí dụ như ở chùa Vạn Đức (Q. Bình Thạnh), các vị Bồ Tát trên sám bài thể hiện các đạo sĩ, mình mặc đạo bào, tóc búi cao, chân đi giày cỏ. Khác lạ hơn tượng các Bồ Tát Ngũ Hiền ở chùa Phụng Sơn (Q. 11) là hình tượng các nhà sư đầu tròn áo vuông. Đặc biệt nhất ở chùa Giác Viên (Q. 11), chùa Giác Hải (Q. 6) và một số chùa ở miền Tây, cũng các vị Bồ Tát vừa kể lại thể hiện các vị võ tướng, đầu đội kim khôi, chân đi hia, mình mặc giáp, ngoài khoác chiến bào. Gặp trường hợp như thế thì không thể nào nhận diện được.

Một số nhà nghiên cứu cho biết, bộ tượng Ngũ Hiền là bộ tượng theo khuynh hướng “cứu thế”, đặc biệt chỉ xuất hiện ở Nam Bộ (4). Nguồn gốc bộ tượng này bắt nguồn từ bộ truyện Phong thần hồi thứ 82. Theo đoạn truyện này, Linh Quy Thánh mẫu xuống trần kéo bọn Xiển giáo lập trận Vạn Tiên để giúp Trụ chống Châu. Phe Triển giáo phải cầu thỉnh Nhiên Đăng đạo nhân (nên hiểu là Phật Thích Ca), Tiếp Dẫn đạo nhân (Phật A Di Đà), Từ Hàng đạo nhân (Bồ tát Quán Thế Âm), Phổ Hiền chân nhân (Bồ tát Phổ Hiền), Văn Thù Quảng Phát Thiên Tôn (Bồ tát Văn Thù) xuống trần phá trận, giúp chánh nghĩa diệt tà đạo. Cuối cùng, bọn Linh Nha tiên, Cù Thủ tiên, Kim Hoa tiên... đều bị thu phục, biến thành con vật cưỡi cho các vị Bồ tát. Chỉ riêng có Định Quang tiên vốn lòng chơn thiện nhưng bị đồng bọn lôi kéo, đã bỏ chạy trước khi lâm trận. Ngài tìm nơi tu hành thành chánh quả. Đại hùng đại lực của Định Quang tiên thể hiện là một vị Bồ tát chế ngự một con cọp trắng. Bộ tượng này xuất hiện trong giai đoạn bị ngoại bang đô hộ chắc có nguồn gốc của nó.

Tóm lại, ở vùng đất Sài Gòn-Gia Định tuy mới khai phá nhưng cũng có quan niệm “Tam giáo đồng nguyên” như các vùng khác. Hơn nữa, các vị Tổ sư tiền bối đã theo quan niệm “dĩ huyễn độ chân”, hé cửa cho tín ngưỡng dân gian vào chùa, cho thích hợp với tâm lý những người bình dân lao động hầu dẫn dắt họ đến chánh pháp của đức Phật. Gần đây, có một phong trào chấn chỉnh cách thờ phượng trong chùa cùng với phong trào trùng tu sơn phết bừa bãi. Suy cho cùng thì phong trào này đã làm hại đến mỹ thuật PG khá nhiều. Một số chùa chưa dám loại bỏ tín ngưỡng dân gian; nhưng tượng thờ xáo trộn vị trí, thờ sai chức năng thì càng nguy hiểm hơn nữa. Thiết nghĩ, người xưa đã “dĩ huyễn độ chơn” thì chúng ta ngày nay phải “lấy chơn độ huyễn”. Việc loại trừ những khía cạnh không còn thích hợp là điều tất yếu. Nhưng trước khi loại trừ phải sàng lọc phân biệt để bảo tồn di sản của tiền nhân.«

____________

(1) Có câu đối thờ Quan Công như sau:

Hán phong hầu, Tống phong vương, Minh phong đại đế

Nho xưng Thánh, Thích xưng Phật, Đạo xưng Thiên Tôn

(2) Tự điển: Sách ghi chú các sông núi danh thắng trong nước (tượng trưng sơn hà xã tắc) được triều đình cúng tế.

(3) Sám bài: Bình phong đặt trên bàn thờ (bài: bình phong nhỏ, sám: bái lạy)

(4) Chúng tôi thấy tại miền Trung chỉ có chùa Bửu Phong ở Ninh Hòa (Khánh Hòa) có bộ sám bài Ngũ Thừa như các chùa ở Nam Bộ. Chùa Bửu Phong có cùng nguồn gốc với chùa Đại Giác ở Biên Hòa.
 
 
 

Vài nhận xét về sự thay đổi khuynh hướng trong nghi lễ và trong phương pháp tu tập của đạo Phật Việt Nam
 
 

CHƠN QUANG 

Một đặc tính đáng ca ngợi của đạo Phật là khả năng thích ứng với hoàn cảnh. Trên nền tảng Tứ diệu đế, khi đi vào quốc gia, đi vào từng thời đại, đạo Phật luôn có những sự biến hóa, sự phát triển, sự dung hợp với các tập quán, tư tưởng lúc bấy giờ. Chính sự thích ứng này khiến cho đạo Phật gắn bó mật thiết với xã hội và trở nên ích lợi cho cộng đồng. Một nguyên nhân dễ tìm thấy là tinh thần phóng khoáng vô ngã, vô trước đã tạo nên khả năng thích ứng đó. Nếu đạo Phật là một mớ giáo điều cứng ngắc, cố chấp, tự tôn... thì tình trạng cách biệt với xã hội sẽ hiện diện. 

Trong quá trình 300 năm qua, đạo Phật Việt Nam cũng “đi” theo đất nước, xã hội Việt Nam để thích ứng phát triển, và như vậy, đã có nhiều thay đổi. 

1. TRONG NGHI LỄ 

Tôn giáo nào cũng có nghi lễ, và Phật giáo (PG) cũng vậy. Điều dễ thấy là nghi lễ của PG Việt Nam phản ánh rất rõ nét các khuynh hướng văn hóa nghệ thuật đương thời. Thời gian trước, xã hội Việt Nam còn chú trọng chữ Nho trong thi cử và nghệ thuật, thì hầu như toàn bộ kinh tụng của PG cũng đều sử dụng chữ Nho. Người xuất gia vào chùa học bốn quyển luật đều bằng chữ Nho. Thời khóa tụng hằng ngày hầu hết bằng chữ Nho. 

Như vậy, ta có thể đánh giá là đạo Phật thời bấy giờ có lẽ “độc quyền” nằm trong tay tu sĩ với một số người trí thức, nhất là những nhà Nho về già đều có khuynh hướng ngả sang đạo Phật như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ... 

Các tín đồ bình dân thì ít tham gia nghi lễ. Mỗi khi hữu sự họ đều thỉnh quý thầy cô về tụng niệm giúp. 

Trong nghi lễ PG, hình thức tán tụng ngân nga từng chữ được ưa chuộng, được xem là trang trọng. Mỗi miền đều có giai điệu đặc thù theo giọng nói của địa phương. Nếu không thuộc trước đoạn kinh, chúng ta sẽ không biết người kia tụng tán cái gì. 

Trong giai đoạn cuộc cách mạng PG do Thái Hư Đại sư bên Trung Hoa phát động vào những năm 30 - 40 - 50, thì ở Việt Nam, đáp ứng với cuộc cách mạng đó, các Hòa thượng khởi xướng phong trào “chấn hưng PG”. Lúc này PG Việt nam bắt đầu được “quần chúng hóa”. Các Hòa thượng mở mang các trường Phật học, chỉnh đổi một số nghi thức để cho nhiều người có thể tiếp cận với giáo lý đạo Phật. 

Lúc này các bài kinh được tụng theo một lối cách điệu gần với âm nhạc dân gian địa phương. Giọng tụng Huế gần với hò Huế - giọng tụng Sài Gòn gần với vọng cổ. Đặc biệt là nhiều bài sám thuần Việt được đưa vào nghi thức để các tín đồ Phật tử có thể hiểu được các đạo lý đơn giản. Riêng ở miền Nam xuất hiện hệ phái Khất sĩ do ngài Minh Đăng Quang sáng lập thì ngay từ đầu đã dùng tiếng Việt làm nghi thức tụng niệm. 

Ngày nay đạo Phật cũng theo khuynh hướng của thời đại mà “phổ thông hóa” và “đại chúng hóa”. 

Khắp nơi thay vì chú trọng nghi lễ, người tín đồ đòi hỏi được nghe thuyết pháp giảng kinh bằng tiếng Việt, bằng giọng nói bình thường, nghi lễ vẫn còn được chú trọng nhưng đó đây nhiều ý đòi hỏi phải “Việt hóa” các nghi lễ đó. 

Không những chỉ Việt hóa nghi lễ, chúng tôi còn cầu mong ban nghi lễ của Giáo hội PG Việt Nam ta sớm chế ra một nghi thức chung, dành cho các buổi lễ lớn có nhiều tín đồ các hệ phái tham dự, như lễ Phật đản sanh, lễ Vu Lan, để mọi người tham dự buổi lễ đều có thể tụng đọc được và hiểu được ý nghĩa những điều mình đang tụng đọc. 

2. PHƯƠNG PHÁP TU TẬP

Đại bộ phận của PG Việt Nam là Bắc tông nên chịu ảnh hưởng của PG Trung Hoa. Chúng ta có thể nói khái quát là: PG Việt Nam có ba tông phái chính: Thiền tông, Tịnh độ và Mật tông. 

Những bậc tông sư của các tông phái bên Trung Hoa thì giữ gìn bản sắc tông phái của mình một cách cứng rắn, ít chấp nhận đường lối của tông phái khác. Có lẽ nghi thức sinh hoạt cũng có nhiều điểm khác biệt. Nhưng từ khi Quốc sư Ngọc Lâm đầu nhà Thanh ra lệnh các chùa phải áp dụng hai thời khóa tụng thì nghi thức các tông phái mới giống nhau. Hai thời khóa đó là sự pha trộn tư tưởng của ba tông phái. Các bài chú của Mật tông, các kinh Di Đà của Tịnh độ tông, các kinh Bát Nhã tiêu biểu cho Thiền tông. 

Mục đích cứu cánh của ba tông phái có lẽ không khác nhau, nhưng trên lập trường, ba tông phái có ba chủ trương khá khác biệt. Mật tông chú trọng sự linh ứng; Tịnh độ Tông hy vọng vào đời sống tốt đẹp ở cõi Phật, Thiền tông tìm kiếm sự giác ngộ Phật tánh nơi chính mình! 

Cả ba tông phái đều đòi hỏi khả năng chuyên chú định tâm. Và khi định tâm được thì cả ba lại khá giống nhau ở nhiều điểm. 

Ba trăm năm qua, dường như cả ba tông phái đều song song tồn tại nơi Phật giáo Việt Nam, nhưng Tịnh độ tông chiếm ưu thế hơn cả. 

Chúng ta vẫn còn nghe các giai thoại về các vị chứng ngộ gần đây như ngài Bảo Tạng ở núi Kỳ Vân - Long Hải, ngài Bảo Chơn ở núi Gia Lào - Long Khánh..., rất nhiều vị khác tuy chưa chứng đắc cao tột nhưng vẫn có kết quả tâm linh đặc biệt mà quần chúng chung quanh ca ngợi truyền tụng. Tiếc là chúng ta ít có tài liệu ghi chép, chỉ nghe kể mỗi khi đến tận địa điểm. 

Điều rất lạ là phong cách siêu thoát của các vị đó đều như là Thiền tông, những thần thông khởi xuất giống như Mật tông, nhưng lời nói của các vị thì lại là... kêu mọi người niệm Phật! 

Gần đây nhất như hai Đại lão Hòa thượng Tăng thống Thích Tịnh Khiết và Thích Giác Nhiên. Cả hai vị vừa uy nghiêm vừa siêu thoát như Thiền, nhưng cũng chỉ xiển dương Tịnh độ. Đại lão Hòa thượng Pháp chủ Thích Đức Nhuận lại là người truyền thừa dòng thiền Tào Động. 

Có lẽ vì các Hòa thượng thời cận đại, khi khởi xướng phong trào chấn hưng PG, có truyền thống Tịnh độ tông nên PG Việt Nam bấy giờ cũng mang sắc thái Tịnh độ tông, tuy có pha lẫn Mật tông. Các Tăng Ni cũng như Phật tử xem việc tụng kinh nhiều là công đức, xem việc niệm Phật là lối tu cốt lõi. 

Gần đây, bỗng nhiên phong trào tu tập thiền định trở nên mạnh mẽ vì được một số vị có uy tín trong cũng như ngoài nước tuyên giảng. Như Hòa thượng Thích Thanh Từ chủ trương khôi phục Thiền tông Việt Nam đời Trần, Hòa thượng Thích Minh Châu phổ biến phương pháp Thiền từ kinh điển Nikaya. Các vị sư Nam tông hướng dẫn lối Thiền “Minh Sát Tuệ”. Có những vị thầy ở nước ngoài còn sáng tạo thêm khá nhiều phương pháp mới lạ nữa. 

Tất cả đều đi tìm sự thanh tịnh của nội tâm bằng nhiều phương pháp. 

Giới Phật tử, do sự tăng tiến trình độ tri thức, cũng trở nên hâm mộ tu tập thiền định vì thấy có nhiều triết lý cao siêu hơn là cứ lặng lẽ niệm Phật chờ chết rồi được vãng sanh. 

Song song với sự thay đổi khuynh hướng tu hành, các chùa, các Phật tử cũng trở nên hăng hái làm việc từ thiện nhiều hơn. Từng đoàn cứu trợ đi vào những nơi thiên tai nghèo khó, vào các bộ tộc ít người vô cùng sơ khai xa cách. Những Tuệ Tĩnh đường, các lớp học tình thương, cơ sở nuôi trẻ khuyết tật mồ coi... xuất hiện càng nhiều. Nhiều tự viện tham gia trồng giữ rừng theo chủ trương bảo vệ môi trường của nhà nước. 

Khi mà sự tu tập nội tâm được kết hợp với các hoạt động từ thiện, ta có thể xem đường lối của PG như vậy là hoàn hảo. Tuy nhiên còn một vài điểm cần bổ sung để đạo Phật đường hoàng đi vào thế kỷ mới. 

3. HỌC VÀ TU KẾT HỢP

Vì các Hòa thượng trong giai đoạn đầu chấn hưng PG chỉ chú trọng gấp rút mở các lớp học giáo lý nên tạo thành truyền thống các trường Phật học về sau không có chương trình giảng dạy thực hành tu tập. Các Tăng Ni sinh chỉ được truyền đạt kiến thức rồi ra làm việc. Vì vậy họ ít có nội lực để chống đỡ những cám dỗ của thời đại kỹ thuật mà tiện nghi vật chất vô cùng phong phú. Đó đây râm ran xuất hiện các lời than phiền về sự xuống dốc tư cách đạo đức của Tăng Ni. Đây là điểm mà Giáo hội cần lưu tâm. 

Càng về sau khoa học kỹ thuật càng tiến tới với tốc độ chóng mặt, con người, kể cả người tu, dễ bị mất quân bình giữa đời sống vật chất và đời sống tâm linh. Hơn bao giờ hết, chúng ta phải để thêm nhiều công sức vào sự thực hành tâm linh để giữ lại sự cân đối cho thời đại và cho Phật pháp. 

4. SỰ HỖ TRỢ

Vừa rồi có một bài đăng trên báo Giác Ngộ cho rằng chỉ thấy các tà áo tu sĩ dập dìu nơi cúng dường trai tăng mà không thấy tà áo nào lang thang về vùng sâu vùng xa để giáo hóa. 

Đó là thực trạng. Cả tu sĩ PG cũng bị khuynh hướng “đô thị hóa”, là cứ dồn cả thành phố mà bỏ rơi các miền quê nghèo nàn hẻo lánh. 

Có hai lý do: 

Một là Tăng Ni sinh không được khơi dậy lý tưởng mang Phật pháp đi về nhưng nơi xa xôi nghèo khổ. Trong khi học ở trường, không ai dạy cho họ điều này cả. 

Hai là nếu có người phát tâm đi về nơi xa vắng đó thì họ không được sự hỗ trợ của tổ đình hay của Giáo hội. 

Người dấn thân vào các làng quê hẻo lánh thì phải được sự hỗ trợ cả vật chất lẫn tinh thần mới có thể làm việc. Nếu tự mình đơn độc lo lấy miếng ăn cái mặc, họ sẽ không còn thì giờ và sức lực để giáo Phật pháp. 

Xin các vị tôn túc lưu tâm vấn đề này. 

KẾT LUẬN 

Chúng ta nhìn lại lịch sử để chuẩn bị cho tương lai, vì quá khứ thì không còn thay đổi được nữa. Trách nhiệm của chúng ta là xây dựng một tương lai mới đầy tốt đẹp cho Phật pháp; trong đó, sự hòa hợp đoàn kết giữa các tông phái, tính thực tế trong nghi thức sinh hoạt, đạo đức của Tăng Ni, sự thực hành tu tập tâm linh, và sự hỗ trợ cho những người dấn thân giáo hóa ở những miền hẻo lánh cần phải được phát triển mạnh mẽ.«
 
 
 

Tình sông nghĩa biển 

(điểm qua những bước của thi ca Phật giáo Gia Định-Sài Gòn-TP Hồ Chí Minh)
 
 

HẠNH PHƯƠNG 

Việt Nam và Phật giáo 

Phật giáo và Việt Nam 

Ngàn năm xương thịt kết liền 

Tình sông nghĩa biển mối duyên mặn nồng. 

Những câu thơ này của nhà thơ Trụ Vũ đã nói lên được tính chất keo sơn cố kết của Phật giáo (PG) Việt Nam với quê hương đất nước. Truyền thống keo sơn ấy đã được phát huy tốt đẹp suốt chiều dài lịch sử tiến hóa của dân tộc ta, đặc biệt trong quá trình Nam tiến từ 3 thế kỷ trước. 

Theo bước lưu dân Thuận-Quảng mở mang bờ cõi phương Nam, ngay từ thuở ban đầu đã có những thiền sư với tấm áo nâu sồng đạm bạc, với tấm lòng từ bi nhân ái, thương người như thể thương thân đến đây, đồng cam cộng khổ với nhân dân trên vùng đất mới. 

Những thiền sư Việt Nam phát tích từ Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam... và cả những thiền sư người Hoa phát tích từ lục địa Trung Quốc, đã trở thành những người bạn tình thân thiết của đám dân hiền. Có thể họ là một ông thầy châm cứu, chích lể, cho thuốc nam. Có thể họ là một nông dân đổ mồ hôi trên nương trên rẫy làm ra hạt lúa hạt bắp, san sẻ khó khăn với mọi người dân. Ban sơ các thiền sư chỉ dựng những am cốc tạm trú thân tu học. Dần dần những am lá đơn sơ ấy đã biến thành những già Lam phạm vũ. Khi Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam 1698, nhận chức Kinh lược, thực sự vùng đất Sài Gòn-Gia Định hiện nay đã có những ngôi đại tự được dựng xây, với tư thế trầm lắng uy nghi muôn thuở. 

Thiền sư Phật Ý khai sơn chùa Từ Ân (1744) ; cư sĩ Lý Thoại Long lập chùa Giác Lâm, sau đó cung thỉnh thiền sư Viên Quang trụ trì. Thiền sư Pháp Nhân khai sơn chùa Thiên Trường (1755). Thiền sư Đạt Bổn lập chùa Kim Chương (1756). Thiền sư Toàn Tánh lập chùa Tập Phước. Có những ngôi cổ tự tồn tại từ thuở ấy đến nay. 

Có những ngôi chùa hôm nay chỉ còn tìm thấy bóng dáng trong tư liệu văn học, trong những bài thơ ngân vịnh ví dụ như chùa Ân Tôn, tức chùa Gò Cây Mai ngày nay, chỉ còn thấy bóng dáng nó ẩn hiện trong thơ Trịnh Hoài Đức: 

Cửa cao thanh sạ bá vu thiên 

Chuyển hướng Mai khâu hảo khế miên 

Chín tầng tiếng hạc vẳng lưng trời 

Đổi hướng Gò Mai đến ngủ ngơi. 

(Mai Khâu Túc Hạc - Nguyễn Khuê dịch)

Chùa Hội Sơn tức Khánh Long, nay thuộc xã Long Bình, huyện Thủ Đức, một thuở xa xưa đã từng có một du khách làm thơ ca ngợi: 

Tiêu sơ lãnh thọ quải tà dương 

Bộ nhận khuê nham phỏng đạo trường 

Chữ dánh vô yên sào hạc tỉnh 

Khả liên thiền vị chính khê lương 

(Khuyết danh) 

Tiên sơ mây núi bóng tà dương 

Khe đá vào chơi cảnh đạo trường 

Hạc ngủ đun trà không chút khói 

Mùi thiền phảng phất mấy thanh lương 

(Hạnh Phương phỏng dịch) 

Có lẽ tự ngàn xưa, hình bóng ngôi chùa đã hằn in đậm nét lên tâm thức người Việt Nam. Mái chùa che chở hồn dân tộc. Mái chùa là chốn là quê, là nơi thanh thoát ta về trụ tâm. Mái chùa tổ ấm gia đình, cho ta với bậu bắc niềm cảm thông. Mái chùa là chốn thong dong, cho ta rũ sạch bụi hồng về thăm. Và có lẽ tự ngàn xưa, mái chùa là nơi tao nhân mặc khách tới lui tìm nguồn thi hứng, gặp gỡ tri giao, khơi nguồn cảm xúc. 

Mái chùa Việt Nam, với những ông thầy tu đạo Phật Việt Nam; 

Ôi! hình bóng một vị thiền sư sao mà từ hòa nhã đạm, sao mà thanh thoát oai nghiêm. Tấm áo nâu sồng bình dị vải tám vải thô. Bữa ăn bát cơm hạt muối nắm rau. Nhưng cao cả thay là một tấm lòng. Họ ở lẫn giữa nhân dân. Họ trộn mình với quần chúng. Họ san sẻ vui buồn với bất cứ ai. 

Chỉ Sơn Trịnh Hoài Đức nhân buổi nhàn hành, viếng chùa Giác Lâm, gặp người bạn cũ ấu thời, nay đã là một vị thiền sư. Chính là thiền sư Viên Quang trụ trì chùa ấy. Ông bàng hoàng cảm xúc nhã tặng một bài thơ ngũ ngôn cổ phong: 

Ức tích thái bình thì 

Lộc đổng phượng thịnh mỹ 

Thích Ca giáo hưng sùng 

Lâm ngoại tổ phú quý 

..... 

Bình ngạnh nhậm phù trầm 

Bào ảnh đẳng sanh tử 

Yểm tứ thập dư niên 

Hoảng thuấn tức gian sự 

..... 

Ngã hiệp biện trấn công 

Sư đại hòa thượng vị 

Chấp thủ nghỉ mộng hồn 

Đàm tâm tạp kinh quý 

Vãng sự hà túc luận 

Đại đạo hợp như thị 

* * * 

Nhớ xưa thời thái bình 

Đất Đồng Nai thịnh mỹ 

Đạo Phật được hưng sùng 

Nhà ngoại thêm phú quý. 

..... 

Ta trôi nổi vào ra 

Bọt bèo biển sanh tử 

Mới đó bốn mươi năm 

Chớp nhoáng chuyện thế sự. 

..... 

Ta hiệp biện trấn công 

Sư cao tăng thượng sĩ 

Nhắc lại chuyện ngày qua 

Tâm cùng tâm tương nghị 

Chuyện xưa nói sao cùng 

Đại đạo vốn như thị. 

Chỉ Sơn Trịnh Hoài Đức (Nguyễn Lang dịch) 

(lược trích từ VNPGLS tập 2 NXB Văn Học - HN, 1992, trang 331) 

Từ những bước chân khai phá ban đầu, đến thời điểm ấy, rõ ràng PG đã cắm sâu cội rễ trên vùng đất Gia Định-Sài Gòn. Tiếp tục bước chân hoằng hóa của các thiền sư đi trước, các thiền sư thế hệ sau cũng đã về đây trụ tích. Thiền tông nơi đây đã có mặt các dòng phái lớn Tổ Đạo, Bổn Nguyên, Chúc Thánh, Liễu Quán. Và sinh hoạt PG đã góp phần làm cho khuôn mặt văn hóa của vùng đất Gia Định-Sài Gòn phong phú, đa dạng. 

Đến những năm Pháp xâm lược Nam Kỳ, chính trên mảnh đất Gia Định đã dấy lên phong trào chư Tăng dấn thân tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Đó cũng chính là giai đoạn phát sinh dòng thi ca yêu nước trong dòng thi ca PG Gia Định-Sài Gòn. 

Giở trang lịch sử mà coi 

Từ năm ba sáu, bốn mươi thuở nầy 

Là thời mưu sự đánh Tây 

Trong hàng tu sĩ có thầy Pháp Linh 

Từ xa thầy đến giảng kinh 

Còn có Thiện Chiếu đồng tình cả hai 

..... 

Lòng ta đã quyết hi sinh 

Trước sau ta cũng đinh ninh một lời. 

Thích Bổn Châu (Việt Nam anh kiệt) 

Công cuộc vận động chấn hưng PG trên toàn quốc, từ những năm 1920 trở về sau, thực sự đã đem đến cho PG Gia Định-Sài Gòn một khuôn mặt mới. Với sự có mặt của các thiền sư Khánh Hòa, Thiện Chiếu, Huệ Quang, Khánh Anh... dấn thân hoằng hóa triệt để thực hiện lý tưởng đem đạo vào đời. PG thực sự xứng đáng có mặt như một thành tố cốt lõi trong khuôn mặt văn hóa đa dạng của mảnh đất Gia Định-Sài Gòn. 

Dòng cảm xúc thi ca bắt nguồn từ tư tưởng, tình cảm lấy đạo Phật làm nền tảng, dùng thi ca diễn đạt ý nguyện đem giáo lý đạo Phật phụng sự cuộc đời, xây dựng quê hương đất nước, xuất hiện như những hoa trái đầu mùa tươi tốt trong quá trình hình thành dòng thi PG nhập thế trên mảnh đất Gia Định-Sài Gòn: 

Tiếng chuông lay bóng Bồ đề 

Con chim cánh trắng bay về Tây thiên 

Mong sao dân tộc bình yên 

Đạo hiền che chở dân hiền thương yêu. 

Tâm Kiên, Phật giáo Việt Nam, số 1, 1956 

Đem tuệ giác Phật đạo soi sáng cuộc đời, đem đạo lý Từ bi phục vụ quần sanh, xây dựng quê hương đất nước, đem lý tưởng bình đẳng phục vụ nhân sinh. Tôn trọng giá trị con người, làm đẹp cho quê hương đất nước ; tất cả những khát vọng ấy, thực đã tạo ra những khuôn mặt mới trên thi đàn PG Gia Định-Sài Gòn. 

Đồng hành với các thi nhân Thiền sư, nhà thơ Trúc Diệp cho ra đời thi phẩm Bóng hoa Đàm, năm Tân Sửu 1961, và theo Huyền Không giới thiệu thuở ấy: “...người ta đã trải chiếu hoa để mời thi sĩ Trúc Diệp” vào nền thi ca PG Việt Nam. 

Chất Phật lưu nhuận trong thơ Trúc Diệp như một bản sắc thuần túy, chơn chất, tinh ròng, không vì hoàn cảnh mà đổi thay, không vì thời gian mà phai nhạt. Ông đã lấy Phật chất đắp nền vững chãi cho lâu đài thi ca của ông. 

Nhận thức qui luật vô thường tác động lên cuộc sống đời người, không vì nó mà khổ đau chán nản. Ông lạc quan bình thản chấp nhận và viết những câu thơ để đánh động, để tỉnh thức những ai đã vì nó mà trầm kha trong đau khổ. 

Hỡi ai tìm được cái ta 

Ấu thơ vú mẹ, nua già gậy ông 

Bốn bề Nam, Bắc, Tây, Đông 

Hỏi ai tắm một khúc sông hai lần. 

Thuyền về bến cũ (trang 12)

Ngợi ca Khánh đản của đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni, ông đã nhìn thấy sự đản sanh của đức Phật là Khánh đản một loài hoa. Một đóa hoa cao quí nhất giữa vườn đời: 

Cũng hôm này, trên hai nghìn năm trước 

Khắp vườn trời nhẹ thoảng một mùi hương 

Hoa, không riêng mà chung cả mười phương 

Đã nở với lòng thương đầy nhân loại 

Hoa không rụng, thời gian không thể hái 

Hoa miên trường rắc mãi nét xinh tươi 

... ... ... 

và hôm nay được tắm ánh hào quang 

Của hoa gởi cho trăm ngàn thế hệ 

... ... ... 

Trong sạch quá! Nên đài hoa xán lạn 

Mấy nghìn năm hình dáng của mùa hoa 

Mà hôm nay ban khắp cõi Ta Bà 

Với tất cả hằng sa nguồn diệu dụng 

Bóng hoa Đàm (trang 11) 

Khí chất thơ ông trang nghiêm thanh khiết, tâm hồn và cảm xúc thơ ông vươn tới tầm cao chân trời giác ngộ. Ông đã vì cuộc đời, vì con người mà kiến tạo một mùa xuân giải thoát, một mùa xuân vĩnh cửu. Mùa xuân của và cho những ai đã đến bờ bên kia. Cũng có nghĩa cho những ai khát vọng đến bờ bên kia: 

Xuân nơi đây toàn màu sắc hào quang 

Nắng trí tuệ ấm hoa vàng chín phẩm 

Sống ở đấy một chuỗi ngày vô tận 

Xa bốn mùa vì xuân ở chân tâm 

Tháng ngày vui trong pháp vị cao thâm 

Cười giải thoát, trầm ngâm thôi vi diệu 

Xuân không đến bởi xuân hằng tịch chiếu 

Xuân không đi bởi xuân khắp đó đây. 

... ... ... 

Mắt lặng nhìn không giây phút lãng say 

Lòng trong sạch thơ ca vui Giải Thoát. 

Xuân không mùa (Bóng hoa Đàm, trang 13) 

Phong trào chấn hưng PG thực sự đã kết hợp một tổng số thành cho thấy tính cách khắn khít thủy chung của đạo Phật đối với quê hương đất nước. Có những thiền sư vào chiến khu trực tiếp tham gia phong trào kháng chiến, đồng cam cộng khổ với nhân dân, với chiến sĩ cách mạng trên chiến tuyến chống quân xâm lược. Có những thiền sư ở lại vùng địch tạm chiếm thì đã không bao giờ thỏa hiệp với chính quyền bù nhìn phản bội dân tộc ; và những nhà thơ PG, hoặc là thiền sư, hoặc là cư sĩ, đã dùng thi ca chuyên chở lý tưởng đem đạo vào đời, đem đạo Phật phục vụ nhân sinh, đóng góp công sức bảo vệ truyền thống ngàn năm muôn thuở của cha ông. 

Cuộn trong dòng chảy lịch sử dân tộc Việt Nam, dước ách độc tài thống trị của chế độ Ngô Đình Diệm, PG Sài-Gòn Gia Định đã cùng với PG Việt Nam và nhân dân cả nước làm nên một kì tích. 

10 giờ sáng ngày 11-6-1963, Hòa thượng Thích Quảng Đức đã châm lửa tự thiêu tại ngã tư đường Phan Đình Phùng, Lê Văn Duyệt (nay là ngã tư Nguyễn Đình Chiểu, Cách Mạng Tháng 8, thành phố Hồ Chí Minh), với nguyện vọng tha thiết: “Yêu cầu Tổng thống Ngô Đình Diệm nên lấy lòng từ bi bác ái đối với quốc dân và thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo”. 

Ngọn lửa Bồ Tát Quảng Đức làm rung chuyển lương tâm loài người tiến bộ trên khắp cả năm châu. Dư luận quốc tế nhất tề hướng đến Việt Nam, nơi tự do bị tước đoạt, nhân phẩm bị chà đạp, bị thủ tiêu bởi những con người độc tài cuồng tín. 

Vũ Hoàng Chương một nhà thơ lãng mạng, đã thực sự chuyển hướng sáng tác, đã thực sự dùng thi ca làm vũ khí, bước vào lòng cuộc đấu tranh cùng nhân dân, cùng tín đồ PG Việt Nam. Ngay sau khi Hòa thượng Quảng Đức tự thiêu, ông đã viết bài Lửa Từ bi.

Lửa! Lửa cháy ngất tòa sen! 

Tám chín phương nhục thể trần tâm 

hiện thành thơ quỳ cả xuống 

Hai vầng sáng rưng rưng 

Đông Tây nhòa lệ ngọc 

Chắp tay đón một Mặt Trời mới mọc 

Ánh Đạo Vàng phơi phới 

đang bừng lên, dâng lên... 

... ... ... 

Rồi đây, rồi mai sau, còn chi? 

Ngọc đá cũng thành tro, 

lụa tre dần mục nát 

Với thời gian lê vết máu đi qua. 

Còn mãi chứ! còn trái tim Bồ Tát

Gội hào quang xuống tận ngục A Tì. 

... ... ... 

Thổn thức nghe lòng trái đất 

Mong thành quả phúc về cây 

Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật 

Đồng loại chúng con 

nắm tay nhau tràn nước mắt 

Tình thương hiện Tháp Chín Từng xây. 

Ngọn lửa Bồ Tát Quảng Đức làm rúng động lương tâm lương tri loài người yêu tự do trên thế giới thì bài thơ Lửa Từ bi của thi sĩ họ Vũ cũng trở thành thông điệp thi ca kịp thời đọc trước Hội nghị Thi ca Quốc tế họp tại Knokhe từ ngày 5 đến 9 tháng 9/1963 gồm các đại biểu của 50 quốc gia trên thế giới tham dự. Ở Việt Nam, bài gởi đăng trên báo Tự Do, Sài Gòn ngày 28-7-1963 bị kiểm duyệt bỏ trọn. Nhưng sau đó đã được Ủy ban Liên phái Bảo vệ PG, văn phòng chùa Xá Lợi ấn hành bằng ronéo, phổ biến nhân ngày chung thất của Bồ tát Quảng Đức, và âm hưởng bài thơ còn vang dội mãi đến ngày nay, và chắc chắn còn vang dội ở mai sau. 

Sau đó không bao lâu, tập thơ đã được in lại và được thiền sư Trí Quang viết lời đề tựa, trong đó có một ý tưởng cốt tủy: “Thi sĩ không muốn nói gì hơn là nói lên ước vọng sâu xa của dân tộc và sự xây dựng với viễn tượng mà thi sĩ mơ ước: nhân gian mát rượi bóng cây Bồ đề”. 

Năm 1964, nhà xuất bản Lá Bối được thành lập. 

Bạn đọc lại được đọc Hành hương của nhà thơ Trụ Vũ. 

Đọc Hành hương của Trụ Vũ, chúng ta lại thấy tính cách hoành tráng hào hùng của phong trào đấu tranh bất bạo động 1963. Tiếng thơ của Trụ Vũ qua Hành hương, và của Vũ Hoàng Chương qua Lửa Từ bi và sau này nữa là Bút nở hoa Đàm, cho chúng ta thấy quả thực hai nhà thơ là phát ngôn nhân chính thức của một thực thể. Thực thể đó là đạo Phật Việt Nam giữa lòng đất nước, dân tộc Việt Nam. 

Bày tỏ khát vọng đem diệu lực của suối nguồn từ bi xoa dịu đau thương cuộc đời và phụng sự tổ quốc Việt Nam yêu dấu, Trụ Vũ đã viết: 

Chúng ta hãy dựng Phật giáo làm một vạn lí trường thành 

Để bảo vệ cho mẹ Việt Nam yêu quí 

Chúng ta hãy trải Phật giáo làm một lớp cỏ non 

Để che chở cho lớp đất mòn lao lý. 

Chúng ta hãy kết Phật giáo làm một vòng hoa 

Để đặt lên mái cổ trong ngần của người em thế kỷ 

Chúng ta hãy xây Phật giáo thành một ngọn tháp chín tầng 

Để chói rạng nhân phẩm người hùng vĩ 

Chúng ta hãy đắp Phật giáo nên một con đường 

Để cô gái Đông phương đi về chân thiện mỹ. 

Chúng ta hãy (Hành hương, tr. 36) 

Nói lên tính cách thể nhập của đạo Phật trên đất nước Việt Nam, thấm vào lòng đất Việt Nam, ngàn năm hiền hòa, ngàn năm dịu ngọt, ông viết: 

Trên con đường suối đi thăm đời 

Hoa ơi và lá ơi 

Chim ơi và bướm ơi 

Suối chưa bao giờ làm đổ máu người. 

Suối (Hành hương, tr. 16) 

Thơ Trụ Vũ bao giờ cũng thế, thăm thẳm một chiều sâu tư tưởng, bàng bạc một không gian thênh thang cảm xúc. Ngôn ngữ thi ca của ông khác hẳn ngôn ngữ thi ca Nhất Hạnh. Trụ Vũ diễn đạt một chiều sâu tư tưởng bằng một ngôn ngữ nghiêm trang nhưng vẫn rộng mở một ngõ vào. Người đọc dễ dàng thâm nhập vào thơ ông, dễ dàng hiểu được những gì thật sâu lắng phía sau ngôn ngữ nghiêm túc ấy. 

Trong thơ ông có đạo. Vào đạo ông có thơ. Dòng thơ nhập thế, đem đạo vào đời bằng thơ và nâng thơ của mình thành đạo. Có thể nói thơ Trụ Vũ thấm đẫm vị thiền, tràn vào vị giải thoát và lâng lâng niềm an lạc. 

Đọc thiền thi của ông, ta lại thấy tràn vào chất liệu tình yêu. Tình yêu nhân loại, tình yêu bản thể, tình yêu thân phận con người. Dường như với thơ, qua thơ ông là kẻ đã vượt bờ; nhưng chẳng phải vượt bờ cho chỉ riêng ông mà là cho cả loài người: 

PHÁP 

Ưu đàm nở trong xương 

Bồ Đề phơi giữa tủy 

Vũ trụ còn nhân loại 

Đỉnh trầm còn lên hương 

Mà dù em có chết 

Liên hoa vẫn nở hường. 

(Hành hương, tr. 86) 

Đến Thơ Mai do Nhà xuất bản Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, xuất bản 1997 ta lại càng thấy rõ hành trình từ thơ đến đạo, trong đạo có thơ của ông. 99 bài thơ có một chủ đề duy nhất nói về hoa mai, thế mà ông đã cho ta thấy chỉ một loài hoa ấy thôi, qua thơ, nó bỗng như thiên biến, vạn hóa, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc. Đọc bài số 45, là bài thơ chỉ có hai câu, chúng ta đã thấy được đỉnh cao nghệ thuật thiền thi của nhà thơ này 

Một thoáng mai thị hiện 

Ba đời xuân tái sinh 

(Bài số 45) 

Có một nhà thơ, chỉ làm thơ cộng tác với các tạp chí Phật giáo ở Sài Gòn như Từ Quang, Tư Tưởng, Hải Triều Âm, Thiện Mỹ..., hình như chưa xuất bản tập thơ nào, đó là nhà thơ Thạch Trung Giả. Thơ ông nhiều tính chất triết học. Tuy thế cảm xúc tình cảm trong thơ ông vẫn thừa đủ để lóng lại trong lòng bạn đọc. Có bốn câu thơ của Thạch Trung Giả chúng tôi cho là tuyệt bút: 

Trâu đi vết lại 

Thăm thẳm in trời 

Ngàn ánh sao rơi 

Một đời tang hải. 

Có một nhà thơ là Trúc Thiên khi tự nhận xét đời mình ông đã cho rằng đời ông cái gì cũng dang dở, viết văn dang dở, làm thơ dang dở, dịch thuật dang dở... Có lẽ đó chỉ là cách nói khiêm nhượng của ông. Với Trường ca Kalinga (Lá Bối, s. 1971) và sau đó là tập Thơ Trúc Thiên, ông đã cho độc giả thấy mỗi câu thơ ông vang lên như tiếng còi thúc quân ra trận, mỗi bài thơ ông quả là một nhát kiếm báu kim cương chặt đứt mọi dây phiền não trói buộc thân phận con người. 

Ai ngàn xưa mở núi 

Ai ngàn sau hành hương 

Thấy chăng trong nhịp hoằng dương 

Bóng người hộ pháp lồng khuôn Phật Đà. 

Trường ca Kalinga (trang 19)

Khúc ca đối ảnh trong thơ Trúc Thiên, nhà thơ đã dùng nghệ thuật thi ca để dẫn dắt người đọc vào một quá trình điều tâm từ mê đến ngộ. Chuyển hóa nhận thức bản thể con người từ tợ hiện lượng đến chân hiện lượng. Tương tự như tác phẩm Thập mục Ngưu đồ, bài thơ chia làm bốn phân đoạn: Soi gương, Trông gương, Đập gương, và Bỏ gương. Chúng ta hãy đọc những câu trong phân đoạn cuối: 

Lòng ta như một phiến gương 

Gương còn đâu có đài gương đâu nào 

Trăm năm tiếng thét câu gào 

Khéo vu vơ bấy đời trao bóng hình 

Cười lên ném cái bất bình 

Lừa nhau chi nữa Gương mình Bóng ta 

Trúc Thiên 

Phạm Thiên Thư xuất hiện giữa vòm trời thi ca PG như một vì sao sáng rực rỡ giữa các vì sao. Ngay từ tập thơ đầu tay, Thơ Phạm Thiên Thư 1968, ông đã định hình khuôn mẫu cho sự nghiệp thi ca của ông; lấy đạo lý PG làm nền tảng. 

Khác với những người đi trước, Phạm Thiên Thư đã thực sự làm cho đạo Phật trẻ ra và tươi mát hơn lên. Với Động hoa vàng do Tiếng Thơ xuất bản, S. 1971, thực sự chứng minh điều đó. 

Mười con nhạn trắng về tha 

Như lai thường trụ trên tà áo xuân. 

......... 

Nến khuya lửa hắt hiu vàng 

Trang kinh lác đác đôi hàng nhạn sa 

Ý nào hóa hiện ngàn hoa 

Chữ nào ẩn nguyệt trên tà áo ni. 

......... 

Tay nào nghiêng nón thơ che 

Tay nào lần chuỗi bồ đề xanh xao 

......... 

Điệu về tay giấu chùm bông 

Gót chân đất Phật trổ hồng hằng sa. 

Động Hoa vàng 

Tập thơ Động Hoa vàng có một sức cuốn hút khá mãnh liệt tuổi trẻ thời bấy giờ và đến nay hình như âm hưởng của nó vẫn chưa hề phai nhạt. 

Sự nghiệp thi ca Phạm Thiên Thư thật sự rất đáng kể. Ngày xưa người tình (cơ sở Văn chương xuất bản 1974), Quyên từ độ bỏ thôn Đoài (1974). Đọc bài thơ Phật trong Khúc Hạ ca màu hồng, ta đã thấy hiện rõ khát vọng thực sự Việt hóa đạo Phật của ông. 

Phật thả nhành sen xuống Cửu Long 

Đài hoa thơm biển lúa xanh đòng 

Chín rồng thiêng vươn mình phát thệ 

Dâng ngàn sông một thể nước trong. 

Ông đã sải những bước chân trên con đường thi ca với tất cả khả năng và khát vọng của mình. Phạm Thiên Thư táo bạo dấn thân vào con đường Việt hóa kinh điển đạo Phật. 

Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là bộ kinh cho đến bây giờ vẫn còn những Phật tử chưa dám trì tụng. Phạm Thiên Thư đã đem kinh Kim Cương thi hóa. 

Ông đã khéo cô đúc hình tượng đức Phật uy nghi giữa pháp hội: 

Trên trụ đá mây đỏ 

Trải chiếu cói lưu ly 

Phật kết Kim Cương tọa 

Chim tụng pháp diệu kỳ. 

Bài kệ cốt tủy kinh Kim Cương “Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhơn hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai”. Trí Quang Thượng nhân Việt dịch: 

Nếu đem sắc tướng 

Nhìn thấy Như Lai, 

Hoặc đem âm thanh 

Nhận thức Như Lai. 

Thì những người ấy 

Đã đi lạc đường 

Không còn thể nào 

Thấy biết Như Lai. 

Kinh Kim Cương - Trí Quang dịch, NXB Tp. Hồ Chí Minh, 1994, tr. 92 

Phạm Thiên Thư quả đã tinh tế khi thi hóa thành một bài thơ ngũ ngôn: 

Dùng thân vàng thấy Phật, 

Dùng khánh ngọc cầu ta, 

Người đó lạc tà đạo 

Đũa ngọc gắp sao tà. 

Kinh Ngọc, trang 117 

Rõ ràng hai câu “Dùng thân vàng thấy Phật” và “Người đó lạc tà đạo” đã chuyển tải trung thực ý kinh. Nhưng hai câu “Dùng khánh ngọc cầu ta” và “Đũa ngọc gắp sao tà” thì hoàn toàn đã được Việt hóa và thi hóa. Đôi khi khiến người đọc khó có thể hiểu được trung thực ý kinh. 

Kinh Ngọc nếu đem đối chiếu với nguyên văn Hán Việt, tuy có đẹp, nhưng không thể tránh khỏi những khuyết điểm tất yếu. Hình như Phạm Thiên Thư đã nhìn Kinh Ngọc như một tác phẩm thi ca hơn là một văn bản kinh để trì tụng. Nhưng dù sao thì việc làm của Phạm Thiên Thư rất đáng được ghi nhận và tán thán. 

Phạm Thiên Thư tiếp tục thi hóa kinh Hiền Ngu thành kinh Hiền với tiểu đề phụ là Hội Hoa Đàm. Có thể nói ngay đây là một tác phẩm thi ca đồ sộ: 12.000 câu thơ lục bát, và với bề rộng bề sâu tính cách ngụ ngôn, truyền thuyết của kinh Hiền Ngu, Phạm Thiên Thư đã trải rộng cảm xúc của mình giữa một vòm trời bao la trên một con đường đầy hoa thơm cỏ lạ hướng về phía trước. Thành tựu cốt tủy của kinh Hiền cho thấy có một đức Phật rất Việt Nam, một đạo Phật rất Việt Nam. 

Ngoài những tác phẩm nói trên, Phạm Thiên Thư còn có Đoạn trường vô thanh, một tục Kiều, một tác phẩm nếu đem phân tích sẽ còn nhiều điều để bàn cãi, chưa hẳn các nhà nghiên cứu có được cách nhìn nhất quán đồng tình. Phạm Thiên Thư đem tuệ giác tánh Không soi rọi lên thân phận nàng Kiều rồi dắt dẫn tâm thức nàng về đến bến bờ giải thoát an lạc. 

Lại vào Sư bác văn chương 

Đem Kim Cương cắt tơ vương giấc vàng 

Cho thơ hòa với mênh mang 

Cho mênh mang đọng hạt đàn vô thanh. 

Đoạn trường vô thanh, trang 190

Giới thiệu một tập thơ chi bằng mượn thơ của một nhà thơ đã giới thiệu: thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã viết tặng Phạm Thiên Thư. 

Thiên cổ đoạn trường kim nhất tục 

Vô thanh sáng thử kế tân thanh 

Bất nan vĩ thủy vi vân hỉ 

Thương hải vu sơn uổng hữu danh 

Vũ Hoàng Chương 

Ngàn xưa ruột đứt nay lành 

Sau tân thanh có vô thanh ra đời 

Làm mây làm nước như chơi 

Nhắc chi non biển một thời tiếng tăm 

Xuân Nhâm Tý - Vũ Hoàng Chương tự dịch 

Với những tác phẩm thi ca đã để lại, chứng tỏ Phạm Thiên Thư là nhà thơ lớn của dòng thi ca PG Việt Nam nói chung, thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. 

Sau năm 1975, PG thành phố Hồ Chí Minh lại có thêm một sức mạnh mới. Kể từ 1981, các thành phần tổ chức các giáo hội, các tông phái đã thống nhất thành một tổ chức duy nhất hoạt động theo điều lệ Hiến chương PG Việt Nam, lấy phương châm hành động là Đạo pháp-Dân tộc-Chủ nghĩa xã hội. Sức mạnh mới bừng khởi khiến cho giới làm văn nghệ PG thành phố hưng phấn hẳn lên. 

Tống Anh Nghị, một nhà thơ xuất hiện từ thời chấn hưng PG, cho ra đời thi phẩm Ngày nở hoa cuộc đời (NXB Văn Nghệ Tp. HCM, 1995) thể hiện rõ nét con đường phụng sự đạo pháp, dân tộc của cả một đời người của thi nhân: 

Phật pháp không là đống sách làm thinh 

Nằm hứng bụi qua âm thầm ngày tháng. 

Mừng đón tiếng reo xưa (Ngày nở hoa cuộc đời, trang 22) 

Nam mô Quán Thế Âm 

Đấng Đại Hùng, Đại Lực 

Trong phong ba chưa vơi lời oan ức 

Nên Pháp thuyền Ngài chưa ngớt tay chèo 

Giờ phút đây, trong số người trần tục 

Ngưỡng mộ Ngài, thêm một kẻ xin theo! 

Qui ngưỡng (Ngày nở hoa cuộc đời, trang 44)

Nhà thơ Trần Quê Hương in lại Suối về Hoa Nghiêm (1993) và Tặng phẩm dâng đời (1996), cả hai tập thơ đều do NXB Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh ấn hành. 

Suối về Hoa Nghiêm là dấu ấn đậm nét trong sự nghiệp thi ca của ông; là một bản trường ca ngợi ca tình mẹ, ngợi ca tình đạo tình quê. Đọc cho chúng tôi nghe những câu thơ hiện thực viết về cuộc đời mẹ ông, chúng tôi thấy trong đôi mắt ông dường như ngấn lệ: 

Mỗi hạt cơm là giọt lệ khô 

Vắt từ tim mẹ ướp tim thơ 

Gánh dây lá chuối, phơi từng sợi 

Từng sợi nuôi tằm mẹ nhả tơ. 

 (trang 32) 

Và với Tặng phẩm dâng đời, thì phương trời giải thoát giác ngộ đã rộng mở thênh thang: 

Dòng đời trôi bất tận 

Nẻo đạo cũng vô biên 

Xuân thiền luôn tinh tấn 

Kết chuỗi hạt thiêng liêng. 

 (trang 30) 

Tinh thần phóng khoáng, tính cách thủy chung, những nhà thơ hoặc lấy cốt tủy đạo Phật làm nền tảng chủ đạo trong sáng tạo, hoặc chịu ảnh hưởng ít nhiều nguồn tư tưởng ấy trong sự nghiệp thi ca của mình; có lẽ đã có hàng trăm nhà thơ có mặt trong dòng chảy thi ca PG thời hiện đại. Họ là những thiền sư như Đức Nhuận, Quảng Thạc, Huyền Không, Tâm Quán, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Viên Minh... Họ là những sư trưởng, ni sư, sư cô Diệu Không, Như Thanh, Huỳnh Liên, Y Sa, Tuệ Đăng, Như Đức, Thuần Bạch..., họ là những thi nhân và những cư sĩ như: Bảo Định Giang, Lưu Kỳ Linh (bào huynh Lưu Trọng Lư), Phong Sơn, Nguyễn Hải Như, Hoàng Hương Trang, Đinh Hồi Tưởng, Mang Viên Long, Đặng Hữu Ý, Bạch Tuyết... Số lượng còn rất nhiều, tuy nhiên trong dung lượng một bài tham luận chúng tôi không đề cập được hết. 

Tất cả chứng tỏ có một nền thi ca PG Gia Định-Sài Gòn-Tp. Hồ Chí Minh, rất sinh động, rất phong phú. 

Và để kết thúc bài tham luận, chúng tôi xin được mượn những câu thơ của nhà thơ Trụ Vũ, những câu thơ cho chúng ta một cảm quan đạo vị ngọt ngào, thấm đẫm chất Phật trong thơ, chất đạo trong đời, phong thái thung dung an lạc, chứa chan thiền duyệt. 

Phật xuất thế cho em là tất cả 

Ôi trong lò sen nở sắc thường tươi 

Phật xuất thế cho tôi là tất cả 

Ôi ngọc thiêu trên núi sắc xanh ngời 

Phật xuất thế cho quê hương mầu nhiệm 

Đẹp áo vàng sen trắng đẹp trời xanh 

Phật xuất thế cho bồ câu lên tiếng 

Trong tâm tư nhân loại hạt gieo lành 

Áo vàng sen trắng trời xanh 

Quê hương ta hạt gieo lành ngàn năm 

Lửa hồng dậy với sao trăng 

Hải triều âm gọi Bạch Đằng giang sôi 

Ba Vì với Tản Viên ơi 

Tuyết Sơn một đỉnh mặt trời đôi phương 

Trụ Vũ (Trẻ Thơ) 

(Tuyển tập Thi nhạc họa mừng Phật Đản, Lá Bối, S.1964)

Nhân mùa Phật Đản Phật lịch 2542

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
07 Tháng Bảy 2019(Xem: 3830)
13 Tháng Mười 2016(Xem: 5891)
22 Tháng Ba 2016(Xem: 5370)
Tổng quan Nghiên cứu về hòa bình cả ở cấp độ lý thuyết lẫn thực tế đã được tăng cường do tầm quan trọng đương thời của nó. Việc tìm kiếm các biện pháp thúc đẩy hòa bình và hòa hợp đóng vai trò then chốt trong xã hội toàn cầu do bạo lực và các xung đột do con người gây ra ngày một gia tăng. Do vậy mà có cả các nghiên cứu về hòa bình ở các khía cạnh khác nhau như chính trị và tôn giáo, và ở các cấp độ khác nhau như quốc gia và khu vực.