● Bài Thuyết Trình Chính: Sự Tương Tác Giữa Văn Hóa Phật Giáo Và Văn Hoá Dân Tộc Trong Lịch Sử Việt Nam

15 Tháng Hai 201200:00(Xem: 8975)

CHƯƠNG TRÌNH HỘI THẢO 

PHẬT GIÁO TRONG THỜI ĐẠI MỚI
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
Do Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức

Sự tương tác giữa văn hóa Phật giáo và
văn hóa dân tộc trong lịch sử Việt Nam 
GSTS. Trương Như Vương, GSTS. Nguyễn Đức Diện, 
Viện Chiến lược và Khoa học, Hà Nội 

Phật giáo truyền vào Việt Nam đến nay đã hơn 2000 năm. Suốt quá trình tồn tại và phát triển, Phật giáo đã để lại nhiều dấu ấn trong đời sống văn hoá dân tộc. Trong công cuộc đổi mới, mở cửa, giao lưu văn hoá quốc tế, để xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thì việc nghiên cứu, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, trong đó có văn hoá Phật giáo là vấn đề cấp bách.

Trong khuôn khổ một tham luận về sự tương tác giữa văn hoá Phật giáo và văn hoá dân tộc trong lịch sử Việt Nam, chúng tôi xin trình bày theo 3 vấn đề:

- Phật giáo trong lịch sử Việt Nam.

- Tác động của văn hoá Phật giáo đối với văn hoá dân tộc.

- Tác động của văn hoá dân tộc Việt Nam đối với văn hoá Phật giáo.
 

1. Phật giáo trong lịch sử Việt Nam

- Quá trình hình thành văn hóa Việt Nam có thể chia làm 6 giai đoạn: Văn hóa thời tiền sử; Văn hóa Văn Lang - Âu Lạc; Văn hóa thời chống Bắc thuộc; Văn hóa Đại Việt; Văn hóa Đại Nam; và Văn hóa hiện đại. Sáu giai đoạn này tạo thành 3 lớp văn hóa chồng lên nhau. Mỗi lớp văn hóa lại tương ứng với một thời kỳ phát triển của văn tự Việt Nam, của những thành tựu trong sản xuất:

+ Lớp văn hóa bản địa: thành tựu lớn nhất ở Giai đoạn văn hóa thời tiền sử của cả cư dân Nam á là sự trưởng thành nghề trồng lúa nước (Đông Nam á cổ đại bao gồm Nam á- Bách Việt).

+ Lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và khu vực: được hình thành qua hai giai đoạn: Giai đoạn văn hóa thời chống Bắc thuộc và Giai đoạn văn hóa Đại Việt.

Đặc điểm nổi bật của văn hóa giai đoạn này là sự song song tồn tại của hai xu hướng trái ngược nhau Hán hóa và chống Hán hóa về mặt văn hóa. Giai đoạn văn hóa thời chống Bắc thuộc khởi đầu từ trước công nguyên kéo dài cho đến khi Ngô Quyền giành lại được đất nước (938). Đặc điểm của giai đoạn này là: Tinh thần đối kháng thường trực và bất khuất trước hiểm họa xâm lăng khởi đầu từ trước công nguyên đã được nuôi dưỡng và bộc lộ mạnh mẽ qua các cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược từ phương Bắc.

Đặc điểm thứ hai của Giai đoạn văn hóa thời chống Bắc thuộc là sự suy tàn của nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc. Sự suy tàn này bắt nguồn từ hai nguyên nhân: do sự suy thoái tự nhiên có tính quy luật của nền văn hóa sau khi đạt đến đỉnh cao; và sự suy tàn do âm mưu đồng hóa của kẻ xâm lược phương Bắc.

Đặc điểm thứ ba, Giai đoạn văn hóa thời chống Bắc thuộc đã mở đầu cho quá trình giao lưu - tiếp nhận văn hóa Trung Hoa và khu vực (đây cũng là giai đoạn văn hóa nước ta hội nhập với văn hóa khu vực). Giai đoạn này có một sự phát triển hết sức lý thú là, tuy tiếp xúc trực tiếp và thường xuyên, nhưng văn hoá Việt Nam đã tiếp nhận văn hóa Trung Hoa rất ít. Nho giáo hầu như chưa thâm nhập được vào xã hội Việt Nam. Trong khi đó văn hoá Việt Nam chủ yếu tiếp nhận văn hóa Phật giáo, thời kì đầu đến trực tiếp từ ấn Độ, sau đó mới từ Trung Hoa sang. Đặc điểm này đã tạo nên một phong cách ứng xử: tiếp nhận tinh hoa văn hoá Trung Hoa và sáng tạo nên nền văn hoá bản địa Việt Nam sâu đậm tính cách Việt.

+ Lớp văn hóa giao lưu với phương Tây TBCN, cũng có hai xu hướng trái ngược song song tồn tại: Âu hóa và chống Âu hóa.

Như vậy, xét về khía cạnh văn hóa nhận thức và văn hoá ứng xử, thì văn hóa nước ta được hình thành bởi ba lớp. Nhận thức và ứng xử được hình thành trong lớp văn hóa cổ xưa. Nhận thức và ứng xử trong tiếp nhận và sáng tạo được hình thành trong lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và khu vực, để lại dấu ấn sâu đậm hơn cả là những tri thức và phong cách ứng xử về vũ trụ quan, nhân sinh quan do Tam giáo (Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo) mang lại. Nhận thức và ứng xử được hình thành trong lớp văn hóa giao lưu với phương Tây chủ yếu là với văn hoá Pháp trên nhiều lĩnh vực: văn học, nghệ thuật, tôn giáo (Thiên chúa giáo), tri thức khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, tạo cho văn hoá Việt Nam một nền văn hoá nhận thức và ứng xử vừa có tính nhân bản vừa có tính khoa học.

Văn hoá Việt Nam phát triển trong giai đoạn này không chỉ đem lại tính dân tộc sâu sắc mà còn mang tính khoa học đương thời và khi đảng Cộng sản Đông Dương ra đời đã tạo điều kiện cho tính dân tộc, khoa học đương thời thấm sâu trong quần chúng, hình thành nền văn hoá Việt nam: dân tộc, khoa học, đại chúng. Phải có nền văn hoá đương đại đó, như một trong những nhân tố quyết định để nhân dân Việt nam, dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản Đông Dương đã dành được thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Từ 1945 trở về sau, văn hoá nhận thức và ứng xử Việt Nam đã tiếp nhận một cách sáng tạo trong giao lưu văn hoá với các nước tư bản phương Tây, xã hội chủ nghĩa (chủ yếu là văn hoá Xô Viết), hình thành nên văn hoá hiện đại đâm đà bản sắc dân tộc.

- Về quá trình Phật giáo thâm nhập vào Việt Nam:

Phật giáo vào nước ta qua đường thuỷ và đường bộ. Theo đường thuỷ, các thương gia ấn Độ đến nước ta ngay từ đầu công nguyên. Luy Lâu (Hà Bắc) đã sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Tại đây, hoạt động truyền giáo của Khâu Đà La (người ấn Độ đến Việt Nam khoảng 168- 189) đã xuất hiện truyền thuyết Phật giáo Việt Nam đầu tiên với Thạch Quảng Phật và Man Nương Phật mẫu.

Từ trung tâm Luy Lâu, đã có những nhà sư ấn Độ như Mahakỳvực, Khương Tăng Hội (người gốc Trung á), sau khi xuất gia theo Phật giáo, đã đi sâu vào trong lãnh thổ Trung Hoa truyền đạo. Một lần trả lời vua Tuỳ Văn Đế (vua Trung Hoa) về tình hình Phật giáo xứ Giao Châu, sư Đàm Thiên (người Trung Hoa gốc Trung á) đã tâu rằng: Xứ Giao Châu có đường thông sang Thiên Trúc. Phật giáo truyền vào Trung Hoa chưa phổ cập đến Giang Đông mà xứ ấy đã xây ở Luy Lâu hơn 20 bảo tháp, độ được 500 vị tăng và dịch được 15 bộ Kinh rồi. Thế là xứ ấy theo đạo Phật trước ta. Chuyện này được Quốc sư Thông Biện thuật lại cho Thái hậu Linh nhân (ỷ Lan) nghe khi bà hỏi về nguồn gốc đạo Phật Viêt Nam nhân dịp các cao tăng trong nước tập hợp tại chùa Khai Quốc (chùa Trấn Quốc ngày nay) vào ngày rằm tháng Hai năm 1096 (1). Đến thời Tam quốc, bà Ngô Quốc Thái (mẹ của Ngô Tôn Quyền) từng cho mời các nhà sư từ Luy Lâu sang Kiến Nghiệp (thủ phủ nước Ngô) thuyết giảng.

Tại Giao Châu, có Mâu Bác (người Trung Hoa sinh khoảng 165- 170) theo mẹ đi lánh nạn, sau khi tiếp xúc với Phật giáo ở đây đã bỏ Nho giáo, Lão giáo theo Phật giáo. Cuốn sách Lý hoặc Luận (bàn về cách ứng xử những lầm lẫn, mê hoặc) do ông viết tại Giao Châu đã trở thành cuốn sách đầu tiên giới thiệu về Phật giáo. Nội dung cuốn sách cho thấy, Phật giáo vào Việt Nam trực tiếp từ ấn Độ, cho nên, từ cách trang phục, đến giao tiếp khác hẳn, khiến người Trung Hoa thắc mắc. Chẳng hạn, tăng sĩ Giao Châu mặc áo cà sa đỏ, khi giao tiếp không quỳ...

ở Việt Nam, thời kỳ đầu, Phật giáo mang sắc thái Tiểu thừa, từ "Buddha"được phiên âm từ tiếng Phạn ra tiếng Việt thành Bụt và Bụt được coi như một vị thần toàn năng, hiền lành, từ bi là nhân vật xuất hiện phổ biến trong các câu chuyện dân gian, có mặt ở mọi nơi sẵn sàng cứu giúp dân lành, trị kẻ ác.

Những điều đó cho thấy, Phật giáo vào Việt Nam sớm hơn Trung Hoa.

Theo đường bộ (khoảng thế kỷ IV-V), Phật giáo từ Trung Hoa (Đại thừa) tràn vào nước ta, chẳng bao lâu, đã lấn át Phật giáo (Tiểu thừa) trong nước. Do đó, “Bụt” qua tiếng Hán được phiên âm thành Phật Đà, Phật Đồ (chỉ sự giác ngộ viên mãn). Từ đây, khái niệm “Bụt” (người sáng lập ra đạo Phật) chỉ còn trong tục ngữ (gần chùa gọi Bụt bằng anh). Ngoài người ấn Độ và Trung Hoa còn có cả người Trung á và một số người Việt Nam truyền bá đạo Phật vào nước ta. Những người Việt do ngưỡng mộ đạo Phật đã sang Tây Trúc học tập, sau đó về nước truyền bá cho người ở trong nước.

ở nước ta, cùng với Nho giáo và Lão giáo, tư tưởng Phật giáo đã được thâm nhập và trở thành một bộ phận quan trọng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Công lao đầu tiên truyền đạo Phật vào nước ta, trước hết thuộc về các nhà sư ấn Độ, người Trung á, Trung Quốc, trong đó có sự đóng góp nhiều mặt của các nhà sư Việt Nam. Những nhà sư này là cầu nối giữa Phật giáo Nam á với Phật giáo Trung Quốc. Những người Việt Nam đầu tiên đến với đạo Phật hầu hết là nhà buôn, là trí thức đương thời, song hiểu khá kỹ về giáo lý Phật giáo. Sở dĩ có hiện tượng ấy là do bản thân Phật giáo, ngoài phần lễ nghi còn là một hệ thống lý luận rất trừu tượng.

- Phật giáo Việt Nam trải qua 4 giai đoạn:

Giai đoạn 1, từ đầu công nguyên đến hết thời Bắc thuộc. Đây là giai đoạn hình thành và phát triển rộng khắp của Phật giáo.

Giai đoạn 2, thời Đại Việt là giai đoạn cực thịnh của Phật giáo.

Giai đoạn 3, từ thời Lê đến cuối thế kỉ 19 là giai đoạn Phật giáo suy thoái, do nhà Lê tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc giáo.

Giai đoạn 4, từ đầu thế kỉ 20 đến nay là giai đoạn Phật giáo phục hưng. Đầu thế kỉ 20, đứng trước trào lưu Âu hóa và những biến động do giao lưu với phương Tây, phong trào chấn hưng Phật giáo được dấy lên, khởi đầu từ các đô thị miền Nam. Vào những năm 30, các hội Phật giáo ở Nam kỳ, Trung kỳ, Bắc kỳ lần lượt ra đời với những cơ quan ngôn luận riêng.

Có thể nhận thấy rằng, Phật giáo thâm nhập vào mỗi nước đều qua sự tiếp thu, sáng tạo khác nhau và do vậy, mang sắc thái riêng của mỗi dân tộc (mà Phật giáo Việt Nam là một điển hình). Đồng thời, thông qua quá trình thẩm thấu văn hoá Phật giáo, văn hoá dân tộc cũng chịu sự tác động, ảnh hưởng đa chiều. Nói cách khác, đó là sự tương tác giữa văn hoá Phật giáo và văn hóa dân tộc trong lịch sử Việt Nam.

 

2. Tác động của văn hoá Phật giáo đối với văn hoá dân tộc

Như đã nói ở trên, Phật giáo ở Việt Nam phát triển qua 4 giai đoạn, song, chỉ có giai đoạn thứ 2 (thời kỳ nhà nước Đại Việt) Phật giáo phát triển cực thịnh và ảnh hưởng của nó đối với xã hội là rất rõ. Sự tác động qua lại giữa văn hóa Phật giáo với văn hóa dân tộc đã tạo thành bản sắc riêng của văn hóa Việt Nam một cách rõ nét nhất. Trong phạm vi nghiên cứu này, tác giả xin đề cập đến hai lĩnh vực:

- Về chính trị - tư tưởng:

Trong bối cảnh dân tộc bị bọn phong kiến phương Bắc thống trị, việc một bộ phận giai cấp này đứng trên lập trường Nho giáo để phê phán, bài trừ Phật giáo, lấy triết lí nhập thế của Nho giáo để phê phán triết lí xuất thế của Phật giáo là tất yếu. Nhưng không phải vì thế Phật giáo mất đi, trái lại, nó lặng lẽ thấm dần vào đời sống tinh thần của cộng đồng người Việt ở mức độ khác nhau. Nói về quá trình diễn biến tư tưởng của xã hội Việt Nam trong thiên niên kỉ thứ nhất sau Công nguyên, giáo sư Nguyễn Tài Thư đã viết: “Lúc gặp thời thì dựa vào đạo Nho, lúc thất thế thì dựa vào đạo Lão - Trang, lúc éo le khốn khó thì dựa vào đạo Phật” (2). Đó là văn hoá ứng xử rất tinh tế của người Việt, cũng là cung cách đấu tranh giành chủ quyền của người đương thời: biết náu mình, biết quật khởi, biết vượt qua gian khó với tinh thần hỉ xả, từ bi, bác ái.

Cuối thời Bắc thuộc, Phật giáo đã lan rộng khắp mọi miền của xứ “An Nam đô hộ phủ” tức nước ta ngày ấy. Trong nước đã xuất hiện một tầng lớp cao tăng. Họ đến ấn Độ, Nam Dương, Trung Quốc học tập, hiểu rộng biết nhiều, kiêm thông ngôn ngữ Hán - Phạn, có thể coi họ là những trí thức đương thời. Hầu hết những người này tự nguyện đến với đạo Phật, lấy giáo lý từ bi để tu luyện mình và giúp đỡ người khác. Trong số đó cũng có người như Lý Phật Tử đã lấy danh nghĩa Phật tử tập hợp quần chúng chống lại sự áp bức của bọn phong kiến phương Bắc thể hiện tính nhập thế của Phật giáo lúc này. Những nhà sư, các tín đồ Phật giáo này đã thực sự tham gia vào cuộc vận động, đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc. Trong cuộc đấu tranh ấy, tinh thần yêu nước đã gắn bó chặt chẽ với đời sống tâm linh của các Phật tử.

Sau chiến thắng Bạch Đằng (năm 938), một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc đã mở ra: kỷ nguyên độc lập và phát triển. Và cũng từ đây, uy tín, vai trò xã hội của Phật giáo được khẳng định. Thời kỳ này nhà chùa do có nhiều ruộng đất nên cũng có cơ sở kinh tế khá mạnh. Chùa không chỉ là nơi tập trung sinh hoạt văn hoá mà còn là “trường” đào tạo ra những sư tăng nắm bắt được các tri thức của thời đại.

Khi Phật giáo toả rộng và thấm dần vào đời sống nhân dân, triều đình đã công nhận Phật giáo như một tôn giáo chính thức với tinh thần nhập thế của Nho giáo. Đinh Tiên Hoàng sau khi lên ngôi vua (năm 971) đã quy định các cấp bậc tăng đạo đồng thời với các cấp bậc văn võ. Sư Ngô Chân Lưu giữ chức Tăng thống, tức chức quan đứng đầu Phật giáo và được ban hiệu là Khuông Việt đại sư. Nhiều nhà sư trở thành cố vấn cho các nhà vua về đường lối đối nội và đối ngoại. Các nhà sư này, tuy không trực tiếp tham gia vào bộ máy hành chính, nhưng ảnh hưởng của họ đối với nhà nước phong kiến là rất lớn. Một số thiền sư như Maha, Sùng Phạm, Vạn Hạnh nhiều lần được vua Lê Đại Hành mời vào cung để hỏi ý kiến về việc đạo cũng như việc đời. Vạn Hạnh còn được vua hỏi về kết quả của cuộc kháng chiến chống quân Tống năm 980.

Một đặc điểm khác nữa cũng cần chú ý là, từ khi thâm nhập vào nước ta, Phật giáo đã nhanh chóng kết hợp với tín ngưỡng bản địa tạo nên một sức sống mới. Thời Lý, mặc dù Nho giáo có ảnh hưởng ngày một tăng, song, không phải vì thế mà ảnh hưởng của Phật giáo bị giảm sút. Lý Công Uẩn, người mở đầu triều đại Lý đã trưởng thành từ trong nhà chùa và trong cuộc vận động lên ngôi, đã được sự ủng hộ nhiệt tình của giới Phật tử. Trong suốt những năm làm vua, Lý Công Uẩn đã ban nhiều lệnh có lợi cho sự phát triển của Phật giáo như: làm chùa trong cả nước, độ dân làm sư, sai sứ sang Trung Quốc xin kinh Tam tạng. Sau khi dời đô ra Thăng Long, Lý Thái Tổ đã ra lệnh xây dựng nhiều nhà chứa kinh. Năm 1011, xây dựng nhà chứa kinh Trấn Phúc. Năm 1021, ông lại cho dựng nhà chứa kinh Bát giác, để chứa các kinh tạng vừa thỉnh được năm trước. Năm 1027, Lý Thái Tổ sai chép kinh Tam tạng một lần nữa. Năm 1034, Lý Thái Tông cho dựng nhà chứa kinh Trùng Hưng ở chùa Trùng Quang trên núi Tiên Du. Song song với việc xây dựng nhà chứa kinh, một số tác phẩm Phật giáo khác như Tuyết Đậu ngữ lục... cũng được lưu hành.

Cùng với việc học tập, nghiên cứu kinh điển, nhiều nhà sư đã để lại những trước tác Phật giáo như Pháp sự trai nghi của Huệ Sinh, Tán viên giác kinh của Viên Chiếu. Tinh thần ngưỡng mộ Phật giáo thời Lý không chỉ biểu hiện qua các sinh hoạt Phật giáo mà còn là một đặc điểm của văn hoá.

Kế thừa những tựu văn hoá trong đó có Phật giáo do nhà Lý xây dựng hơn 2 thế kỷ, nhà Trần còn tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển. Vua Trần Thái Tông đã thừa nhận vai trò của đạo Phật cũng như đạo Nho trong giáo dục, ổn định trật tự xã hội. Vì vậy, ảnh hưởng của Phật giáo đối với nhà nước phong kiến nói riêng, đối với văn hoá dân tộc nói chung là một thực tế. Trong Khoá hư lục, Trần Thái Tông viết: “Cho nên đại giáo của đức Phật ta là phương tiện để dẫn dụ mọi bầy mê hoặc, là đường tắt để tỏ rõ mọi lẽ tử sinh. Làm cán cân cho hậu thế, làm khuôn phép cho tương lai, đó là trọng trách của tiên thánh ... Nay trẫm há có thể không thể lấy trách nhiệm của đấng thánh xưa làm trách nhiệm của mình, không lấy lời dạy của đức Phật ta làm lời dạy của mình được sao !” (3) .

Việc công khai thừa nhận giáo lý đạo Phật là "phương tiện" để giáo dục đạo đức làm người hiểu rõ lẽ tử sinh, Trần Thái Tông đã tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển dưới triều đại mình. Đáng chú ??ý là, thời kì này Phật giáo đã phát triển trong sự hỗn dung với Nho giáo. Nho giáo là phương tiện giáo dục lẽ “tam cương, ngũ thường”, đặc biệt là quan niệm “thân dân”. Tuy nhiên, sự phát triển của Phật giáo thời kỳ này cũng khác với thời Lý:

Thứ nhất, đây là thời kỳ cả dân tộc cùng một lúc phải tiến hành hai nhiệm vụ quan trọng: xây dựng lại đất nước và tiến hành cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông. Toàn bộ sức lực của dân tộc được huy động tối đa để hoàn thành 2 nhiệm vụ trên. Nếu như trong thời bình các vương hầu phải đem quân và nô tỳ đi khẩn hoang thì trong thời chiến phải đem quân đi chống giặc. Nhiệm vụ cứu nước không những đã huy động được sức mạnh của toàn dân mà còn làm cho mối quan hệ giữa vua quan với dân thêm gắn bó chặt chẽ. Thông qua nhiệm vụ trên, nhà Trần thấy rõ hơn vai trò, sức mạnh đoàn kết toàn dân. Vì thế, các vua Trần mặc dù ngưỡng mộ Phật giáo nhưng vẫn nhìn thấy dân vừa là cơ sở vừa là gốc để giải quyết việc đời cũng như việc đạo. Tác giả Lịch sử Phật giáo Việt Nam, viết: “Tư tưởng thân dân, lấy dân làm gốc, mà sau này chúng ta thấy biểu hiện trong những lời nói của Trần Nhân Tông của Trần Hưng Đạo, thì đã gặp trong lời quốc sư Trúc Lâm dặn Trần Thái Tông năm 1236” (4) .

Thứ hai, vào cuối thế kỷ XII, do sự tác động của những vấn đề xã hội, Phật giáo Việt Nam có biểu hiện suy thoái. Số tăng ni Phật tử ngày càng đông, không ít người lấy danh nghĩa Phật tử làm trái với lẽ đạo. Theo GS Hà Văn Tấn, năm 1198, thái phó Đàm Dĩ Mông đã tâu với vua Lý Cao Tông: “Hiện nay, số tăng đồ ngang với số dịch phu. Chúng tự kết bè lũ, lập càn người chủ, tụ họp từng bọn, làm nhiều điều ô uế. Hoặc ở nơi giới trường tịnh xá mà công nhiên rượu thịt, hoặc ở chốn tăng phòng tĩnh viện mà riêng tư gian dâm. Ngày ẩn tối ra như bầy cáo chuột. Chúng làm bại tục thương giáo, dần dần thành thói quen. Nếu không cấm đi, để lâu ngày càng thêm tệ” (5). Trước tình hình ấy, vua Lý Cao Tông đã phải ra lệnh bắt nhiều tăng đồ hoàn tục. Điều này thể hiện một xã hội không thể phát triển nếu chỉ dựa trên tiêu chí đạo đức, mà còn phải dựa trên các tiêu chí về thiết chế xã hội.

Tuy nhiên, Phật giáo thời Trần vẫn phát triển. Đến thế kỷ XIII, với sự thành lập vương triều Trần, Phật giáo đã có những chuyển biến mới.

Về phía nhà nước phong kiến, do thấy rõ vai trò, ảnh hưởng của Phật giáo trên các mặt của đời sống xã hội nên đã sử dụng Phật giáo để giải quyết một số nhu cầu thời đại đạt ra. PGS. Nguyễn Đức Sự cho rằng, “Phật giáo là một yếu tố quan trọng trong kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam từ thế kỷ thứ X đến nửa đầu thế kỷ XIV. Nó đã đáp ứng được nhu cầu củng cố địa vị của giai cấp phong kiến Việt Nam, đã được giai cấp phong kiến Việt Nam sử dụng để thu phục nhân dân và ổn định trật tự xã hội. Vả chăng, đó cũng là công việc không thể thiếu được trong những bước đi đầu tiên của công cuộc dựng nước và giữ nước” (6) .

Tóm lại, qua nhiều thế kỷ (đặc biệt từ thời Đinh, Lê, Lý, Trần), Phật giáo là một yếu tố hợp thành nền văn hoá - tư tưởng của dân tộc. Quá trình đấu tranh giải phóng khỏi ách thống trị của bọn phong kiến phương Bắc, cũng như trong xây dựng nhà nước độc lập tự chủ, giai cấp phong kiến Việt Nam đã thấy được vai trò của Phật giáo trong lịch sử tư tưởng dân tộc. Do đó, Phật giáo đã đã phát triển mạnh mẽ và để lại nhiều dấu ấn trên các mặt văn hoá tinh thần của đất nước. Có thể nói suốt thời kỳ này, học thuật trong nước đều nằm trong tay các nhà sư và Phật giáo luôn luôn chi phối lĩnh vực này. Từ thế kỷ thứ X đến nửa đầu thế kỷ XIV, Phật giáo là một yếu tố quan trọng trong kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam. Nó đã đáp ứng được nhu cầu củng cố địa vị của giai cấp phong kiến Việt Nam, đã được giai cấp phong kiến Việt Nam sử dụng để thu phục nhân tâm, phát huy tinh thần hỉ xả, cứu khổ cứu nạn để ổn định trật tự xã hội, giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc.

- Về đạo đức, lối sống:

Ảnh hưởng có tính thường trực và phổ quát nhất của Phật giáo đối với người Việt Nam là trên lĩnh vực đạo đức, lối sống. Người Việt đã tiếp thu tư tưởng vị tha, từ bi, bình đẳng, cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể thương thân của đạo Phật không phải chỉ nhằm tu thân mà trước hết là quên mình cứu nước nên vừa có giá trị về tư tưởng vừa có giá trị về đạo đức.

Còn trong cuộc sống thường nhật, lối sống đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện, tinh thần bình đẳng, dân chủ của nhà Phật chống lại mọi sự bóc lột, sự phân biệt đẳng cấp phong kiến đã tác động mạnh mẽ đến con người Việt Nam. Ngoài ra phải kể đến luật chấp tác của Thiền tông (một ngày không làm, một ngày không ăn) “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”, đề cao lao động, chống lười biếng, cũng được dân ta học tập. Với triết lý ấy, đạo Phật đã nhanh chóng được nhiều người Việt Nam ngưỡng mộ tin theo.

Mục đích của đạo là đưa chúng sinh tới bờ giác (giác ngộ, giải thoát, bình đẳng, cứu khổ, cứu nạn). Hình thức tu hành rất giản đơn (không cần đi đến chùa, không cần tượng Phật,…), tất cả đều do tâm, từ tâm. Những điều này rất phù hợp với phong cách của người Việt: trọng phúc đức, giác ngộ ngay tại thế gian, không thoát ly thế giới trần tục. Phải nhập thế vì dân tộc trải qua hàng ngàn năm phải chống lại ách thống trị của phong kiến phương Bắc, xuất thế nghĩa là chấp nhận nô lệ.

Toàn bộ giáo lý giác ngộ của Phật gắn chặt với đạo đức. Người tu hành muốn giác ngộ, giải thoát thì phải giữ giới. Thực chất của giới luật là khuyên con người tích cực làm điều thiện, bỏ điều ác để tránh mọi lỗi lầm của thân, khẩu, ý…. Có thể nói, người Việt đến với đạo Phật lúc đầu không phải sự hấp dẫn của giáo lý mà là từ hành động của người truyền đạo (thâm nhập vào một cách hoà bình). Cho nên, ngay từ thời Bắc thuộc, Phật giáo đã phổ biến rộng khắp. Lý Bí sau khi đánh đuổi quân nhà Lương, lên ngôi xưng là Lý Nam Đế năm 544, đã cho dựng chùa Khai Quốc (tiền thân của chùa Trấn Quốc ngày nay).

Một ảnh hưởng khác cũng cần chú ý là, từ khi thâm nhập vào nước ta, Phật giáo đã nhanh chóng kết hợp với tín ngưỡng bản địa tạo nên sức sống mới.

Thời Trần, ảnh hưởng mạnh mẽ của Phật giáo tới mức, nhà nho Lê Quát, học trò của Chu Văn An, đã lấy làm tức giận vì thấy dân ít theo Nho mà toàn theo Phật: "Phật chỉ lấy điều họa phúc mà động lòng người, sao mà sâu xa bền chắc đến như vậy? Trên từ vương công, dưới đến thứ dân, hễ làm cái gì thuộc về việc Phật, thì hết cả gia tài cũng không tiếc. Nếu hôm nay đem tiền của để làm chùa, xây tháp thì hớn hở vui vẻ, như trong tay đã cầm được cái biên lai, để ngày sau đi nhận số tiền trả báo lại. Cho nên, trong từ kinh thành ngoài đến châu phủ, đường cùng, ngõ hẻm, chẳng khiến đã theo, chẳng thề mà tin, hễ chỗ nào có nhà ở thì có chùa Phật, bỏ đi thì làm lại, hư đi thì sửa lại" (7) . Đạo Phật thực sự đã thấm sâu vào tính nhân bản của người Việt. Từ đầu thế kỉ XV, trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi đã viết: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”; và “Thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh”.

Đạo Phật gần gũi và thân thiết với người Việt bởi tính nhân bản cao cả, đến nỗi dường như một người Việt bất kỳ, nếu không theo một tôn giáo nào khác thì ắt là theo Phật, hoặc chí ít cũng có cảm tình với đạo Phật vì đạo Phật đã thấm vào phẩm giá con người Việt Nam. Ngay trong thời kì bị thực dân Pháp thống trị vào những năm 20-30 của thế kỉ XX đã xuất hiện một cuộc phục hưng Phật giáo nhằm khơi nguồn sức mạnh và con dân đất Việt đứng lên chống thực dân Pháp. Pho tượng lớn nhất được đúc trong thời hiện đại cũng là tượng Phật - tượng Phật A di đà cao 4 mét, trọng lượng tính cả tòa sen là 14 tấn, do phường Ngũ Xã thực hiện trong vòng 3 năm (từ 1949-1952) hiện đặt tại chùa Thần Quang ở làng Ngũ Xã (Hà Nội). Ngoài ra, các bức tượng cũng rất gần gũi: có tượng Phật nhịn ăn mà mặc (Thích ca Tuyết sơn gầy ốm), ông nhịn mặc mà ăn (Phật Di Lặc to béo), ông còn là người thân, một người hiền từ được trẻ thơ bá vai bá cổ.

 

3. tác động của văn hoá dân tộc đối với văn hoá phật giáo

Ảnh hưởng qua lại giữa văn hóa Việt Nam và văn hoá Phật giáo đã tạo ra những thần thái riêng của Phật giáo Việt Nam.

Về phía xã hội, trong khi Nho giáo còn chưa đủ mạnh, thì những cao tăng của nhà chùa lại giữ vai trò là những trí thức của thời đại. Họ không chỉ uyên thâm về đạo mà còn có vai trò to lớn trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. GS. Hà Văn Tấn viết: “Các nhà thiền học uyên thâm như Thái Tông, Tuệ Trung, Thánh Tông, Nhân Tông, vào lúc vận nước nguy nan, đều trở nên những anh hùng lập nhiều chiến công hiển hách. Phật giáo thế kỷ XIII cũng vì thế mà trong sạch hơn và nhập thế hơn. Có thể nói, tinh thần dân tộc đã thổi một luồng sinh khí mới vào Phật giáo thời Trần” (8).

Sau 3 lần đánh bại quân Nguyên - Mông, tinh thần dân tộc được nâng cao thêm, giúp cho văn hoá nói chung, trong đó có Phật giáo càng phát triển mạnh mẽ. Nếu như cuối thời Lý còn tình trạng hỗn loạn, cát cứ phong kiến thì nhà Trần đã thống nhất được toàn bộ đất nước. Trần Thái Tông muốn thống nhất cả tư tưởng nên đã viết tác phẩm Khoá hư lục. Đó là cơ sở cho sự ra đời tư tưởng triết học Phật giáo của ông. Và triết học Trần Thái Tông đã đáp ứng được nhu cầu của thời đại. Trần Thái Tông vừa là một vị vua hiền tài, am hiểu và ngưỡng mộ Phật giáo, trong thời gian làm vua, lãnh đạo muôn dân, ông đã để lại nhiều tác phẩm Phật giáo: Thiền tông chỉ Nam; Lục thì sám hối khoa nghi; Kim cương tam muội kinh chú giải; Bình đẳng lễ sám văn; Khoá hư lục.

Điểm nổi bật trong tư tưởng Phật giáo của Trần Thái Tông là kết hợp giữa Thiền và Tịnh, đốn ngộ và tiệm ngộ, sự giải thoát của bậc thượng trí và bậc hạ trí, song chủ yếu là sự dung hoà giữa Nho và Phật. Trần Thái Tông không chỉ nhìn thấy vai trò, ảnh hưởng của các đạo đối với xã hội phong kiến đương thời mà còn tìm cách chỉ cho mọi người thấy tác dụng của tam giáo ấy. Trong Khoá hư lục, Trần Thái Tông viết: “Chưa minh người rối chia 3 đạo, biết hết được cùng cóc một lòng” (Chưa rõ thì chia làm ba giáo, hiểu rồi thì cùng ngộ một tâm) (9) .

Khi vào nước ta, Phật giáo đã tiếp xúc với tín ngưỡng bản địa truyền thống của dân tộc và hoà quyện chặt chẽ với chúng. Hệ thống chùa "Tứ Pháp", tuy gọi là chùa nhưng thực ra vẫn chỉ là những đền, đình, miếu dân gian thờ các vị thần truyền thống như: Mây, Mưa, Sấm, Chớp và thờ đá.

Kết cấu của chùa Việt Nam là "tiền Phật hậu thần", kết hợp với việc đưa các thần, các thánh, các mẫu, các vị thành hoàng, thổ địa, các vị anh hùng dân tộc vào thờ ở trong chùa. Không ít chùa thờ cả Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hậu tổ. Hầu như chùa nào cũng để bia hậu, bát nhang cho các linh hồn, vong hồn đã khuất.

Phật giáo Việt Nam là sự tổng hợp của các tông phái, nghĩa là không có một tông phái nào là thuần khiết. Thiền tông với chủ trương "Bất lập văn tự; Giáo ngoại biệt truyền; Trực chỉ nhân tâm; Kiến tính thành Phật", song, các thiền sư Việt Nam đã để lại nhiều trước tác có giá trị.

Dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi thì pha trộn với cả Mật giáo, nhiều thiền sư (nhất là thời Lý) như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không... đều nổi tiếng là giỏi pháp thuật, có tài thần thông biến hoá.

Phật giáo Việt Nam dung hoà chặt chẽ hai phương pháp giác ngộ là tự lực và tha lực (thiền và giáo), phối hợp Thiền với Tịnh (niệm Phật A di đà và cầu Bồ tát cứu vớt). Hầu hết các chùa miền Bắc là cả một Phật điện vô cùng phong phú với hàng chục pho tượng Phật, Bồ tát, La hán của các tông phái khác nhau. Riêng tượng Thích ca cũng có nhiều dạng: Tượng Thích ca sơ sinh gọi là Cửu Long (tương truyền, khi Phật Sinh, có 9 con rồng đến phun nước cho ngài tắm); Tượng Tuyết Sơn - Thính Ca tu khổ hạnh ở chân núi Tuyết Sơn; Tượng Thích Ca thuyết pháp; Tượng Thích ca ngồi toà sen; Tượng Thích ca nhập Niết bàn ...

Ngay trong bản thân Phật giáo, Tiểu thừa và Đại thừa tuy là hai tông phái khác nhau, nhưng cũng có sự tương tác, giao thoa văn hoá tôn giáo lẫn nhau. Nhiều chùa mang hình thức Tiểu thừa (thờ Thích ca, sư mặc áo vàng), nhưng lại tu theo giáo lý Đại thừa), bên cạnh tượng Phật Thích ca vẫn có nhiều tượng Phật nhỏ khác, bên cạnh sư mặc áo vàng vẫn có sư sử dụng đồ nâu và lam.

Văn hoá Phật giáo ở Việt Nam có sự giao thoa với các tôn giáo khác. Các nhà nghiên cứu hiện đại đã viết nhiều về vấn đề “Tam giáo đồng nguyên” của Nho, Phật, Lão ở Việt Nam, nhất là trong việc kết hợp chặt chẽ giữa việc đạo và việc đời của các tôn giáo đó. Tuy là một tôn giáo xuất thế, nhưng ở Việt Nam, Phật giáo lại rất nhập thế. Năm 971, vua Đinh Tiên Hoàng phong cho Khuông Việt đại sư Ngô Chân Lưu làm Tăng thống. Thời Tiền Lê, đại sư Khuông Việt và pháp sư Đỗ Thuận được giao vịệc tiếp sứ thần nhà Tống. Thời Lý, thiền sư Vạn Hạnh trở thành cố vấn về mọi mặt cho vua Lý Thái Tổ. Thời Trần, các nhà sư Đa Bảo, Viên Thông đều tham gia chính sự. Sự gắn bó giữa đạo với đời mật thiết tới mức, không chỉ có các nhà sư tham gia vào chính sự, mà vào thời Lý -Trần còn có khá nhiều vua quan quý tộc đi tu (nhiều nhất là phái Thảo Đường và phái Trúc Lâm). Sử gia Ngô Thời Sỹ đã nói: Thời đại Lý -Trần, thiên hạ bán vi tăng. Thời đại mà nửa dân số là tăng ni Phật tử, nhưng lại không chấp vào giáo lý nhà Phật, các nhà sư không chỉ là một thiền sư mà còn là nhà thơ, nhà tư tưởng, nhà quân sự...

Kết hợp hài hoà âm dương và thiên về nữ tính là một đặc trưng của văn hoá Phật giáo Việt Nam, là sự phản ánh bản chất của nền văn hoá nông nghiệp lúa nước.

ở ấn Độ, các vị Phật xuất thân vốn là nam giới, nhưng khi sang Việt Nam lại có Phật ông, Phật bà. Khởi nguyên của Phật giáo chỉ có sư nam, ở Việt Nam có cả sư nữ. Có những chùa Mường (Việt Nam) còn giữ nguyên tên gọi nguyên sơ của nó như: Bụt đực - Bụt cái. Phật Bà Quan Âm (biến thể của Quan Thế Âm Bồ tát) - vị thần hộ mệnh của cư dân khắp vùng sông nước vốn là địa bàn của văn hóa Nam á, nên Phật bà còn được gọi là Quan Âm Nam Hải. Quan Thế Âm Bồ tát có nghĩa là vị Bồ tát có khả năng bao quát hết các âm thanh của thế giới, nghe được những tiếng kêu khổ của người đời.

Việt Nam có những Phật Bà riêng của mình, do mình tạo ra: Phật tổ Việt Nam tức là con gái nàng Man. Ngoài ra còn có những Phật bà khác nữa như: Phật bà chùa Hương (tức Bà chúa Ba, hay Quan Âm Diệu Thiện), Quan Âm Thị Kính (trong các chùa gọi là Quan Âm Tống Tử ). Lại còn nhiều các bà Phật, bà Bồ tát vô danh như Bà Trắng Chùa Dâu. Nước ta có khá nhiều chùa mang tên các bà: Hệ thống Tứ Pháp với các chùa Bà Dâu, Bà Đậu, Bà Tướng, Bà Dàn có ở nhiều nơi. Riêng Hà Nội có 6 chùa mang tên các Bà: chùa Bà Đá (số 3 Phố nhà Thờ - Hoàn Kiếm), Bà Đanh (trong khu trường Chu Văn An - Ba Đình), Bà Nành (15A Nguyễn Khuyến - Đống Đa), Bà Ngô (Ba Đình), Bà Già (Phú Thượng -Tây Hồ), Bà Móc (27 Nguyễn Thiếp ). Đại đa số các Phật tử tại gia là các bà, các cô. “Trẻ vui nhà, già vui chùa” (tục ngữ) là nói cảnh các bà, các cô.

Chùa hoà quyện với thiên nhiên: Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt, vui như trẩy hội chùa (thành ngữ). Tục ngữ có câu: “Gái chưa chồng xuống hang cắc cớ (Hội chùa Thầy có hang cắc cớ); Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy”. Có thể nói, chùa còn là nơi che chở cho bao cặp trai gái thành duyên. 

Ca dao có câu: “Đàn ông chớ kể Phan Trần, đàn bà chớ kể Thuý Vân, Thuý Kiều”. Nói về mối tình đắm say của một đôi trai gái dưới chùa (thư sinh Phan Tất Chánh với ni cô Trần Kiều Liên, pháp danh Diệu Thường) được sư cô thông cảm giúp đỡ.

Tính linh hoạt: Do truyền thống văn hóa nông nghiệp (linh hoạt, hài hòa âm dương, thiên về nữ tính) nên Phật giáo đã bị Việt Nam hóa một cách mạnh mẽ. Khi Phật giáo vừa đặt chân đến Việt Nam, người Việt Nam đã tạo ra một lịch sử Phật giáo riêng cho mình. Nàng Man, cô gái làng Dâu - Hà Bắc, một trong những đệ tử đầu tiên của Phật giáo đã trở thành Phật Mẫu Việt Nam, đứa con gái của nàng hóa thân vào đá để trở thành Phật tổ với ngày sinh là ngày 8/4.

Người Việt coi trọng sống phúc đức, trung thực hơn là đi chùa, giác ngộ ngay tại thế gian, không thoát ly cuộc sống trần tục: “Thứ nhất là tu tại gia; thứ nhì tu chợ; thứ ba tu chùa... Dù xây chín cấp phù đồ; Không bằng làm phúc cứu cho một người” (ca dao)...

Coi trọng truyền thống thờ cha mẹ, ông bà, hơn là thờ Phật: “Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ mới là chân tu (ca dao). Phật trong nhà không thờ, đi thờ Thích ca ngoài đường” (tục ngữ).

Theo tín ngưỡng cổ truyền, trong các dịp lễ, tết, dỗ... từ xa xưa ngưòi Việt không theo đạo thường có tục đốt hàng mã (tiền, vàng, đồ dùng cá nhân bằng giấy) với quan niệm rằng, “trần sao, âm vậy” nhằm dâng cúng cho người đã khuất. Theo giáo lí Phật giáo thì đây là hoạt động mê tín, dị doan. Nhưng trên thực tế, hầu hết trong khuôn viên các chùa Phật giáo (Đại thừa) đều có những nơi dành riêng cho các Phật tử (và người ngoại đạo) hoá vàng.

Khi vào Việt Nam, Phật được đồng nhất với những vị Thần trong tín ngưỡng truyền thống có khả năng cứu giúp mọi người thoát khỏi mọi tai hoạ. Người Việt còn có tục đi lễ Phật và hái lộc vào lúc giao thừa. Có những địa phương nghèo, do muốn buộc sư gắn bó với làng mình để giữ chùa, cúng lễ, dân làng đã tổ chức cưới vợ cho sư, khiến cho ngôi chùa trở thành một gia đình. Trường hợp cưới vợ cho sư, về hình thức thì trái với giới luật, song, trớ trêu thay, chính nhờ việc này lại đạt được mục đích là giúp dân làng gắn bó hơn với tôn giáo này. Đây là một biểu hiện thú vị của tính linh hoạt trong Phật giáo Việt Nam.

Là một tôn giáo vốn khác với các tôn giáo khác ở đặc trưng xuất thế, không quan tâm đến thời cuộc, không nhiễm bụi trần, ngaỳ nay Phật giáo đã kết hợp giáo lí của mình với nhu cầu của đời sống hiện thực, nghiên cứu thời đại, tìm tòi phương pháp giúp đỡ nhân loại giải thoát đau khổ, ra sức thực hành phúc lợi xã hội, học tập các tôn giáo khác như Kitô giáo… để nghiên cứu, tìm tòi phương pháp truyền giáo một cách tốt nhất.

Ngoài ra, trong thế kỉ XXI, sự hội nhập văn hóa giữa các tôn giáo khác nhau, giữa các dân tộc khác nhau sẽ là một xu thế phát triển. Tôn giáo phương Đông đã tìm được chỗ đứng chân ở xã hội phương Tây. Pháp môn Thiền của Phật giáo được xem là một loại rèn luyện thân thể, cũng đã được tín đồ của một số tôn giáo khác tiếp thu, họ đã đem cái cách tĩnh dưỡng mang đậm sắc thái Phật giáo này vào trong đoàn thể tín ngưỡng của mình. Tư tưởng triết học trong Đạo giáo Trung Quốc cũng được một số học giả Kitô giáo phương Tây bỏ nhiều công sức nghiên cứu, họ hy vọng từ trong đó sẽ tìm được phương thuốc giải quyết vấn đề xã hội phương Tây.

Ngày nay, ảnh hưởng của Phật giáo đã rất khác trước đây, song có một điểm chung mà mọi người đều nhận thấy là, bất kể người Việt Nam nào nếu không theo một tôn giáo nào đó thì trong tâm linh, cùng với việc hướng về các đấng thần linh, tổ tiên còn nghĩ đến đức Phật từ bi hỉ xả, cứu khổ cứu nạn và còn coi đó như là một chỗ dựa tinh thần. Nghĩa là đạo Phật giờ đây tác động chủ yếu vào lối sống và đạo đức của người Việt, hình thành một nhân cách ứng xử nhân bản và cao thượng, nhân tố tiềm tàng để xây dựng đạo đức xã hội chủ nghĩa của con người Việt nam.

 

Kết luận

Từ thập kỷ 90 của thế kỉ XX trở lại đây, vấn đề tôn giáo và dân tộc luôn ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, thẩm thấu vào nhau, trở thành điểm nóng, khó giải quyết và có tính toàn cầu. Những xung đột đẫm máu và chiến tranh cục bộ do chủ nghĩa ly khai dân tộc và phong trào tôn giáo cực đoan gây ra trên thế giới, đã và đang đe doạ nghiêm trọng đến ổn định, hoà bình thế giới và khu vực.

Cùng với sự phá sản của thuyết văn minh phương Tây (cho là ưu việt nhất), thế giới ngày nay đã không còn dân tộc nào hoặc tôn giáo nào có thể tuyên bố dân tộc mình hoặc tôn giáo mình là ưu việt hơn dân tộc khác, tôn giáo khác, càng không thể dùng một loại văn hóa, hoặc một loại tôn giáo để cưỡng ép thống nhất phương thức tư duy, tín ngưỡng và tập quán sinh hoạt của mọi người. Hơn nữa, nhu cầu cần phải tìm hiểu và đối thoại giữa các dân tộc khác nhau, các tôn giáo khác nhau ngày càng trở nên bức thiết.

Tất cả các tôn giáo đều đứng trước những thách đố của xã hội phát triển. Sự xung đột giữa các tín ngưỡng khác nhau là khó tránh khỏi nên các tôn giáo đều phải tiến hành điều chỉnh đối với bản thân mình để thích ứng với xã hội phát triển tiến hoá. Các tôn giáo khác nhau bắt tay nhau nỗ lực đóng góp cho sự nghiệp công ích xã hội sẽ trở thành một đặc trưng quan trọng của xã hội tôn giáo đa nguyên hoá.

Trên nền tảng văn hoá phương Đông, trải qua hàng ngàn năm lịch sử, văn hoá dân tộc Việt nam đã đựơc hình thành, hun đúc và phát triển bởi những yếu tố nội tại và ngoại lai. Văn hoá dân tộc Việt Nam đã tiếp thu những tinh hoa, những yếu tố hợp lí của văn hoá hoá ngoại nhập, trong đó có văn hoá Phật giáo. Đồng thời, trong tiến trình đó, nhiều yếu tố văn hoá truyền thống đã tác động trở lại đối với các yếu tố văn hoá ngoại lai. Điều đáng ghi nhận là qua quá trình giao thoa, tương tác, văn hoá dân tộc nhờ đó mà ngày càng phát triển. Mặt khác, chính nhờ sự chọn lọc khách quan, nghiêm túc của văn hoá bản địa nên có thể khẳng định rằng, đối với văn hoá ngoại nhập, chỉ những yếu tố nào gần gũi, tương đồng với văn hoá bản địa mới được tiếp thu và được trường tồn. Sự tương tác giữa văn hoá Phật giáo và văn hoá dân tộc trong lịch sử Việt nam như đã trình bày trên đây là một ví dụ điển hình.

 

chú dẫn Tài liệu

1. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb TP Hồ Chí Minh, 2001, tr.453

2. Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Phan Đại Doãn, Nguyễn Đức Sự, Hà Văn Tấn, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội 1993, tr. 93. 

3. Trần Thái Tông, Khoá Hư Lục (Đào Duy Anh phiên dịch và chú giải), Nxb khoa học xã hội, Hà Nội 1974, tr.112. 

4. Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Minh Chi, Lí Kim Thoa, Hà Thúc Minh, Hà Văn Tấn, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội 1988, tr. 215

5. Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Minh Chi, Lý Kim Thoa, Hà Thúc Minh, Hà Văn Tấn, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội 1988, tr. 214. 

6. Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Phan Đại Doãn, Nguyễn Đức Sự, Hà Văn Tấn, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội 1993, tr. 219

7. Dẫn lại theo (1), tr.458

8. Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Minh Chi, Lí Kim Thoa, Hà Thúc Minh, Hà Văn Tấn, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội 1988, tr. 215

9. Trần Thái Tông, Khoá Hư Lục (Đào Duy Anh phiên dịch và chú giải), Nxb khoa học xã hội, Hà Nội 1974, tr.43

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
07 Tháng Bảy 2019(Xem: 3830)
13 Tháng Mười 2016(Xem: 5891)
22 Tháng Ba 2016(Xem: 5370)
Tổng quan Nghiên cứu về hòa bình cả ở cấp độ lý thuyết lẫn thực tế đã được tăng cường do tầm quan trọng đương thời của nó. Việc tìm kiếm các biện pháp thúc đẩy hòa bình và hòa hợp đóng vai trò then chốt trong xã hội toàn cầu do bạo lực và các xung đột do con người gây ra ngày một gia tăng. Do vậy mà có cả các nghiên cứu về hòa bình ở các khía cạnh khác nhau như chính trị và tôn giáo, và ở các cấp độ khác nhau như quốc gia và khu vực.