Kinh Chế Ngự Phẫn Nộ

13 Tháng Sáu 201415:26(Xem: 5400)
KINH PHÁP CÚ HÁN TẠNG
Thích Nhất Hạnh dịch

Phẫn Nộ Phẩm Pháp Cú Kinh đệ nhị thập ngũ

忿怒品法句經第二十五

Kinh Chế Ngự Phẫn Nộ

Dịch từ kinh Pháp Cú trong Hán tạng

Kinh thứ 25

 

Phẩm này có 26 bài kệ. Tiếng Pali, kodha là sự giận dữ. Kinh này cho ta thấy nhẫn nhục là sức mạnh lớn nhất, là sự chiến thắng vinh quang nhất, là quà tặng quý nhất. Khi một chiếc xe đang bon bon tuột dốc mà người lái xe làm cho xe dừng lại được, thì đó mới là một người lái xe giỏi. Chế ngự được cơn giận cũng như thế, đó là hình ảnh trong bài kệ thứ 3.

Các bài kệ thứ 7, 12, 13, 14 và 15 cho biết cần phải duy trì chánh niệm (sự tỉnh thức) để quán sát và bảo hộ thân, miệng và ý. Làm được như thế, ta có thể nhiếp phục được tâm mình và buông bỏ được hờn giận, chế tác được năng lượng nhẫn nhục rất hùng tráng.

Cái đam mê thường đi đôi với cái sân hận, cho nên ta phải biết đối trị cái si mê cùng lúc với cái sân hận. Cái hiểu và cái thương do chánh niệm đem lại có thể làm phát sinh năng lượng nhẫn nhục. Với nhẫn nhục, ta chiến thắng được cái giận trong ta và giúp được người kia. Bị giận mà không giận lại, đó là kẻ chiến thắng, chiến thắng bằng cái hiểu và cái thương. Cái im lặng của người chiến thắng là một thứ im lặng hào hùng. Đó là ý của hai bài kệ chót.

 

Bài kệ 1

Phẫn nộ bất kiến Pháp 忿 怒 不 見 法

Phẫn nộ bất tri đạo 忿 怒 不 知 道

Năng trừ phẫn nộ giả 能 除 忿 怒 者

Phước hỉ thường tùy thân 福 喜 常 隨 身

 

Phẫn nộ thì không thấy Pháp, không biết đạo

Trừ được phẫn nộ thì hạnh phúc và niềm vui sẽ đi theo ta.

 

Bài kệ 2

Tham dâm bất kiến Pháp 貪 婬 不 見 法

Ngu si ý diệc nhiên 愚 癡 意 亦 然

Trừ dâm khứ si giả 除 婬 去 癡 者

Kỳ phước đệ nhất tôn 其 福 第 一 尊

 

Tham dục thì không thấy Pháp, si mê cũng như thế

Trừ được tham và si, đó là phước đức lớn nhất.

Bài kệ 3

Khuể năng tự chế 恚 能 自 制

Như chỉ bôn xa 如 止 奔 車

Thị vi thiện ngự 是 為 善 御

Khí minh nhập minh 棄 冥 入 明

 

Chế ngự được cơn giận thì cũng như thắng lại được cỗ xe khi nó đang bon bon tuột dốc. Chỉ có người lái xe giỏi mới làm được như thế. Làm được như thế thì ra khỏi được vùng tăm tối và đi được vào vùng ánh sáng.

 

Bài kệ 4

Nhẫn nhục thắng khuể 忍 辱 勝 恚

Thiện thắng bất thiện 善 勝 不 善

Thắng giả năng thí 勝 者 能 施

Chí thành thắng khi 至 誠 勝 欺

 

Nhẫn nhục thắng được sân nhuế, cái lành thắng được cái dữ. Người thắng là kẻ có khả năng hiến tặng. Cái thành thật có thể thắng được cái lừa dối.

 

Bài kệ 5

Bất khi bất nộ 不 欺 不 怒

Ý bất đa cầu 意 不 多 求

Như thị tam sự 如 是 三 事

Tử tắc thượng thiên 死 則 上 天

 

Không lừa dối, không giận dữ, tâm ý không tham cầu. Có được ba cái ấy thì khi chết thế nào cũng được sinh lên các cõi trên.

 

Bài kệ 6

Thường tự nhiếp thân 常 自 攝 身

Từ tâm bất sát 慈 心 不 殺

Thị sanh thiên thượng 是 生 天 上

Đáo bỉ vô ưu 到 彼 無 憂

 

Thường tự nhiếp phục tự thân, có tâm từ bi không sát hại, thì sẽ được sinh lên các cõi trời và qua tới bờ vô ưu.

 

Bài kệ 7

Ý thường giác ngụ 意 常 覺 寤

Minh mộ cần học 明 慕 勤 學

Lậu tận ý giải 漏 盡 意 解

Khả trí nê hoàn 可 致 泥 洹

 

Tâm ý thường tỉnh giác, mến chuộng ánh sáng, biết tinh cần tu học thì các lậu sẽ chấm dứt và đạt tới Niết bàn.

 

Bài kệ 8

Nhân tướng báng hủy 人 相 謗 毀

Tự cổ chí kim 自 古 至 今

Ký hủy đa ngôn 既 毀 多 言

Hựu hủy nột nhẫn 又 毀 訥 忍

Diệc hủy trung hòa 亦 毀 中 和

Thế vô bất hủy 世 無 不 毀

 

Từ xưa tới nay bao giờ cũng thế, người đời thường ưa chê trách và hủy báng nhau. Nói nhiều cũng bị chê trách, nói ít cũng bị chê trách, không nói cũng bị chê trách. Ở đời không ai là không bị chê bai.

 

Bài kệ 9

Dục ý phi Thánh 欲 意 非 聖

Bất năng chế trung 不 能 制 中

Nhất hủy nhất dự 一 毀 一 譽

Đãn vi lợi danh 但 為 利 名

Hễ còn dục ý thì chưa phải là Thánh nhân, không có khả năng tự chế ngự và cứ bị lên xuống hoặc theo lời khen chê của kẻ khác. Tất cả đều do tâm lợi danh mà sinh ra cả.

 

Bài k10

Minh trí sở dự 明 智 所 譽

Duy xưng thị hiền 唯 稱 是 賢

Tuệ nhân thủ giới 慧 人 守 戒

Vô sở ky báng 無 所 譏 謗

 

Kẻ có trí tuệ thì biết giữ giới, biết ngợi khen các bậc minh triết, biết xưng tụng các bậc hiền giả, không nói những lời phỉ báng.

 

Bài k11

Như La hán tịnh 如 羅 漢 淨

Mạc nhi vu báng 莫 而 誣 謗

Chư nhân tư ta 諸 人 咨 嗟

Phạm Thích sở xưng 梵 釋 所 稱

 

Người trong sạch như bậc A la hán, đừng nên phỉ báng. Chính Chư Thiên, Phạm Vương và Đế Thích cũng còn xưng tán người ấy nữa là.

 

Bài k12

Thường thủ thận thân 常 守 慎 身

Dĩ hộ sân khuể 以 護 瞋 恚

Trừ thân ác hành 除 身 惡 行

Tấn tu đức hạnh 進 修 德 行

 

Phải cẩn trọng giữ gìn hình hài của mình để có thể đối phó với tâm niệm sân hận của mình. Chấm dứt các ác hành của thân thì sẽ tiến tu được về mặt đức hạnh.

 

Bài kệ 13

Thường thủ thận ngôn 常 守 慎 言

Dĩ hộ sân khuể 以 護 瞋 恚

Trừ khẩu ác ngôn 除 口 惡 言

Tụng tập Pháp ngôn 誦 習 法 言

Phải thận trọng giữ gìn lời nói của mình để có thể đối phó với tâm niệm sân hận của mình, chấm dứt được những ác hành của khẩu và khi nói năng chỉ sử dụng ngôn từ chánh pháp.

 

Bài k14

Thường thủ thận tâm 常 守 慎 心

Dĩ hộ sân khuể 以 護 瞋 恚

Trừ tâm ác niệm 除 心 惡 念

Tư tánh niệm đạo 思 惟 念 道

 

Phải thận trọng giữ gìn tâm tư của mình để đối phó với tâm niệm sân hận của mình, chấm dứt được những ác niệm của tâm và thực tập tư duy, quán niệm về Đạo đế.

Bài k 15

Tiết thân thận ngôn 節 身 慎 言

Thủ nhiếp kỳ tâm 守 攝 其 心

Xả khuể hành đạo 捨 恚 行 道

Nhẫn nhục tối cường 忍 辱 最 強

 

Để có khả năng chế ngự được hình hài, để biết thận trọng khi nói năng, nhiếp phục tâm mình, buông bỏ sân hận và hành đạo, thì nhẫn nhục là phương pháp hùng tráng nhất.

 

Bài k 16

Xả khuể ly mạn 捨 恚 離 慢

Tị chư ái hội 避 諸 愛 會

Bất trước danh sắc 不 著 名 色

Vô vi diệt khổ 無 為 滅 苦

 

Buông bỏ sân hận, lìa xa kiêu mạn, tránh xa tham ái, không vướng vào danh và vào sắc thì có thể đạt tới vô vi diệt khổ.

 

Bài k17

Khởi nhi giải nộ 起 而 解 怒

Dâm sanh tự cấm 婬 生 自 禁

Xả bất minh kiện 捨 不 明 健

Tư giai đắc an 斯 皆 得 安

 

Cởi bỏ được phẫn nộ, chận đường được tham dục, buông bỏ được si mê, những cái ấy đưa mình tới an ổn.

 

Bài kệ 18

Sân đoạn ngọa an 瞋 斷 臥 安

Khuể diệt dâm ưu 恚 滅 婬 憂

Nộ vi độc bổn 怒 為 毒 本

Nhuyễn ý Phạm chí 軟 意 梵 志

Ngôn thiện đắc dự 言 善 得 譽

Đoạn vi vô hoạn 斷 為 無 患

 

Diệt trừ được sân hận sẽ có giấc ngủ an lành. Sân hận diệt trừ thì không còn lo lắng. Sân hận là gốc rễ của mọi độc hại. Người tu thì luôn mềm mỏng dễ thương. Nói lời lành thì luôn luôn được khen ngợi và sẽ không bao giờ đem lại tai họa.

Bài k19

Đồng chí tướng cận 同 志 相 近

Tường vi tác ác 詳 為 作 惡

Hậu biệt dư khuể 後 別 餘 恚

Hỏa tự thiêu não 火 自 燒 惱

 

Những người cùng có chí hướng thì cảm thấy gần nhau. Họ biết rõ ràng rằng làm việc thất đức thì thế nào sau này cũng gây ra hận thù, và cái lửa hận thù đó sẽ trở lại thiêu đốt tự thân mình.

 

Bài k20

Bất tri tàm quý 不 知 慚 愧

Vô giới hữu nộ 無 戒 有 怒

Vi nộ sở khiên 為 怒 所 牽

Bất yếm hữu vụ 不 厭 有 務

 

Kẻ không biết hổ thẹn và không trì giới thì khi cơn giận nổi lên sẽ kéo họ đi theo, bị nó sai sử, như đi trong đêm mà mất cây đèn soi.

Bài k21

Hữu lực cận binh 有 力 近 兵

Vô lực cận nhuyễn 無 力 近 軟

Phu nhẫn vi thượng 夫 忍 為 上

Nghi thường nhẫn luy 宜 常 忍 羸

Có sức thì ưa sử dụng binh khí, không có sức thì cần tới sự mềm dẻo. Nhẫn nhục là trên hết, vì vậy phải học nhẫn nại.

 

Bài k22

Cử chúng khinh chi 舉 眾 輕 之

Hữu lực giả nhẫn 有 力 者 忍

Phu nhẫn vi thượng 夫 忍 為 上

Nghi thường nhẫn luy 宜 常 忍 羸

 

Nâng lên một vật nặng mà vẫn thấy nhẹ, người đã có sức mạnh mà lại có nhẫn lực nữa thì thấy nhẫn nhục là không có gì cao hơn. Vì vậy, phải biết thường xuyên nhẫn nại.

 

Bài k23

Tự ngã dữ bỉ 自 我 與 彼

Đại úy hữu tam 大 畏 有 三

Như tri bỉ tác 如 知 彼 作

Nghi diệt kỷ trung 宜 滅 己 中

 

Giữa ta và người kia có ba cái sợ lớn: hoặc mình, hoặc người kia, hoặc cả hai sẽ bị tổn thất bởi cái giận. Do đó, nếu ta biết được là người kia đang giận thì ta phải dập tắt cái giận trong ta. Tuy bị thiên hạ coi nhẹ, bậc có nhẫn là người có thực lực. Có nhẫn là không ai hơn được. Do đó, phải luôn luôn thực tập nhẫn hay hơn nữa để mà chiến thắng.

 

Bài kệ 24

Câu lưỡng hành nghĩa 俱 兩 行 義

Ngã vi bỉ giáo 我 為 彼 教

Như tri bỉ tác 如 知 彼 作

Nghi diệt kỷ trung 宜 滅 己 中

 

Nếu cả hai bên đều thực tập được như thế, thì là người thực tập ta giúp được người kia, nếu ta biết được người kia đang giận thì ta phải dập tắt cái giận trong ta trước đã.

 

Bài k 25

Khổ trí thắng ngu 苦 智 勝 愚

Thô ngôn ác thuyết 麤 言 惡 說

Dục thường thắng giả 欲 常 勝 者

Ư ngôn nghi mặc 於 言 宜 默

 

Người ngu nghĩ có thể thắng người trí bằng những lời thô ác của mình. Nếu mình muốn thắng kẻ ấy thì cách hay nhất là mình im lặng.

 

Bài kệ 26

Phu vi ác giả 夫 為 惡 者

Nộ hữu nộ báo 怒 有 怒 報

Nộ bất báo nộ 怒 不 報 怒

Thắng bỉ đấu phụ 勝 彼 鬪 負

 

Thường thì kẻ vũ phu khi bị giận thì giận trở lại. Cái giận này đem tới cái giận kia. Bị giận mà không giận lại thì mình là kẻ thắng.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
07 Tháng Mười Một 2023(Xem: 712)
27 Tháng Chín 2022(Xem: 82764)
Lúc đầu, kinh điển Phật giáo gồm hai bộ chính là “kinh” (sutra) và “luật” (vinaya): “Kinh” ghi lại giáo lý của Đức Phật, “Luật” là những giới luật mà Đức Phật đã chế định cho hàng tăng nhân tu hành tại các tự viện. Về sau này có thêm những lời chú giải về kinh và luật đó, và được gọi chung là “luận” (abhidharma), kết quả là có ba bộ sách gồm kinh, luật, và luận, tức là “Tam Tạng” (Tripitaka). Dần dần xuất hiện những dị biệt trong những lời giải thích về giáo lý của Đức Phật và giới luật của tự viện; và, điều đó gây ra sự phân rẽ trong cộng đồng Phật giáo, đưa tới sự phân chia thành hai bộ phái chính yếu đó là Thượng Tọa Bộ (Therevada) có tinh thần bảo thủ và Đại Chúng Bộ (mahasamghika) có tinh thần cấp tiến. Mỗi bộ phái có một bộ kinh điển riêng, được coi là chính thức bao gồm những quan điểm của mỗi phái.
16 Tháng Chín 2020(Xem: 5210)
20 Tháng Tám 2018(Xem: 7043)