Phần thứ sáu

19 Tháng Chín 201415:46(Xem: 5298)
Phạm Thiên Thư
KINH HIỀN
HỘI HOA ĐÀM
Thi Hóa Tư Tưởng Kinh Hiền Ngu
Cơ sở Văn Chương Sài Gòn xuất bản lần thứ nhất năm 1973
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP. HCM tái bản năm 2014
    
51.    Một lòng trợ đạo       
52.    Vì đức quên thân       
53.    Cá ba đầu       
54.    Chúa tiên cúng Phật       
55.    Thiên tán ca

51.    Một lòng trợ đạo  

Nhớ xưa vùng ngát hương cau,
Nơi dinh cơ bậc sang giàu vô song.
Là ngài Tu-đạt chính trung,
Phò vua giúp nước cường hùng một phương.
Ngài thường trải rộng lòng thương,
Giúp người cô độc vất vương bụi bờ.
Lại dành riêng cảnh nên thơ,
Cho ai đau ốm nương nhờ nghỉ ngơi.
Ông còn khuyến hóa nơi nơi,
Bớt phần xa xỉ giúp đời ấm no.
Nêu gương ông phát giống mùa,
Và thường cấp vốn bán mua khắp thành.
Hết lòng săn sóc dân sinh,
Cứu người thương vật vang danh hiền tài.
Lòng ông như ngọc sáng ngời,
Tu nhân tích đức suốt đời làm gương.
Sinh con nối dõi tông đường,
Bốn chàng hiếu đễ kính thương cha già.
Đều nên thao lược tài ba,
Rõ ràng phong độ nếp nhà công khanh.
Ba trai sớm kết duyên lành
Cùng ba kiều nữ đoan trinh trong miền.
Thêu thùa khéo léo tay tiên,
Nết na dâu thảo vợ hiền tiếng thơm.
Sắc tài sóng bước keo sơn,
Như hoa hạnh phúc trong vườn lứa đôi.
Ba con lớn vẹn duyên rồi,
Riêng người con út chưa nơi hẹn hò.
Ông nhờ bạn thiết giúp cho,
Kén nơi hiền đức liệu so tơ hồng.
Bạn ông vui tính rộng lòng,
Nhận là từ đó ra công kiếm tìm.
Tìm người tài sắc chính chuyên,
Khó khăn mấy cũng chẳng phiền ngại chi.
Dù nơi xóm cúc thôn lê,
Hết qua phố trúc lại về làng mai.
Nghe đâu thục nữ anh tài,
Làm quen bằng được tới nơi xem là.
Xét từ ngôn hạnh dung hoa,
Xét từ dòng dõi nết na mọi phần.
Từ đi kể cả trăm lần,
Chưa tìm được một mỹ nhân vẹn toàn.
Nghĩ mình kết phượng nối loan,
Thâm giao bạn đã một lòng cậy trông.
Vậy nên ta phải hết lòng,
Tìm sao bằng được đóa hồng thiên hương.
Vó lừa đủng đỉnh dặm sương,
Chòm râu lấm tấm bụi vương ngả màu.
Chiều kia đến một nương dâu,
Vượt dòng suối bạc qua cầu tre lam.
Chợt ông nhận thấy có nàng
Nghiêng mình giặt lụa dưới hàng liễu tơ.
Suối chiều lãng đãng khói mờ,
Ráng hồng theo gió cũng hờ hững bay.
Thấy ông thiếu nữ ngừng tay
Nhìn lên. Ông tưởng cõi này thêm hoa
Bóng nàng biêng biếc sương pha,
Tóc nàng như thể mây qua bồng bềnh.
10.700.  Mặt nàng như ửng nụ xuân,
Môi tươi khoé lý, tay ngần búp lan.
Thấy già đứng ngựa cầu lam,
Nàng thưa: “cụ ở đâu sang vùng này?
Chắc là cụ kiếm ai đây,
Sơn thôn khuất lạc đường mây còn tìm?”
Lão đùa “ta đi kiếm chim,
Chim bay ta biết hỏi tìm nơi mô!
Vó lừa rong ruổi sớm trưa,
Biết đâu chim đó chẳng qua cõi này.
Loài chim hót giọng ngất ngây,
Một lần nghe, mãi bao ngày khôn quên.
Loài chim tuy chẳng biết tên,
Thoáng nghe tiếng hót mà phiền não tan.
Bây giờ sông Bắc đồi Nam,
Lòng già đã quyết tìm đàn chim kia.
Chẳng hay con đã từng nghe
Tiếng chim nào mát như che lòng người?”
Nàng thưa “tăm cá chim trời,
Sớm vui đồng cỏ chiều rời non hoa.
Vị gì một tiếng thiết tha,
Tỉnh mê cũng ở lòng ta chẳng ngoài.
Cháu xin cụ chớ u hoài,
Dù cho tìm khắp trần ai thấy gì.
Nếu tìm chân tướng tham si,
Nếu tìm đạo lý từ bi giúp đời,
Còn hơn đuổi bóng chim trời,
Cưu mang ảo giác tuyệt vời tiếng ca.”
Lời nàng như tỉnh lòng già,
Nghe xong đã biết ngọc hoa rõ ràng.
Ngờ đâu giữa chốn sơn trang,
Tình cờ lại gặp kho tàng minh châu.
Lão vờ than: “chốn nương dâu,
Đêm nay biết trú nhờ đâu tạm thời?”
Nàng thưa “vậy cháu xin mời,
Nếu cụ chẳng nệ những nơi nghèo nàn.”
Bước chân thoăn thoắt dẫn đàng,
Qua cồn dâu đẫm mây vàng chiều hôm.
Đưa về ven núi sơn thôn,
Vách mây lờ lững, lau cồn lô xô.
Chim thưa tiếng rụng mơ hồ,
Dẫn vào dưới mái cỏ bồ đơn sơ.
Cha nàng mái tóc như tơ,
Dưới hoa bày dở ván cờ tiêu dao.
Đôi bên tương kính mừng chào,
Cũng người cốt cách thanh cao khác thường.
Hỏi ra, xưa ở phố phường,
Khinh đời lắm chuyện nhiễu nhương bỏ về.
An bần lạc đạo chốn quê,
Thong dong ngày tháng đề huề gió trăng.
Ở đây khoảng đã mười năm,
Với nàng gái út Ngọc Hằng đó thôi.
Tháng ngày thanh thản yên vui,
Dạy con giữ lấy đức người hiền lương.
Ngọc Hằng đã nổi tiếng ngoan,
Hầu cha, săn sóc ruộng vườn sớm hôm.
Càng nghe được rõ ngọn nguồn,
Khách càng thêm quý mến hơn nhiều phần.
Ở thêm vài buổi làm thân,
Trước sau đẹp ý xa gần mới thưa.
Thấy nơi xứng hợp duyên tơ,
Lão ông nghe cũng mừng cho con mình.
Thế là khách trở lại kinh,
Tháng sau xe ngựa linh đình dẫn sang.
Lễ nghi trang trọng cưới nàng,
Giữa nơi hoa cỏ sơn trang hẹn hò.
Rước dâu về đến thành đô,
Hoa tung lối ngõ mơ hồ nhã ca.
Ngọc Hằng từ kiệu bước ra,
Tưởng chừng ở chốn cung nga lạc về.
Một đôi ngọc sánh hoa kề,
Hai người đi dưới ngõ lê trắng ngời.
Tóc huyền theo gió buông lơi,
Sợ hoa thẹn dáng, ngại trời e hương.
Thế rồi chắp cánh uyên ương,
Vườn xuân mở cõi thiên đường trăm hoa.
Từ thêm dâu quý về nhà,
Ông Tu-đạt lại càng là thi ân.
Mở kho lớn, tặng chúng dân,
Tạ ơn trời đất ban phần cao sang.
Ngọc Hằng những lúc rảnh rang,
Thường dạy người dưới khâu đan thêu thùa.
Một chiều, ông dạo vườn hoa,
Tiếng đâu ấm ngọt nghe qua lạnh mình.
Con dâu đang giảng lẽ kinh,
Lời như gột sạch vô minh cát lầm.
Ghé qua thấy cạnh đỉnh trầm,
Hằng đang dạy bảo hàng trăm thị tỳ.
Nào là cách diệt tham si,
Nào là bình đẳng từ bi lẽ mầu.
Nghe toàn nghĩa lý cao sâu,
Đạo này chẳng hiểu từ đâu truyền vào.
Thấy cha thấp thoáng song đào,
Nàng ra khép nép cúi chào lão thân.
Ông rằng “ta đang phân vân,
Vì nghe thuyết giảng trăm phần lạ tai.
Chẳng hay con học nơi ai
Mà thông lý đạo tuyệt vời biết bao?”
Nàng thưa “đức Phật tối cao,
Bên thành La-duyệt như hào quang soi.
10.800.  Hiện về giáo hóa trời người,
Tình thương rộng nở thắm tươi muôn vàn.
Năm xưa, cha con tìm sang,
Cho con theo đến dâng nhang đạo trường.
Thật là mầu nhiệm dị thường,
Tiếng Ngài khai mở trăm đường trí bi.
Lời trong như suối lưu ly,
Phá tan tập kiến tham si cõi lòng.
Đưa về mối đạo trắng trong,
Như ao sen nở cánh bông thơm ngần.
Vua, quan, cho đến tiện nhân,
Theo về tu học chẳng phân sang hèn.”
Ông rằng “cha đã nghe tên
Đức ngài trải rộng muôn miền gần xa.
Nhưng cha chưa có kịp qua.”
Nàng thưa “nếu gặp Phật-đà nghe kinh,
Là đi tìm gặp chính mình,
Bước chân vượt cõi giả hình tù giam.
Dù cho vô lượng ngọc vàng,
Chẳng bằng chân bước qua đàng vọng mê.”
Lời con như gió thoảng về,
Lòng ông quyết đến nước kia cầu hiền.
Đêm nằm mơ thấy chư tiên
Từ cung trời xuống quanh miền gieo hoa.
Dựng lên san sát muôn tòa
Lầu vàng gác ngọc như là thiên cung.
Tàn hoa, phướn gấm trùng trùng,
Lại thêm quỉ dữ khắp vùng reo vui.
Mừng rằng pháp Phật diệu vời
Khiến cho muôn loại thoát nơi ngục tù.
Từ đây nơi cõi Diêm-phù
Rạng thêm trí tuệ thiên thu sáng ngời.
Pháp vương mỗi ý mỗi lời,
Là hoa mười cõi tuyệt vời trổ bông.
Giật mình, trời đã hừng đông,
Ra đi ngựa vượt mây hồng non cao.
Hành trình hơn một tháng sau,
Tu-đạt đã đến rừng đào thành La.
Ông vào dưới mái nhà hoa,
Gió trầm hương lẫn chim ca diệu kỳ.
Chung quanh người khoác hoàng y,
Thanh cao ánh mắt, từ bi nụ cười.
Ngồi trên chõng trúc một người,
Uy nghi phúc tướng tuyệt vời thế gian.
Dường như cảm ánh từ quang,
Chim rừng cất tiếng cây ngàn trổ hoa.
Mắt ngài trìu mến thiết tha,
Lời như gió thoảng đưa qua rừng trầm.
Lòng ông gội sạch mê lầm,
Dưới thềm thấm giọt từ âm tỉnh người.
10.850.  Nghe xong, lễ Phật, thỉnh mời,
Đón sang Xá-vệ là nơi cõi ngoài.
Nguyện về thiết lập pháp đài,
Dựng nhà tinh xá, rước Thầy qua sau.
Thỉnh xong, từ tạ cúi đầu,
Lên yên giục ngựa qua cầu mây xanh.
Núi xa như mở quách thành
Cheo leo đường cũ tươi nhành sương un.
Về phương lởm chởm mây đùn,
Ngựa tung vó tuyết cũng vùn vụt qua.
Mùa sau đã tới quê nhà,
Cỏ cây hớn hở, trẻ già mừng vui.
Đức vua cũng ngự tới nơi,
Hỏi xem Phật có như lời xưa nay.
Hàn huyên tôi chúa bàn ngay,
Quyết lòng hóa chuyển cõi này từ bi.
Ông tìm đất nọ đất kia,
Làm tinh xá đón Phật về hóa duyên.
Đã tìm khắp cả quanh miền,
Chẳng đâu là được như niềm ước mong.
Sau cùng còn đất cửa Đông
Có đồi có suối đơm hồng trăm hoa.
Là vườn thái tử Kỳ-đà,
Làm sao chuốc được để mà hiến dâng.
Đất này thái tử ưng dùng,
Bao năm gìn giữ chẳng từng nhượng ai.
Quyết lòng ông cứ sang chơi,
Hỏi mua vườn để dựng đài truyền hương.
Kỳ-đà thách: “tôi sẽ nhường
Cho ai đem trải kín vàng đất kia.”
Tưởng ông thất vọng trở về,
Ai ngờ sáng dậy bốn bề vàng tươi.
Mênh mang mấy dặm chói ngời
Phủ trên vườn nọ như lời ước giao.
Kỳ-đà kinh ngạc biết bao,
Chẳng hay oai đức vị nào gớm ghê.
Khiến ngài Tu-đạt thôn kia
Phát tâm dâng cúng, chẳng nề vong gia.
Giờ còn muôn gốc đào hoa,
Mình xin dâng nốt, vậy là xong xuôi.
Để chung công đức với người
Dựng đàn, tìm được một nơi như lòng.
Tu-đạt hoan hỉ vô cùng,
Rồi đêm mơ thất một vùng hồng soi.
Bao nhiêu thần thánh quanh người
Đốt hương khen tặng bao lời ngợi ca.
Sáng sau phơn phớt mây pha,
Hoa đâu rụng xuống quanh nhà như mưa.
Kẻ hầu vào khẽ quì thưa:
“Có người xa đến áo như mây hường…”
10.900.  Ông ra phòng khách vội vàng,
Thấy ngài Xá-lợi-phất đang ngồi chờ.
Phật cho đệ tử Phật qua
Giúp ông trong việc dựng tòa trầm nhang.
Tin hay đi khắp nẻo đàng.
Bây giờ ngoại đạo xốn xang vào hùa.
Đến xin yết kiến nhà vua,
Xin ngăn Tu-đạt dựng chùa núi Đông.
Lại đòi tỉ thí thần thông,
Nếu Phật không thắng thì không được vào.
Dù cho rằng đạo thế nào,
Cũng xin đọ thử thấp cao mới rồi.
Chìu dân, vua cũng thuận lời,
Định ngày tỉ thí cho mời đôi bên.
Ngoài thành truyền dựng đài lên,
Đến kỳ đại biểu hai bên trổ tài.
Hôm sau khai mở lễ đài,
Thành trong cho đến thôn ngoài kéo xem.
Ngoại đạo quyết lòng đua chen
Phô trương thanh thế múa men đủ trò.
Thôi thì tiếng nhỏ tiếng to,
Áo quần loè loẹt quanh lò hương bay.
Bỗng dưng thấy chiếc tàn mây
Che ngài Xá-lợi dưới đài bước lên.
Đạo trường bốn phía lặng yên,
Ngẩn trông oai đức trang nghiêm khác thường.
Nắng pha sắc áo mây hường,
Lưng trời thêm chiếc tàn hương lạ kỳ.
Hiền hòa, giải thoát dung nghi,
Hào quang theo bước chân đi tỏa ngời.
Khắp phương ngoại đạo rụng rời,
Lúc sau mới cử một người tài ba
Thổi lên lớp lớp mù sa,
Tàn mây kia bỗng hóa ra mặt trời.
Tỏa soi khắp cả nơi nơi,
Mù sương tan loãng thành hơi biến dần.
Lạ thay định lực oai thần,
Lòng người như sạch bụi trần thênh thang.
Thuật tà đó mới bị tan,
Lại người niệm chú hóa tàn cây cao.
Mặt trời giờ hiện tán đào,
Thân cây thành cán xuyên vào nghiêng che.
Hai lần pháp bị phá đi,
Thấy lo, ngoại đạo thầm thì bàn quanh.
Cử ra một gã áo xanh,
Khoa tay niệm chú phi hành cưỡi mây.
Tàn đào thành lưới bủa vây,
Tên kia nhảy xuống mặt mày xám tro.
Lại người nổi trận gió to,
Lưới kia lập tức hóa lò hương thơm.
10.950.  Gió đưa trầm ngát mười phương,
Thuật tà liền hóa thiên đường trên mây.
Như tuồng ngọc dát vàng xây,
Khiến cho đại chúng ngất ngây hướng nhìn.
Tự nhiên nơi mỗi con tim,
Tàn mây đã hóa muôn nghìn cõi tiên.
Khiến lòng tự tại an nhiên,
Mỗi người là một cõi miền thánh linh.
Bọn tà hô hoán âm binh,
Hiện ra địa ngục muôn hình khảo tra,
Thì trong tim mỗi người ta,
Hàng hàng Bồ-tát hiện ra cứu đời.
Địa ngục kia hóa cõi trời,
Vạc dầu lại hóa thành hơi tịnh trầm.
Tiếng than là giải thoát chuông,
Thần âm chuyển khắp mười phương tỉnh người.
Ngoại đạo im tiếng im lời,
Phóng ra mấy mũi dao ngời ánh quang.
Tự nhiên dao hóa sen vàng,
Búp hoa kết lại dâng làn hương bay.
Lưng trời giờ chiếc tàn mây,
Thành mưa trải khắp trong ngoài hân hoan.
Khiến cho hận dịu sầu tan,
Bây giờ ngoại đạo qui hàng về theo.
Nắng mai rực rỡ y điều,
Thinh không vẳng tiếng hạc kêu tuyệt vời.
Cánh như mây nổi chơi vơi,
Mấy dòng bay lượn giữa trời cao xanh.
Xá-lợi ngồi thuyết đạo lành,
Khiến chim cũng tụ trên cành hòa ca.
Nhà vua truyền cử long xa
Đón mời quốc khách về nhà cúng trai.
Lễ đường hoa kết trầm bay,
Cầu nghe chính pháp sâu dầy mênh mông.
Vây quanh vóc tía dung hồng,
Quần thần hoàng tộc đầy phòng uy nghi.
Xin theo ngũ giới tam quy,
Rồi vua ân xá, đền nghì đạo sư.
Lại truyền dựng chỗ an cư,
Kỳ-hoàn soi ánh chân như từ rày.
Đạo tràng xanh biếc ngàn mây,
Lưng non suối nhỏ vơi đầy thần âm.
Nào là san sát lầu trầm,
Nào sàn vân tập, nào đầm niệm hoa.
Trong khi coi dựng đạo tòa,
Một hôm Tu-đạt thấy lòa hào quang.
Hiện ra gác ngọc lầu vàng,
Trang nghiêm đủ vẻ cao sang diệu kỳ.
Vì ngài Xá-lợi đứng kề,
Đang dùng tuệ nhãn bốn bề chiếu soi.
11.000.  Khiến cho ông thấy từng trời,
Hiện ra cảnh giới chơi vơi điện đài.
Lại nghe vẳng tiếng bên tai
“Phước người dâng cúng Như Lai một lòng.
Cung trời cũng lập vừa xong,
Chờ ngài thí chủ trắng trong từ giờ.”
Tu-đạt lặng ngắm ngẩn ngơ,
Bâng khuâng như một giấc mơ trải dài.
Hẳn đây tiên cảnh Bồng Lai,
Cửa niêm phiến ngọc, mây gài then hương.
Quanh quanh gò tía dặm hường,
Suối thu lẩn khúc, cầu sương nhịp mờ.
Thinh không hạc lượn vật vờ,
Như dòng thơ cổ trên tờ phấn tiên.
Gió đùa cỏ nội hoa triền,
Tưởng muôn tấm lụa thiên nhiên dải màu.
Sương xanh kết mấy nhịp cầu,
Tiếng chim là nước nhiệm mầu xuôi nhanh.
Vườn trầm bướm ngẩn ngơ quanh,
Hoa leo kết ghế bên thành hồ sương.
Núi quanh chỏm tía đỉnh hường,
Đường cheo leo cát kim cương nạm ngời.
Tu-đạt tỉnh giấc chơi vơi,
Nào đâu cảnh giới tuyệt vời vừa qua.
Lạ lùng mới hỏi nguyên do:
“Xin thầy lân mẫn giảng cho việc này.
Rõ ràng lầu cuộn tầng mây,
Con vừa ngồi giữa hương vây hoa ngàn.
Hóa ra vẫn ở Kỳ-hoàn,
Bên thầy dưới gốc mai vàng gió lay.
Vẫn là nơi một thân này,
Là đâu hư thực, xin thầy dạy cho.”
Sư rằng “khắp cõi Diêm-phù
Khác chi một dải sương mù ban mai.
Dù cho muôn sự muôn loài,
Cũng là vọng thức hiện bày nghiệp riêng.
Chân tâm mầu nhiệm thiêng liêng,
Dung thông vũ trụ chẳng miền cách chia.
Nghiệp ông là cõi trời kia,
Ý là lầu các vừa kề phút giây.
Khẩu là hoa nở trầm mây,
Thân là cõi giới hiện bày hào quang.
Tâm sinh vạn pháp mây vàng,
Thể như nước hiện vô ngàn sóng xô.
Một khi vượt huyễn mê đồ,
Thì như trăng nước đáy hồ lặng soi.
Hóa hình đến khắp nơi nơi,
Thần thông du hí cung trời gần xa.
Mười phương trong một sát-na,
Ứng thân đi trải hương hoa cúng dường.
11.050.  Hoặc làm mây diễn vô thường,
Hoặc làm mưa diễn đạo thường luân lưu.
Hoặc làm đất thảm hoa thêu,
Hoặc làm gió cuộn dập dìu chim ca.
Đều do tâm thể hóa ra
Trang nghiêm Phật quốc như là một thân.
Đức ông vô lượng vô ngần,
Trợ đạo giải thoát, giúp dân vẹn lòng.
Khiến nên tâm thức sạch trong,
Cõi trời vừa nở một bông hoa thần.
Biến ra lầu các mây vần,
Cũng tùy thiện lực tinh cần hóa sinh.
Ông xưa từng đã quên mình,
Cõi trời đã tự dứt tình bao phen.
Nguyện vào trần thế đua chen,
Làm nhà, thỉnh Phật, đạo hiền trợ khai.
Vào ra nơi cõi đất này,
Sáu lần theo Phật dựng xây đạo trường.
Từ Tỳ-bà-thi pháp vương
Đến Phật Ca-diếp chân thường như lai
Cũng từ nơi cõi đất này
Ông từng dựng tháp xuyên mây cúng dàng.
Trải qua mấy kiếp trần hoàn,
Bây giờ lại dựng đạo tràng trí bi.
Còn như những kẻ tham si,
Chấp mê nghiệp cảnh khác chi kiến này.
Một đàn quanh quẩn nơi đây,
Đã qua vô lượng khói mây đổi dời.
Kiến này vẫn tụ một nơi,
Tan tan hợp hợp bao đời long đong.
Thôi thì mẹ mẹ con con,
Sống nhờ hoa cỏ trái non rụng rời.
Thương thay biết đến bao đời
Mới đà thoát khỏi kiếp nơi côn trùng.
Kẻ mê trong cõi mịt mùng
Bo bo ôm lấy nghiệp chung chẳng dời.
Đã may sinh ở cõi người,
Chẳng tu thiện nghiệp thoát nơi luân hồi.
Ngàn năm dễ gặp được thời
Đức Phật thị hiện cứu đời lầm mê.
Trần gian một cõi Bồ-đề chở che.”
Tu-đạt cung kính hầu nghe
Lời thiền sư tỉnh giấc mê trường đời.
Thế rồi vừa một tháng trời,
Vườn Kỳ dựng đủ năm mươi ngôi nhà.
Giữa nơi dị thảo kỳ hoa,
Lại riêng dựng một ngôi nhà gỗ thơm
Làm chỗ ngự của Thế tôn,
Bên hồ sen gió dâng hương đêm ngày.
11.100. Thêm đài hồng thạch khắc mây,
Làm tòa thuyết pháp dưới cây bạch đào.
Giữa đài đắp bệ sen cao,
Dưới đài sư tử chầu vào bốn phương.
Hai bên, cầu cuộn mây vương
Bắc lên từ bốn đỉnh hương ngát trời.
Quanh đài lại đặt đôn ngồi
Hình hoa sen nở, là nơi tọa thiền.
Đạo trường như cõi thần tiên,
Nào cầu vọng nguyệt, nào thuyền dạo thu.
Nào hồ tha thướt liễu tơ
Xanh nghiêng rũ xuống lầu thơ nguyệt đàm.
Lối hoa dẫn đến thiên đường,
Cổng vào dựng một tháp chuông đại hồng.
Tu-đạt trần thiết vừa xong,
Tâu vua sai sứ qua sông thỉnh Người
Về khai chính pháp tột vời,
Trần gian dựng một cõi trời hiền lương.
Lệnh truyền án thiết hoa hương,
Nhà vua hiện đến biên cương trước ngày.
Chờ đoàn thỉnh rước Như Lai,
Ải quan mở đón dấu hài từ bi.
Thôn trang cho đến kinh kỳ,
Tự nhiên gió thoảng hương gì thanh cao.
Khiến muôn dặm lý cồn đào,
Bỗng dưng hoa nở đón chào Phật Tăng.
Suối khe rộn rã thủy cầm,
Hòa ca như một dòng âm diệu kỳ.
Mây đùn một góc trời kia,
Dựng lên như thể tấm bia đủ màu.
Đã trông tàn kiệu chân châu,
Đoàn người rước Phật qua cầu tới ngay.
Thế rồi yến tiệc trăm ngày,
Thả tù, bố thí, trồng cây cúng dường.
Ngày Phật khai mở đạo trường,
Quần thần hoàng tộc quốc vương hầu quì.
Người vây quanh chật vườn Kỳ,
Thôi thì hoa trái, thôi thì chim bay.
Nghìn năm dường có hội này,
Sông dâng khói sóng, rừng lay gió ngàn.
Từng không mây kết nên tàn,
Như hoa muôn sắc tỏa làn diệu hương.
Cổng rừng vọng tiếng thần chuông,
Tàn mây nhẹ trải mưa hường khắp nơi.
Khiến như giải thoát lòng người,
Kẻ câm giờ chợt mở lời reo ca.
Người mù chợt mở mắt ra,
Kẻ điếc chợt lắng tiếng hoa rụng rời.
Bệnh nan y khắp gầm trời,
Hứng mưa khỏi hẳn, như người chiêm bao.
11.150.  Phật lại phóng ánh bạch hào
Như bình minh chiếu soi vào mười phương.
Hiện ra vô lượng thiên đường,
Toàn là mã não kim cương ngọc hồng.
Lưu ly là núi là sông
Hào quang kết tụ muôn bông hoa ngời.
Gió đưa là tiếng nhạc rơi,
Cỏ lay: sóng gợn, mây dời: tuyết sa.
Quần tiên vóc liễu dung hoa
Trong vườn cẩm ngọc chói lòa hào quang.
Thướt tha tay múa miệng xoang.
Gảy đàn cưỡi hạc từng hàng nhởn nhơ.
Hoặc lưng non ngả cuộc cờ,
Bâng khuâng bãi thúy, hững hờ dòng mây.
Lại hào quang Phật hiện bày
Cung trời Đâu-suất rợp cây hoa thần.
Cánh hoa rụng thành phù vân,
Mây tan thành suối tươi ngần ánh trăng.
Suối reo thành nhạc thường hằng,
Nhạc rơi hóa hiện muôn tầng lầu mây.
Toàn là ngọc khắc vàng xây,
Có chim muôn sắc có cây trăm màu.
Có tháp cẩm ngọc minh châu,
Có xe mây kết có cầu sương un.
Đó là diệu dụng thần thông
Của đức Di-lặc giữa bông hoa thần.
Ngài đang cầm sách cẩm vân,
Chữ ghi là những dấu chân hạc trời.
Phật dạy: “Bồ-tát độ đời
Sẽ truyền muôn đạo trong lời vô thanh.
Hưng chính pháp độ chúng sanh,
Mười phương hòa hợp dưới cành vô ưu.
Hóa thân xuống trước dắt dìu,
Khiến cho nhân loại xuôi chiều về theo.
Xa lìa ngã chấp mạn kiêu,
Trần gian là cõi diễm kiều thi ca.
Di-lặc sau mới hiện ra,
Tự nhiên muôn cõi là nhà trí bi.
Chẳng tranh mà được mới kỳ,
Chẳng tu mà sạch tham si bụi hồng.”
Dạy rồi ngừng phóng thần thông,
Quanh Phật đại chúng dứt lòng mạn nghi.
Quay về diệu pháp nương y,
Nguyện theo ngũ giới tam quy trọn đời.
Vườn Kỳ phấp phới hoa rơi,
Chim đâu ríu rít tụng lời từ âm.
Gió xa thoảng ngát rừng trầm,
Lời vàng khiến trổ một đầm liên hoa.
Mây về tám cõi trời xa,
Tiếng chuông cửa núi ngân nga bổng trầm.
11.200.  Âm thần vọng giữa thuyền lâm,
Giọt trăng giải thoát giữa tâm nhiệm mầu.
    
52.    Vì đức quên thân     

Thời xưa tinh xá Ni-câu,
Lưng non sương tỏa nhịp cầu treo mây.
Suối cao tung dải tơ bay,
Sớm mai hồng đượm, cuối ngày vàng pha.
Đầu non tùng bách reo ca,
Sườn mây biếc tụ quanh nhà cỏ thơm.
Chim kêu lau nội hoa cồn,
Tiếng tan như giục suối dồn âm thanh.
Sông xa uốn dải lụa xanh,
Nước ùn khói sóng bên thành Tỳ-la.
Nhà sàn Phật ngự dưới hoa,
Có đường đá xếp như là thang mây.
Trông ra một cõi non tây
Lô nhô, chầu phục như bầy voi xanh.
Sáng nay mây đỏ bên thành,
Cửa ngoài hoa rụng giăng mành tơ sa.
A-nan cung kính hầu trà,
Tỳ-kheo vân tập quanh nhà, chắp tay
Thưa rằng “con nghe lâu nay
Chúng dân truyền tụng đó đây vang đồn
Tán dương công đức Thế tôn
Bỏ ngai vàng, mở pháp môn diệu vời.
Độ cho khắp cả trời người,
Chân tâm là đuốc sáng ngời trí bi.
Phá tan nhị tướng chia lìa,
Khiến người khởi ngộ tan mê bàng hoàng.
Nơi đâu thiết dựng đạo tràng,
Là nơi chiếu rọi hào quang Phật từ.
Tánh không là lẽ như như,
Tám đường chân chính, vượt hư huyễn đời.
Tan mê, bi trí tuyệt vời,
Xa lìa tứ tướng, thoát nơi ngục tù.
Là nhật nguyệt giữa không hư,
Thuận duyên, tự tại, nhất như đạo thường.
Trời, người nhuần giải thoát hương,
Nhân dân như nước bốn phương tìm về.
Tựa nương bóng mát Bồ-đề,
Tín tâm, thập thiện, xa lìa trần lao.
Lại thêm đệ tử đức cao,
Ông Kiều-trần nọ, duyên nào quy y.
Con đầu của đức Từ bi,
Như chim hồng hạc, như kỳ diệu hoa.
Giờ là sao chiếu Ta-bà,
Khiến nên khắp cõi trần sa tỏ ngời.
Người thêm ý, kẻ thêm lời,
Truyền khen trí huệ tuyệt vời thánh vương.”
Phật ngồi sau đỉnh trầm hương,
Cánh hoa theo gió thơm vương áo Người.
Vách non khói đá ùn hơi,
Mai như tuyết rụng khắp nơi đạo tràng.
Chúng Tăng trầm mặc hàng hàng,
Sương bay trên dải y vàng cuộn tơ.
Quanh nhà gỗ dựng đơn sơ,
Cà-sa thấp thoáng như bờ hoa thu.
11.250.  A-nan hội ý lại thưa:
“Quả con nghe thấy như vừa tin trao
Rằng từ lúc ánh bạch hào
Phá tan tà đạo, độ bao nhiêu loài.
Kiều-trần-như đó, năm ngài,
Cớ sao sớm tỉnh ngộ nơi đạo hiền.
Việc này hẳn có tiền duyên,
Dễ đâu một sớm dứt liền mê si.”
Phật cười “chân tánh trí bi,
Xét trong muôn loại khác gì nhau đâu.
Thiền oai, giới định nhiệm mầu
Tỏa soi như tạng minh châu diệu vời.
Nhân duyên hình bóng chẳng dời,
Thân ta bao kiếp vào nơi trần hoàn.
Độ Kiều-trần thoát mê tham,
Cõi đời mây nổi hợp tan mấy lần.
Nguyên xưa có một hiền nhân,
Nhà giàu ruộng đất xa gần thiếu chi.
Cứu người muôn cách thiết thi,
Mở trường, bố thí, sá gì lạ quen.
Giữa đời điên đảo chê khen,
Nguyện ông như một đóa sen đại từ.
Mong sao người chẳng dối hư,
Chẳng còn chia cách chân như nhiệm mầu.
Chẳng còn cơ cực thảm sầu,
Thế nên làng xã khác đâu tình nhà.
Kể chi những kẻ xấu xa,
Tham lam gian dối để mà lợi thân.
Dù ông biết rõ mười phần,
Nhưng lòng chẳng chấp ngã nhân hẹp hòi.
Đã không nhờ cậy thì thôi,
Đã nhờ, thưng đấu đầy vơi cùng đồng.
Giúp người chẳng kể tốn công,
Chỉ mong thỏa được nguyện lòng xưa nay.
Thế nên vàng bạc kho đầy,
Rộng lòng bố thí cũng ngày tiêu tan.
Lại cho hết cả ruộng vườn,
Bà con hờn trách, xóm làng dèm chê.
Lòng ông chẳng giận kẻ mê,
Tín tâm gieo hạt Bồ-đề làm duyên.
Có năm người ở xa miền,
Vốn tay cự phú bạc tiền chắt chiu.
11.300.  Nghe danh ông bố thí nhiều,
Bàn nhau bày kế đặt điều thử chơi.
Để xem có thiệt hơn đời,
Dám liều danh dự cứu người được chăng.
Hay là cũng bọn dối giăng
Vẽ trò lấy lệ mong rằng được khen.
Mua danh bằng ít của riêng,
Vờ nhân nghĩa để xóm giềng nể nang.
Bỏ ra vài nén bạc vàng,
Mà cầu mai hậu vẻ vang tiếng nhà.
Cũng tuồng đổi chác lại qua,
Chắc gì thương xót người ta thật lòng.
Thói đời ý đục lời trong,
Phải tìm ra lẽ, mới xong việc này.
Cùng nhau to nhỏ mưu bày
Giả làm nghèo khổ, năm người đến ông,
Rằng “chúng tôi phải qua sông,
Vì có người bạn khốn cùng đã lâu.
Lại thân mang nặng ốm đau,
Con thơ, vợ dại, cơ cầu lắm thay.
Lần hồi trong mấy năm nay,
Tiền ăn tiền thuốc phải vay mãi người.
Nợ nần ngày một sinh sôi,
Bây giờ hết chỗ vay rồi biết sao!
Cả nhà đói rách lao đao,
Mà người chủ nợ cũ nào có thương,
Đang đe dọa đủ trăm đường,
Nếu không lo trả số vàng đã vay
Thì thân kia phải tù đày,
Và con gái phải sang ngay làm hầu.
Chúng tôi tuy xót thương nhau,
Nhưng cùng nghèo khó, lấy đâu giúp người.
Nên đành tìm đến xin ngài
Qua sông, khất hộ đôi lời, họa may.
Chủ kia nể mặt, nới tay,
Thì bạn tôi khỏi tù đày xót xa,
Và con gái được ở nhà,
Tảo tần giúp đỡ mẹ cha lúc này…”
Ông nghe liền thuận ý ngay,
Nghĩ không còn của trả thay cho người,
Thì dù phải đến một nơi,
Hạ mình năn nỉ đôi lời giúp cho
Gia đình kia thoát nguy cơ,
Cũng là việc tốt ngần ngừ chi đâu.
Theo người ông bước đi mau,
Đến bờ sông sẵn thuyền câu buộc chờ.
Vừa ra trời bỗng gió to,
Thuyền con dễ bị nước xô sóng nhồi.
Năm người không biết lội bơi,
Trong cơn hoảng hốt sinh lời tố nhau.
11.350.  Khiến ông chợt hiểu nông sâu,
Nhận ra năm kẻ nhà giàu quen tên.
Đã từng nổi tiếng đảo điên,
Đã phen tráo trở bạc tiền hại ông.
Bây giờ đặt chuyện qua sông,
Bày trò khất nợ thử lòng ta chăng.
Ngờ đâu sóng gió bỗng dưng,
Năm anh sợ chết đổ cùng tội nhau.
Sóng càng nổi gió càng mau,
Thuyền như lá cuộn trước sau mịt mờ.
Đang khi cá đợi sông chờ,
Tử sinh kẽ tóc khe tơ theo liền.
Ông bèn quả quyết đứng lên
Nói “tôi cố gắng đẩy thuyền qua sông.
May ra thoát nạn bão giông,
Tới bờ kia để các ông trở về.”
Nói rồi nhảy xuống sông kia,
Vừa bơi vừa đẩy thuyền kề bờ cao.
Năm người vội vã nhảy vào,
Còn ông yếu sức sòng trào cuốn đi.
Trông theo nào thấy dấu chi,
Năm người run rẩy vội quì bên sông.
Hối vì đen dạ xấu lòng,
Bày điều thử thách những mong bới người.
Vì không tin ở trên đời,
Có ai mà chịu cứu người thiệt thân.
Bây giờ mới rõ giả chân,
Lòng như được ánh đuốc thần rạng soi.
Bao nhiêu tà kiến tan rời,
Thiện tâm tựa cánh sen tươi hé dần.
Thiết tha quì khấn thánh nhân:
“Chúng con xưa để tham sân đưa mình,
Ơn thầy chỉ lối quang minh,
Cho cùng hối cải chí tình từ đây.
Nương theo đức lớn của thầy,
Trên đường cứu độ nguyện nay một lòng.
Kiếp sau xin được theo cùng
Bước thầy như thể cánh hồng trí bi.”
Nguyện rồi năm phú hộ kia
Tiếc gì của cải ngại gì khó khăn.
Tiến tu bao kiếp hồng trần,
Hợp tan như nắm phù vân đổi dời.
Bây giờ lại hợp năm người,
Y nương chính đạo như lời nguyền xưa.”
Cửa ngoài hoa rụng như mưa,
Tiếng chim nào hót trên bờ cây cao.
Gió đưa hương thoảng rừng đào,
Gió đem hoa trắng đậu vào lưa thưa.
Phật trải ngọa cụ bằng tơ,
Nằm nghe chim hót mấy bờ hoa lay.
Đỉnh non như chiếc tàn mây,
Núi xanh xanh biếc như xây vòng thành.
11.400.  Dưới hoa trầm mặc kinh hành,
Phật xuôi tay ngủ như cành ngọc lan.
 
53.    Cá ba đầu       

Một sáng sương mù vừa tan,
Bên sông thấp thoáng y vàng như hoa.
Giáo đoàn đức Phật vừa qua,
Bước trầm lẫn tiếng chim ca nội ngoài.
Áo tơ pha dải mây dài
Như tia nắng mới vương đài sen hương.
Thế tôn là ánh triêu dương,
Sau ngài là một đông phương chói lòa.
Đón ngài mây trắng cồn hoa,
Mừng ngài núi cũng nhạt nhòa sương lam.
Đồng xa gờn gợn lúa vàng,
Trời cao lãng đãng đôi hàng cò bay.
Bãi sông đang họp dân chài,
Chênh vênh đôi cánh buồm dài gió nghiêng.
Lưới tung lấp lánh mây viền,
Như sen lá úp xuống miền nước xuôi.
Bỗng nhiên xúm lại bao người,
Hò reo vang một khoảng trời mênh mông.
Thì ra trong lưới gai hồng
Có con cá nọ vẫy vùng thoát thân.
Loại nào to lớn bội phần,
Khiến thêm cả bọn thương nhân phụ vào.
Bến sông hò hét ồn ào,
Gần trăm người kéo dễ nào đã xong.
Quẩy mình cá nọ ra công,
Quyết tung cho rách lưới hồng phóng ra.
Nhưng vừa trông thấy Phật-đà,
Lạ thay! cá bỗng hiền hòa nằm im.
Ngài dừng chân, đặt tay lên,
Thì cá lại ứa đôi viền lệ trong.
Bấy giờ lần lượt đám đông
Mới dám đến sát để trông cho tường.
Thấy đầu choáng mắt ghê hồn:
Cá đâu có cá dị thường, sợ thay!
Ba đầu sáu mắt rõ đây,
Đầu rắn, đầu hổ, giữa này đầu heo.
Bề dài khoảng chục bơi chèo,
Ngang như thuyền lớn đương neo cạnh bờ.
Thực đây, nào phải chuyện ngờ:
Cá đang vùng vẫy, sao giờ lại yên.
Hẳn rằng Phật có nhân duyên
Khiến nên mắt cá ứa viền lệ kia.
Hiểu lòng dân chúng hiếu kỳ,
Thế tôn mới kể cho nghe việc này:
“Nguyên xưa, nhiều kiếp trước đây,
Phật Ca-diếp xuống cõi này độ sinh.
Khiến cho thế giới thanh bình,
Nhân gian chung hưởng đạo lành yên vui.
Truyền lưu chính pháp trụ đời,
Xa lìa giả tướng nơi nơi thuận hòa.
Đến thời mạt pháp hiện ra
Lắm phường ngoại đạo gian tà chấp mê,
Trăm phương phá hoại Bồ-đề.
Thành kia có gã Tỳ-lê là người
Thông minh hoạt bát thạo đời,
Hào hoa lắm vẻ tuyệt vời khéo khôn.
Thấy mình tuổi trẻ tài hơn,
Họ hàng, chúng bạn suy tôn phục tòng.
Chàng ta kiêu mạn đầy lòng,
Quyền uy nào cũng giành mong về mình.
Tham sân hằng đắp cao nhanh,
Đức thì quên để mỏng manh xuống dần.
Nghe trong quyền quý, chúng dân,
Kính Tăng, trọng Phật, sinh phần ghét ghen.
Kết bè, lập hội đua chen,
Muốn thay ngôi vị, đức tin Phật-đà.
Nhưng liền khi đó nhận ra,
Mình với chính pháp, sao mà đọ ngang!
Bèn mưu giả làm sa-môn
Vào chùa nghiền ngẫm tìm đường phá chơi.
Bán luôn cửa Phật kiếm lời,
Gây bè kéo cánh tranh nơi tục quyền.
Vênh vang ăn chốc ngồi trên,
Giỏi tài lừa bịp kiếm tiền gieo neo.
Thân tham như hổ như heo,
Ý lời như rắn lượn lèo trăm phương.
Gây bao nhiêu chuyện nhiễu nhương,
Để gieo tiếng xấu cho hàng Tăng ni.
Cốt làm chính pháp tiêu đi,
Nhưng rồi thân hắn cũng thì tàn tro.
Nhân sâu quả báo càng to,
Đoạ đày muôn kiếp, bắt cho đền bồi.
Hết giam địa ngục bao đời,
Lại làm ngạ quỉ, lại thời ngựa trâu.
Bây giờ là cá ba đầu,
Và nhờ xưa niệm ít câu nhân lành,
Gặp Phật liền được siêu sanh,
Sẽ vào cửa nọ, tu hành chính chân.”
Nghe xong người khắp giang tân
Xin quy chính đạo tinh cần giới trai.
Cá kia thời bỗng chắp vây,
Gật đầu lạy Phật, thác ngay tức thì.
Phật trao ngũ giới, tam quy
Cho cá nhờ sức từ bi nhiệm mầu.
Tay Ngài như những nhịp cầu
Đưa người qua biển ưu sầu tham mê.
Ngón tay như những thành đê
Ngăn sông tham dục xuôi về một phương.
Ngón chân như những ngả đường
Dẫn người về một tình thương nhiệm mầu.
Dấu Ngài bước tới nơi đâu,
Là tâm người sáng làu làu gương trong,
Là trời bát ngát mênh mông,
Non xanh đào lý, dặm hồng tươi hoa,
11.500.  Là chim cõi đất hòa ca,
Là vàng biển lúa muôn nhà an vui.
Nắng lên, sương bạc tan rời,
Phật cùng đệ tử ngàn người lại đi.
Giáo đoàn sang Tỳ-xá-ly,
Dọc đường lác đác hoa gì dâng hương.
Nghỉ trưa trong một vườn hồng,
Lưng đồi lấp lánh muôn bông nắng ngời.
A-nan nghĩ đến những người
Sáng nay đánh cá, do nơi nhân gì
Mà vừa gặp đấng Từ bi,
Đã cùng chúng bạn quy y Phật từ?
Nghĩ rồi quỳ trước đạo sư:
“Cầu xin Phật dạy lẽ như thế nào?”
Thế tôn bèn giảng trước sau:
“Quả nhân tương tạo theo nhau chẳng rời.
Cũng thời mạt pháp đó thôi,
Có tiền thân của bọn người sông kia.
Tuy là trong đạo trí bi
Mà vô minh để Tỳ-lê khiến dùng.
Theo bừa chẳng xét sâu nông,
Không phân biệt nổi đục, trong, chính, tà.
Thế nên lầm lẫn mãi ra,
Giúp người phá đạo vậy mà không hay!
Trải bao nước mắt đọa đày,
Nợ xưa đòi đến kiếp này mới xong.
Lưới chài một chuyến trên sông.
Lừa kia lầm nọ hết vòng quả nhân.
Nên bậc tu phải chính chân,
Phải coi phước huệ làm thân chẳng rời.
Cho dù phương tiện cứu đời,
Cũng do bi trí làm nơi chủ trì.
Khiến người thoát khỏi tham si,
Cốt vì công ích chẳng vì lợi riêng.
Tứ niệm xứ phải quán siêng,
Khiến cho tâm thoát khỏi xiềng lợi danh.
Tứ nhiếp lợi lạc chúng sanh,
Ngũ minh là việc tinh thành làm phương.
Khế cơ, khế lý tỏ tường,
Khởi duyên, nhân quả: lẽ thường thế gian.
Trí bi là cõi Niết-bàn,
Vạn pháp không tánh như làn sương bay.
Xa lìa tứ tướng mê say,
Mười phương thế giới hiện bày chân tâm.
Ly tứ cú, bạt mê lầm,
Nguyện như sen nở trong đầm hôi tanh.
Theo ai cũng phải rõ rành,
Giới là nhân tạo quả lành mai sau.
Pháp là ánh sáng minh châu,
Tâm là cõi Phật nhiệm mầu tự thân.
Tinh cần lìa vọng hiển chân,
Trần gian là chốn hiền nhân độ trì.
Nội chướng là tham sân si,
Phá tan tam độc lo gì ngoại ma.
An vui là pháp lục hòa,
Bát chính là pháp vượt qua khổ nàn.
Ý là cửa đến thiêng đàng,
Khẩu là của cải tư lương đăng trình.
Thân là phương tiện tối linh,
Dục là nguồn cội vô minh phải trừ.
Ngăn người sa đọa dối hư,
Hiển dương chính pháp nhất như sâu mầu.
Khiến đời giải thoát tiêu sầu,
Ba nghiệp là khối minh châu tỏ ngời.
Ngộ mê cũng tự lòng người,
Trần duyên như thoáng sương rời ngõ hoa.
Nghiệp nhân ta tự buộc ta,
Buộc vào hay lại cởi ra cũng mình.
Mười hai mắc xích vô minh
Suốt từ vô thủy chưa đình vòng quay.
Thân như nắm bụi vàng bay,
Sáu đường mù mịt khói mây ra vào.
Vọng tâm như sóng biển trào,
Như cuồng phong nổi lao đao thế tình.
Thương thay mười loại chúng sinh,
Trả vay mãi chốn vô minh ngục hồng.
Cưu mang rắn rết trong lòng,
Lênh đênh chiếc bọt đầu sông lạc loài.
Xa lìa chính pháp Như Lai,
Lăn thân giữa chốn trần ai kiếm tìm.
Giả danh như bóng mây chìm,
Như in lòng suối bóng chim giang hồ.
Giam trong hai cực hữu, vô,
Chấp mê giả tướng mê đồ quẩn quanh.
Chẳng lo tinh tấn tu hành,
Nghìn năm uổng phí duyên lành hội nay.
Dễ đâu vào được thân này,
Dễ đâu gặp được bạn, thầy chính chân.
Theo đường vượt thoát ngã, nhân,
Trần gian vỗ cánh chim thần vút cao.”
Phật nằm trên võng tơ đào,
Thoảng xa ngọn gió đưa vào làn hương.
Bềnh bồng mây trắng du phương,
Tiếng chim rụng dưới rừng hương xạc xào.
Âm ba như gọi mây cao,
Như mạch nước mát suối nào đỉnh non.
Đôi hàng cây dựng chon von,
Bóng mây lan mát một con đường dài.
Cánh châu chấu biếc bên ngoài
Nhảy vào tay Phật quơ vài sợi râu.
11.600.  Ven rừng vắng, cội hoa ngâu
Cũng vừa chín hạt bông đầu thoảng hương.

54.    Chúa tiên cúng Phật       

Một chiều lãng đãng mù sương,
Vườn Kỳ thấp thoáng sao vương nội đào.
Chim về xào xạc non cao,
Tiếng chuông tịch mặc tan vào thâm u.
Âm âm nhè nhẹ trầm từ,
Ngọn triều dâng ngập thái hư tròn đầy.
Thấm trong nội cỏ ngàn mây,
Như trăng hiện tướng giục bày nước cao.
Chuông tươi dường hạt nắng đào,
Mơ hồ như tiếng hạc nao nao về.
Dư ba ngan ngát sơn khê,
Vi vu như cội Bồ-đề gió qua.
Tơ chuông quyện thẫm giang hà,
Phất phơ lay giữa yên ba ngút vời.
Âm dư cùng ngọn lá rơi,
Bâng khuâng người lại hỏi người tịch nhiên.
Gióng chuông lắng sạch ưu phiền,
Thức người tỉnh giấc sầu miên mịt mờ.
Cành đào rung nhẹ phím tơ,
Cánh chuồn theo gió cũng hờ hững bay.
Lầu trầm phảng phất hương ngây,
Hàng hàng Tăng chúng dưới cây tọa thiền.
Bỗng đâu một cỗ kiệu tiên
Từ thinh không hạ xuống triền non mai.
Kết bằng mây báu chiếu ngời,
Tỏa ra ánh sáng lưng trời hồng xanh.
Một bầy hạc múa vây quanh,
Đẹp như hoa trắng muôn nhành rụng rơi.
Bước ra yểu điệu một người
Thướt tha vóc ngọc, tuyệt vời tiên dung.
Mắt huyền tóc cuộn tơ nhung,
Tay đưa lạc nguyệt, bước trùng trầm sa.
Xách theo một giỏ hoàng hoa,
Mỗi bông tơ đọng tỏa ra ánh hồng.
Nàng vào thiền thất hương xông
Cúng dường Phật tổ lẵng bông cõi trời.
Lại ra dâng khắp người người
Đóa hoa mầu nhiệm tỏa ngời vàng châu.
Giờ đây ánh sáng muôn màu
Chiếu lên không kết cung lầu nhạc ca.
Hoặc thành bảo tháp muôn tòa,
Núi nghiêng nét thúy, suối sa lụa vàng.
Mây thành lọng tỏa hào quang,
Lửng lơ như thể một tàng hoa lay.
Bấy giờ nàng mới chắp tay,
Vào nhà lễ Phật tỏ bày duyên cơ
Rằng: “con ở cõi Tịnh Cư,
Nghe Phật khai mở chân như châu này.
Nên liền vượt cõi trời mây,
Một lòng cung kính xuống đây cúng dường.
Thành tâm xin đấng Pháp vương,
Ngày mai con thiết trai đường rừng bên?”
Thế tôn cho được như nguyền,
Vui mừng nàng trở gót tiên ra về.
Sớm mai, rừng phía bên kia,
Bỗng dưng cung điện uy nghi khôn cùng.
Cột mây, nền lát gấm nhung,
Sương năm sắc lạ pha chung làm tường.
Cửa vòng trăng hướng bốn phương,
Mỗi khu là một cảnh vườn nguy nga.
Hướng Đông có suối đào sa,
Có cầu thạch bích bên tòa tháp son.
Có đường uốn khúc quanh non,
Tàng thông biếc phủ lối mòn vi vu.
Vườn Tây có một mẫu hồ
Thả hoa vàng tím, lô nhô sóng dời.
Quanh bờ liễu lục tơ rơi,
Khói hồ tự đám mây trời bốc cao.
Kết thành một tán lọng đào,
Thả mưa hồng nhạt rơi vào hồ xanh.
Có đường cẩm thạch viền quanh,
Có mây ngũ sắc xây thành trân châu.
Cửa Nam dựng một tòa lầu,
Sông quanh nước réo trên cầu mây giăng.
Sáng ngời như tuyết như băng,
Chập chùng lầu các bao tầng thủy tinh.
Bóng in mặt sóng lung linh,
Có bầy hồng hạc soi mình đáy sâu.
Gió sông thổi cuộn mái lầu,
Vi vu mành ngọc minh châu tỏa ngời.
Gió thành nhã nhạc chơi vơi,
Tiếng nghe dường cũng đầy vơi sóng tình.
Tự nhiên bầy hạc cất mình,
Múa theo vi diệu âm thinh dịu dàng.
Khi giăng như dải mây vàng,
Khi rơi như thể đôi hàng hoa dưng.
Cửa Bắc hóa hiện khu rừng
Đào san sát nở như vừa chiêu dương.
Gió đưa như đám bụi hường,
Thành mưa rơi xuống đồi nương xanh rì.
Bãi xa biêng biếc cỏ chi,
Cánh hoa phơi phới khác gì bướm bay.
Có nhà cỏ lợp sương vây,
Đàn nai ngơ ngác dưới cây hồng đào.
Biển ru sóng vỗ rì rào,
Chân trời đôi cánh buồm nào chênh vênh.
Một bầy ngựa cuộn phù vân,
Lông pha tuyết ủ quây quần lưng non.
11.700.  Đường vào gỗ thếp vàng son,
Phần e tiên cảnh, phần còn bâng khuâng.
Nàng ra cung kính đón mừng,
Lối đi hoa rắc trong rừng đào tơ.
Bước vào như lạc cõi thơ,
Kìa tháp mây đổ, nọ bờ hồ xanh.
Xuống cầu bán nguyệt rửa chân,
Nghe chim vàng hót vang rần bờ dương.
Bè hoa tím ngát dị thường,
Khiến hồ như thể nước hương chiên đàn.
Mời về nền lót kim cang,
Ghế quỳnh vân ngọc, bàn vàng, kim âu.
Bát mã não, đĩa minh châu,
Đũa ngà thất bảo, người hầu gấm hoa.
Tóc huyền tơ mối trầm pha,
Khăn tay đẫm nguyệt dâng trà hạ hương.
Gót hài nhẹ lướt như vương,
Đều còn đang tuổi e sương rủ đào.
Thỉnh Phật ngự trên đài cao,
Bấy giờ thí chủ thanh tao mở lời:
“Chúng con ở tận cung trời,
Qua đây thành kính dâng Người trái hoa.
Nhờ ơn Tăng bảo, Phật-đà
Độ cho tiên cõi nhà nhà phúc tăng.
Mai sau đọa lạc cõi trần,
Căn lành còn một đôi phần đó thôi.
Thỉnh xin Tăng, Phật hai ngôi
Chứng minh cho, phước chúng tôi vô vàn.”
Bấy giờ hiền giả A-nan
Thể theo tôn ý đạo tràng, quì thưa:
“Nhân gì nghiệp đức gieo xưa,
Vị này hưởng phúc vô bờ cõi tiên?
Thần thông biến hóa diệu huyền,
Xuống đây dâng cả một miền thiên cung?”
Phật nghe xong, chiếu thần thông
Khắp nơi pháp hội đều cùng rõ hay.
Thấy tiền thân vị tiên này,
Hiện ra một cảnh núi mây trùng trùng.
Lưng non có gã đàn ông,
Ngồi trong hiên cỏ vui cùng chim hoa.
Phật Tỳ-bà-thi đi qua,
Gã hay, vội đón vào nhà nghỉ chân
Bới khoai vùi lửa ân cần,
Cắt cỏ trải nệm muôn phần kính yêu.
Lại ra dọn suối bắc kiều,
Mời Phật xuống tắm ra điều mừng vui.
Ngài truyền mười giới cho, rồi
Hôm sau Phật lại qua đồi vân du.
Đến đây cảnh tan như mơ,
Đạo trường ai cũng ngẩn ngơ tâm thần.
Phật dạy: “người nọ tu chuyên,
Đến khi nghiệp tận thức hiền hóa sinh.
Làm chủ cõi Tịnh Cư thiên,
Chim muông hoa cỏ bạn hiền gã xưa.
Nhờ ơn chú nguyện Phật thừa,
Cũng theo sinh hóa bây giờ là đây.
Xưa anh mến suối yêu mây,
Kiếp nay phước báo cảnh này hiện ra.
Dung nhan dáng vẻ chúa hoa,
Ngự nơi ngọc kết vàng sa tỏ ngời.
Trải bao nhiêu kiếp nhiêu đời,
Đã dâng nước tắm khắp nơi đạo trường.
Từng hầu bảy vị Pháp vương,
Bây giờ lại hóa nước hương vườn này.
Dâng lên đại chúng rửa tay,
Cho đến Hiền kiếp châu nay lại vào.
Cúng dường ngàn vị Phật sau,
Ra đời chuyển đạo nhiệm mầu trần ai.
Sau người đắc đạo Như Lai,
Hiệu Tịnh Thân, đức sâu dầy kể chi.
Độ người vô lượng thần uy,
Trong ao công đức, tư nghì được sao.
Nước thơm tỉnh giấc mộng đào,
Như chim thần vút cánh cao ngàn trùng.”
Nghe xong tiên chúa rất mừng,
Khiến muôn cảnh sắc tưng bừng cùng vui.
Non Đông nghi ngút ùn hơi,
Suối tuôn vi vút nhạc trời lâng lâng.
Hồ Tây phơi phới mưa hồng,
Liễu đơm hoa ngát bềnh bồng tóc tơ.
Chim nào buông tiếng ngẩn ngơ,
Tan trên hồ thẳm như tờ lụa xanh.
Lầu Nam hạc múa trên cành,
Tiếng kêu ríu rít sông nhanh cuộn dòng.
Cánh như muôn chiếc quạt hồng,
Mành châu gió lọt tơ đồng vi vu.
Bắc thành đào cuộn mấy bờ,
Hoa tung cánh trắng hững hờ gió bay.
Cánh rơi xuống khắp vùng này,
Như bông tuyết rụng từng cây ngạt ngào.
Chúa tiên khép nép lạy chào,
Tự dưng cung điện lẩn vào sương tan.
Trông ra bốn phía Kỳ-hoàn,
Mây năm sắc tía từng làn bay cao.
Tưởng chừng như giấc chiêm bao,
Ôi, hồ nước biếc rừng đào còn đâu!
Tiếng chuông vang giữa non sâu,
Rung ngân như bắc dải cầu từ âm.
Đài cao biêng biếc hương trầm,
Đỉnh non chim gọi âm thầm mây qua.
11.800.  Rừng đào thấp thoáng cà-sa,
Gió thơm phảng phất cánh hoa đầu mùa.

55.    Thiên tán ca  

PHÁP ÂM

Lời vàng dậy đỉnh non xưa,
Ngàn năm truyền đến bây giờ còn tươi.
Còn vang vọng trái tim người,
Tạo nên sức sống nơi nơi từ hòa.
Như chuông thần gợn dư ba,
Lay cơn mưa trải Ta-bà xanh xao.
Như hương xuân giục bông đào,
Càng dầy sương tuyết càng cao nguyện thề.
Như ngàn mạch suối vỗ về,
Trăm cây đơm trái, ngàn huê trổ màu.
Tướng như mây quyện non sâu,
Tánh như trăng hiện bên cầu chơi vơi.
Luồn trong nhịp võng ơi hời,
Đạo nuôi con lớn giữa hơi nồng nàn.
Ẩn trong ánh mắt dịu dàng,
Đạo đưa người đến vinh quang đại đồng.
Thắm vào hoa cỏ non sông,
Mở ra cùng với vừng hồng chiêu dương.
Lời vàng đưa khắp mười phương,
Khơi thêm trí sáng lòng thương mọi loài.

PHÁP ẢNH

Thiên nhiên quanh bước chân Ngài,
Đã từng kết ngón tay dài chỉ trăng.
Đời đời kế tục truyền đăng,
Góp từ quanh bến sông Hằng gieo đi.
Giờ còn bát ngát xanh rì,
Nơi lòng kinh luận từ bi nhiệm mầu.
Bao nhiêu ý nghĩ cao sâu,
Kết nên như một con cầu qua sông.
Nào là non tím đồi hồng,
Nào khe mây lặn, nào đồng trổ hoa.
Nào sông bọt sóng la đà,
Ánh trăng cổ lũy, canh gà thôn sương.
Bao nhiêu dấu tích tang thương,
Còn phơi phới ánh chân thường tịch nhiên.
Đọng thành chủng tự nhiệm huyền
Luân lưu gieo xuống khắp miền thế gian.
Ý hiền xưa vẫn còn vang,
Cỏ hoa xưa vẫn ươm vàng như xưa.
Hạt lành bao kiếp truyền thừa,
Xuân nay lại trổ trang thơ kinh Hiền.

KIẾN PHÁP

Thấy chi trong cõi lụy phiền,
Long lanh biển lệ dưới viền trăng không.
Nổi nênh hư huyễn trần hồng,
Mấy ai tự tại trong vòng nhị phân.
Còn như lấy huyễn làm nhân,
Càng tìm càng vạt gót chân lạc nguồn.
Rã rời trong cuộc tang thương,
Quên đi chân tánh lạc thường do ta.
11.850.  Luân hồi sáu cửa vào ra,
Gió mây rốt lại tan hòa gió mây.
Góp thu huyễn ảnh càng dầy,
Héo khô giữa những vòng vây điệp trùng.
Giờ đàn so lại năm cung,
Đưa nhau ra khỏi những khung buồn phiền.
Lòng thương là cõi thiên tiên,
Trí ngời là sức rồng thiêng bổng vời.
Cõi trần dựng tấn kịch chơi,
Hết tinh tấn diễn, lại rời rã buông.
Hơn nhau chi một vai tuồng,
Hòa hài giữa chốn hí trường sắc danh.

THÍNH PHÁP

Nghe gì trong cuộc đua tranh,
Nấc thang như huyễn mãi đành nhau lên.
Thôi thì, hơn, kém, dưới, trên,
Mãi đem giả tướng chụp lên cõi lòng.
Thế nên mười cõi mênh mông,
Thu vào nhốt kín trong lòng phù vân.
Kết toàn hư ảo làm thân,
Tạo nơi y cứ xoay vần đảo điên.
Gian ngoan buộc oán giăng phiền,
Cũng do tâm bệnh đau rên thành lời.
Ý gieo lại gặt lấy đời,
Nhân nhân quả quả khôn rời trả vay.
Bao nhiêu Bồ-tát xưa nay
Cũng vì nghe thấy đọa đày trần gian.
Phát tâm độ kẻ mê tham,
Đưa người ra khỏi nẻo đàng vọng mê.
Triển khai tự tánh Bồ-đề,
Nguyện vào địa ngục chẳng nề gian nguy.
Nhìn người chỉ thấy trí bi,
Cứu đời chỉ lấy vô vi làm đầu.

DIỆU PHÁP

Như hương thơm tự rừng sâu,
Kể gì ai biết ai cầu mới dâng.
Bước chân tự tại lâng lâng,
Vào ra như thể một vầng mây bay.
Xá nào nam bắc đông tây,
Như mưa nhuần thấm cỏ cây trên rừng
Hòa trong sinh hóa tưng bừng,
Vừa chung muôn loại, vừa từng loài riêng.
Quên mình gieo rắc thiện duyên,
Trăm năm theo trọn lời nguyền thanh cao.
Tùy nơi hóa hiện thân vào,
Lập nên phương tiện khác nào thắng xe.
Qua sông rồi cũng lìa bè,
Chỉ còn bóng mát chở che nhân hoàn.
Lay người tỉnh giấc mê tham,
Dẫn đời thoát ách lầm than bất bình.
Chẳng còn nô lệ giả hình,
Khiến cho muôn loại hồi sinh đại đồng.
Trăm đường hóa độ trần hồng,
Cũng về một biển mênh mông đại từ.

PHÁP TU

Muốn vào dòng sống nhất như,
Dốc lòng theo đấng đạo sư cõi này.
Phải tôn giới luật làm thầy,
Soi theo chánh đạo tìm ngay, lánh tà.
Phá nội chướng, dẹp ngoại ma,
Tạo nên giềng mối hiền hòa thiện duyên.
Nếu như bủa oán giăng phiền
Là còn mắc giữa xích xiềng vô minh.
Chuyên trì giới cấm sát sinh,
Lại đem lòng đến sinh linh mọi loài.
Là tình thương mở tuyệt vời,
Tâm thân là cả cõi trời cao xanh.
Truyền lưu hạt giống đẹp lành.
Hiền hoa giữa chốn chấp tranh hận thù.
Chẳng nề thấm thoát xuân thu,
Tấm thân thường lạc cho dù biển dâu.
Hòa trong cõi sống nhiệm mầu,
Là cây đuốc giữa đêm sâu vô cùng.
Đưa người vào một lòng chung,
Cứu người ra khỏi những khung khổ nàn.

PHÁP TÁNH

Bước lên trí huệ siêu phàm,
Cũng là đường xuất thế gian mê mờ.
Chẳng còn đứng giữa đôi bờ
Bâng khuâng trầm nguyệt, vật vờ phù vân.
Một lòng ly huyễn lìa chân,
Phá muôn thành quách phù trầm chiêm bao.
Ung dung trong ánh bạch hào,
Mười phương ba cõi ra vào như chơi.
Dù trong mỗi ý mỗi lời,
Cũng là hạt giống tột vời trí bi.
Phá tan cội gốc mê si,
Chẳng còn hư ngụy chia lìa thân tâm.
Nhập vào giác tánh cao thâm,
Như sen giữa cõi ao đầm dâng hương.
Chí ngời như trụ kim cương,
Dẫn đưa sáu loại lên đường vinh quang.
Chẳng còn địa ngục thiên đàng,
Bên trong tâm cõi mênh mang tràn đầy.
Ngại vì vạn pháp khói mây,
Trần gian mừng cuộc sum vầy hồi sinh.

PHÁP TẠNG

Sáng nay trời đất khai kinh,
Mỗi dòng là ánh bình minh mật hồng.
Mỗi trang là núi là sông,
Mỗi câu mỗi nghĩa đơm bông hoa vàng.
Như hữu hạn gặp mênh mang,
Như mênh mang kết nẻo đàng vượt cao.
Trên tờ mầu nhiệm trăng sao,
Tin xuân đã giục mai đào hồi sinh.
11.950.  Bao nhiêu giả tướng giả hình,
Nghìn năm chợt tỉnh chuyển mình reo ca.

PHÁP HIỆU

Cánh hồng xưa lại về qua,
Dừng đây giữa cõi Ta-bà bâng khuâng.
Cất cao tiếng hót chào mừng
Đóa hoa linh thoại trong rừng hương đưa.
Tiếng rơi tan xuống thành mưa,
Mỗi dòng là một pháp thừa trinh nguyên.
Hạt lành giục đóa hoa thiêng
Từ lâu giữ kín lời nguyền dâng hương.
Hòa trong khúc hát chân thường,
Cỏ cây tỉnh thức bên đường lắng nghe.

PHÁP HỈ

Có con rùa nhỏ ngoài khe
Từ lâu đợi suối trở về, nằm đây.
Ẩn mình dưới chiếc mai dầy,
Ngó bờ rêu lục tưởng ngày xa xưa.
Trở mình nghe lạnh tiếng mưa,
Ôi, dòng pháp kệ đợi chờ từ lâu.
Ôi, cơn pháp vũ nhiệm mầu,
Hôm nay trỗi khúc kinh cầu lâng lâng.
Bên bờ hoa thoảng hương dâng,
Rùa soi đáy nước uống tầng mây trôi.

PHÁP LẠC

Có cây thông cổ trên đồi,
Bấy nay ngậm tiếng reo cười tịch nhiên.
Chút màu xanh ngát thu thiên,
Giữ hoài, trong cõi ưu phiền vươn cao.
Ngày đêm than vãn xạc xào,
Thương ai chìm giấc chiêm bao nặng nề.
Sớm nay thông ngó mây về,
Non xa xỏa mái tóc thề chơi vơi.
Cành thông vươn dậy ngó trời,
Tự nhiên bật tiếng cả cười hoan ca.

CHUYỂN PHÁP

Sách hiền ẩn một bông hoa
Giam thân từ thuở chữ Là đóng đanh.
Hoa không héo giữa quách thành,
Của vàng thế nọ, của xanh thế này.
Quanh hoa lớp lớp trùng vây,
Càng hoen hương khói càng đày đọa hoa.
Hôm nay gió nhạt mưa nhòa
Khiến trang hình tướng dần dà dị không.
Hai ngàn năm lại trổ hồng,
Cánh hoa tươi lại trên đồng Việt Nam.
Từ nghe chim lảnh tiếng vàng,
Gọi hồn xưa cũ mênh mang tràn về.
Sắc, danh nọ hoặc này mê,
Lại bừng chuyển hóa với quê hương này.
Với muôn hoa sắc sum vầy,
Với cung nhã tụng của bầy chim xinh.
Với mầu nhiệm là Hiền kinh,
Tụng lên cho thế giới bình một tâm.
12.000.  Cho Đông phương ngát quê trầm,
Cho thời gian mãi trổ đầm sen tươi.

HẾT
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
07 Tháng Mười Một 2023(Xem: 1573)
27 Tháng Chín 2022(Xem: 84111)
Lúc đầu, kinh điển Phật giáo gồm hai bộ chính là “kinh” (sutra) và “luật” (vinaya): “Kinh” ghi lại giáo lý của Đức Phật, “Luật” là những giới luật mà Đức Phật đã chế định cho hàng tăng nhân tu hành tại các tự viện. Về sau này có thêm những lời chú giải về kinh và luật đó, và được gọi chung là “luận” (abhidharma), kết quả là có ba bộ sách gồm kinh, luật, và luận, tức là “Tam Tạng” (Tripitaka). Dần dần xuất hiện những dị biệt trong những lời giải thích về giáo lý của Đức Phật và giới luật của tự viện; và, điều đó gây ra sự phân rẽ trong cộng đồng Phật giáo, đưa tới sự phân chia thành hai bộ phái chính yếu đó là Thượng Tọa Bộ (Therevada) có tinh thần bảo thủ và Đại Chúng Bộ (mahasamghika) có tinh thần cấp tiến. Mỗi bộ phái có một bộ kinh điển riêng, được coi là chính thức bao gồm những quan điểm của mỗi phái.
16 Tháng Chín 2020(Xem: 6042)
20 Tháng Tám 2018(Xem: 7828)