Chương 6: Khuyên nhủ các thiện tín tại gia

23 Tháng Chín 201516:07(Xem: 4839)
LỜI VÀNG 
ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC 
 
Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm 
Phiên dịch & thi kệ toát yếu 2015

Ấn Quang Gia Ngôn Lục - Phần IV

CHƯƠNG VI
Khuyên nhủ các thiện tín tại gia

 

Luận về Tâm Tánh
 
2974. Tâm là gốc, rộng lớn, bao gồm muôn pháp
Pháp thế gian và pháp xuất thế gian
Tâm bất sinh diệt, Tịch Chiếu càn khôn
Chỉ một tâm này, chỗ dụng của thánh phàm có khác
 Kẻ phàm phu đưa tâm vào trần cảnh
Lấy tham sân si làm đất dụng tâm
Rong chơi trong ái, dục, sát, đạo, dâm[1]
Tự tạo nghiệp, theo quả nhân lưu lạc
Kẻ chạy theo trần quay lưng với giác
Như Lai xót thương dạy lìa vọng hợp chân
Với người sơ cơ, Phật dạy “dứt vọng là chân”
Khi thuần thục, dạy “vọng và chân đồng thể”
Như gió lặng sóng yên, nước hồ tĩnh lặng
Tuyết sương tan dưới ánh thái dương hồng
Nước là băng, sóng là nước, thể tánh đồng
Nhưng tướng và dụng thì nghìn trùng khác biệt
Cho nên nói,
“Tu đức hữu công, tánh đức hiển hiện”
Vọng Hoặc trăm đường, qua lại, đẩy đưa
Nếu chưa hiện tướng tu, miệng nói tánh, cũng bằng thừa
Nên mãi mãi là chúng sinh, dù bàn cao, luận hạ
Vì vậy, Bồ Tát Quán Tự Tại hành thâm bát nhã
Mới chiếu soi năm uẩn thảy là Không
Cho dù phàm phu học: “ngũ uẩn là chân như diệu tâm”
Nhưng tâm mình không tu sửa thì diệu tâm thành trần trược.
Khi nước cuộn phong ba, hạt sương thành băng tuyết
Tướng theo tướng, luân hồi, còn biết tánh nơi nao
Khởi tâm tu, gió lặng, nước thôi chao
Vọng tình khởi như nước kia cuồn cuộn sóng
Lìa vọng dục, sáu căn đều hỗ dụng
Nước, lửa, dung thông theo tâm chuyển tùy nghi
Trên cõi hư không, ngồi, đứng, đến, đi
Nên Lăng Nghiêm nói,
“Kẻ quy nguyên, mười phương hư không tan biến.”
Quy nguyên có nghĩa là hồi quang phản chiếu
Khôi phục tánh chân sẳn có tựa ngọc châu [2]
Y giáo phụng hành, xứng tánh khởi tu
Kẻ cùng tử chính là con trưởng giả [3]
 
Chư Phật từng là chúng sinh gia công tu đức
Triệt chứng tánh đức bởi xứng tánh khởi tu
Lấy Phật tánh làm nhân địa, từ đó dụng công phu
Biết gương có tánh sáng nên năng lau chùi bụi bám
Đến một ngày gương sạch trong, chiếu rạng
Hình tướng đến đi, gương vẫn an nhiên
Trí tuệ hiển thông, đoạn sạch não phiền
An trụ tánh tịch quang nhưng thường chiếu.
Hóa độ chín pháp giới xuất ly sinh tử
Với chúng sinh, tánh đức, tu đức đều mê
Quang minh không hiện vì chẳng biết gương kia
Tánh vốn sáng nên không năng lau cho gương tỏ
Vẫn biết tánh sáng không do lau chùi mà có
Nhưng nếu không lau, gương sáng được hay sao
Quen sống trong não phiền, ôm ấp trần lao
Thân khẩu ý cùng tham sân si kết bạn
Biết ngày nào xoay chân về cố quán
Thọ dụng gia tài vốn sớm có phần
Nếu biết rằng Phật tánh có ba nhân [4]
Hẳn thông suốt, lòng không còn nghi hoặc
Chánh nhân Phật tánh là Pháp thân thường trụ
Nơi phàm không giảm, nơi thánh không tăng
Không nhiễm, không tịnh dù sinh tử hoặc Niết Bàn
Chúng sinh mê chánh nhân, chư Phật thì chánh giác
Liễu nhân Phật tánh tức là chánh trí
Chánh trí nương kinh mà biết chánh nhân
Tìm lại cội nguồn, bỏ vọng về chân
Liễu ngộ chân nguyên, phục hồi bổn tánh
Nhân thứ ba là duyên nhân Phật tánh
Là trợ duyên giúp tăng trưởng tuệ tâm
Liễu Ngộ tức là đã rõ chánh nhân
Chứng là tu thiện pháp để tiêu trừ Hoặc Nghiệp
Do vô minh tạo nhân duyên hư huyễn
 Tội phước xoay vần, chốn chốn sinh thân
Tùy nhiễm hay tịnh duyên mà có tứ thánh, lục phàm
Nhiễm khởi Hoặc, tịnh chứng Chân, đoạn Hoặc
Lúc tạo nhân thiện, khi gây nhân ác
Quả theo thân chẳng khác bánh xe quay
Chợt thăng thiên, chợt độn thổ chẳng định kỳ
Tâm tán loạn, bềnh bồng trong thiện, ác.
Nếu đoạn Kiến, Tư, chứng Thanh văn, Duyên giác
Phá vô minh, chứng Bồ tát từng phần
Phước tuệ viên mãn, tu đức đến tận cùng
Tánh đức phô bày, chứng thành Phật quả.
Tận công, tận dụng, Phật vị là kết quả
Tánh viên chân sẳn có, gọi bản tâm
Không thêm vào, không lấy bớt cội mầm
Vốn rạng rỡ, vén mây, vầng nguyệt bạch
Nếu không tận dụng công đức sẵn nơi tự tánh
Từ 52 quả vị, tứ thánh, cho đến phàm phu
Theo chỗ nông, sâu, mà tâm trụ khác nhau
3063. Chân tánh một bầu trạm nhiên, thường tịch.
 
Luận về ngộ chứng
 
Xưa nay ứng hóa thân có cao tăng và Phật Tổ
Dấu kín tông tích, hiện tướng trạng phàm phu
Trí Giả Đại Sư được nhìn như một Tiểu Thích Ca
Nhưng lúc lâm chung, khi môn sinh hỏi vế quả chứng
Đáp lời rằng,
“Nếu ta không bận lòng vì đồ chúng,
Hẳn là chứng được thanh tịnh sáu căn
Nay chỉ đắc Ngũ Phẩm bởi lo việc hóa hoằng”.
Trong Viên giáo, Ngũ Phẩm là Quán Hạnh
Chưa đoạn trừ Kiến Hoặc và Tư Hoặc
Tuy sở ngộ cùng chư Phật tương đồng
Người chân tu không phô đức bày công
Dạy kẻ hậu sinh luôn nhún nhường, khiêm nhẫn
Nay bè lũ chúng ma thường khoe chứng đắc
Đại vọng ngữ, tự chuốc tội vào thân
Sánh với Ngũ Nghịch, Thập Ác nặng đến vạn ức lần
Địa ngục A tỳ giam thân vô số kiếp
Có đáng chi chút hư danh phù phiếm
Vì dúm lợi cỏn con, chịu đọa lạc thiên thu
Chứng Thực Tướng trong một đời, phải là bậc đại trượng phu
Há kẻ mê danh hám lợi mà hòng đối ứng.
Chí khí cao, hiềm vì hạnh chưa cân xứng
Làm ô uế tánh linh, thêm cô phụ Phật ân
Phàm phu có thể đại ngộ nếu là hạng lợi căn
Hiển giáo gọi là “đại khai viên giải”
Hàng “danh tự tức Phật” [5] trong Viên giáo [6]
Ngũ trụ [7] chưa trừ nhưng sở ngộ cùng Phật tương ưng
Dù chế phục nhưng chưa trừ diệt não phiền
Nếu đoạn Kiến Hoặc thì chứng liền Sơ tín
Đoạn Tư Hoặc thì chứng liền Thất tín
Chứng lục căn thanh tịnh hỗ dụng hỗ tương
Có đại trí tuệ và đại thần thông
Thần thông Tiểu thừa không thể nào sánh kịp.
Nam Nhạc Tuệ Tư [8] trước và sau khi thị tịch
Hành trạng bất tư nghì khiến người khởi tín tâm
Nam Nhạc và Trí Giả đều là Đại sĩ Pháp thân
Chỗ thực chứng khó ai so lường được.
Chứng thực tướng,
Phá một phẩm vô minh, bắt đầu vào sơ trụ
Ngộ là thấy đường về nhà như núi hiện lúc tan mây
Chứng là về đến nhà, ngồi, đứng tùy nghi
Bồ tát Sơ địa không biết chỗ cất chân, giở tay của hàng Nhị địa
Biết ý nghĩa thì càng nên cầu sinh Tịnh độ
Dù chưa đạt đến chỗ Năng Sở tiêu vong
Dù chưa đến chỗ kiến tánh minh tâm
Nương Phật lực thọ thân nơi cõi Tịnh.
 
Người đời nay dùng thế trí biện thông để vào thực tướng
Chẳng mấy người biết phản bổn hoàn nguyên
Nếu biết niệm niệm hồi quang thì không bỏ lỡ bao phen
3113. Thấy được đệ nhất nghĩa ngay nơi nhánh cây, viên sỏi.
 
Luận về Tông, Giáo
Giảng sư thích giảng thiền trong thời mạt pháp
Công án trở thành hiểm họa cho người
Chấp vào những câu chuyển ngữ mà phỏng đoán nghĩa đầy, vơi
Thay vì giữ tâm tịnh gia công tham cứu
Công án giúp người bước vào cùng cảnh giới
Không phải là thí dụ của bậc thánh nhân
Hiểu lầm nên mang Tông phá Giáo, mang Giáo phá Tông[9]
Trở thành tệ nạn lưu truyền trong tứ chúng
Càng thuyết giải càng xa lìa ngộ, chứng
Nên chư Tổ dùng chuyễn ngữ tìm kẻ hợp cơ phong
Kẻ quen luận suy theo chữ nghĩa sẽ mông lung
Chẳng thể dùng văn ngôn toan hợp lý
Đời nay lắm kẻ học đôi ba câu đắc ý
Chẳng hiểu chi pháp Phật, pháp thế gian
Sơ phát tâm liền gia nhập thiền tông
Hàng tri thức cũng xiển dương dù chưa triệt ngộ
Không cẩn thận nhìn mỗi lời Phật Tổ
Lợi hại khó lường như thuốc độc và đề hồ
Người đời nay lo lắng việc thu thập môn đồ
Như kẻ đui dẫn kẻ mù kéo nhau vào lửa đỏ
Giáo[10] độ khắp ba căn[11] gồm thu lợi, độn
Tông[12] chỉ độ thượng căn, không nhiếp được hạ, trung
Kẻ hậu sinh khó lãnh hội được cơ phong
Thích lập lại công án để phô bày cái biết
Vỡ tung một thoại đầu có thể nhân tâm trực chỉ
Như Tăng Diêu vẽ rồng, khi điểm nhãn liền bay
Nhưng buổi mạt thời, tánh khí đã suy vi
Nên học giáo để tỏ tường gốc ngọn
Thiền, xiển dương tông phong, dùng giáo làm ấn chứng
Giáo, lúc tu trì không lấy thiền ngữ lạm bàn
Pháp Phật không cao thấp hoặc hèn, sang
3145. Do căn cơ nhiều ngã, lợi ích liền khác biệt.
 
Luận về trì chú
 
Trì chú chỉ nên như một trợ hạnh
Niệm Phật luôn là chánh hạnh khắp mọi thời
Cầu vãng sinh Tín-Nguyện-Hạnh khó đổi dời
Phàm phu cảm, vì đạo giao nên Phật ứng
Nghiệp lực chúng sinh hằng muôn triệu ức
Nếu quên Phật A Di Đà khó nỗi xổ lồng
Lực dụng vô biên vô lượng pháp môn
Không thể sánh với pháp môn Tịnh độ
Do tụng kinh, trì chú gieo trồng phước tuệ
Nếu trì chú cầu thần thông tức bỏ gốc, ươm cành
Đạt đạo rồi thần thông tự nhiên sanh
Nếu không đạt đạo, dù có thần thông cũng làm chướng đạo.
 
Người trì Chú không nên khởi tâm phân biệt
Tôn sùng chú Phạn văn, khinh rẻ Chú phiên âm
Phải biết rằng người dịch kinh chẳng phải hạng tầm thường
Chớ thấy bản văn có khác mà sinh lòng khinh thị
Thần lực của Chú muôn ngàn năm một vị
Trì Chú và khán Thoại Đầu, phương pháp như nhau
Tuy không hiểu nghĩa nhưng trì đến chuyên tâm
3165. Chí thành kính thì nghiệp tiêu, khai mở trí.
 
Luận về xuất gia
 
Pháp Phật làm nền cho chúng sinh trong chín cõi
Người trì trai, niệm Phật, số hằng muôn
Nhưng có được mấy người khiến mối đạo thịnh hưng
Nên người xuất gia chớ quên lưu truyền Phật pháp
Người triệt ngộ tự tánh, tâm Bồ đề khai phát
Lại chọn niệm Phật làm chánh hạnh tu trì
Cầu nguyện lực Phật A Di Đà mau chóng thoát ly
Người như vậy chẳng phải là dễ gặp
Biết bao kẻ thân khoác ca sa, đầu cạo tóc
Mượn danh tăng nhân, ni chúng để hưởng nhàn
Kẻ thì xưng danh con Phật làm kể ngụy trang
Dù chưa phá giới cũng đã là bại chủng.
Kẻ phá giới hẳn nhiên sa địa ngục
Chẳng biết xuất gia là bậc đại trượng phu
Há dành cho kẻ hạ liệt tham cầu
Bởi trọng trách người xuất gia ai dám gánh
Phải là người phá vô minh, hiển Phật Tánh
Mới đưa vai gánh gia nghiệp Như Lai
Xiển dương đạo hạnh, lợi ích muôn loài
Thắp đuốc tuệ nối giống dòng chư Phật.
Nay trong tăng chúng dẫy đầy hàng bội bạc
Người chân tu không đếm được mấy ai
Niệm Phật còn chẳng xong, nói chi đến gánh mối đạo Như Lai
Kể chi đến bảo tồn nguồn tuệ mạch
Xưa nhà Minh đưa ra kỳ khảo hạch
Vấn điển kinh với người muốn xuất gia[13]
Đời nhà Thanh phá bỏ luật ông cha
Sinh tệ nạn trong hàng hàng tăng sĩ
Cho tùy ý xuất gia chỉ nên với người thượng trí
Với kẻ hạ căn khó tránh nỗi nguy nàn
Người thượng căn chẳng dễ gặp cõi thế gian
Kẻ hạ trí dẫy đầy trong hiện đại.
Lông bò thì nhiều, vảy rồng đâu có mấy
Thanh tịnh tăng chẳng đếm được bao người
Nhận cho xuất gia nên chọn kẻ thiên tư [14]
Phát Bồ đề tâm giúp người, lợi vật
Riêng người nữ, nên sống tại gia, tu Phật
Bởi dù chân tu cũng không dễ tùy nghi
Không dễ ngồi nằm, ăn ở, đến đi
3205. Huống chi việc vào chốn hiểm nguy truyền mối đạo.
 
Lại nói về quỳ hương[15], tý hương[16] là môn lược khảo
Xưa Tổ Linh Phong[17] ngày ngày trì Phạm Võng, Lăng Nghiêm
Nên thường châm hương vào tay để tự nhắc đạo hạnh thiêng liêng
Để đối trị tham thân, mến sắc, là tập khí
Trong hạnh lục độ, đây là bố thí
Thấy người cho, kẻ nhận, vật là Không
Bố thí ba la mật, đến được Tam Luân[18]
Lại thể hiện được Tứ Hoằng Thệ Nguyện[19]
Nếu kẻ quỳ hương, tý hương có tâm bất tịnh
Chuộng hư danh, chấp công đức, ngã, nhân
Thì dù cho có đốt cả toàn thân
Cũng chẳng khác việc làm vô ý nghĩa
Nên kinh Hoa Nghiêm nói,
Rắn uống nước thành nọc độc, bò uống nước thành sữa
Người trí càng học càng mau chứng Niết Bàn
Kẻ ngu si càng học thì kiến chấp càng tăng
Sở-tri-chướng [20] mở rộng đường sinh tử
Tâm Bồ tát tựa hư không, lời lời như thiên sứ
Dùng muôn phương kế, hòng lợi lạc quần manh
Phàm phu chưa đắc pháp-nhẫn-vô-sinh [21]
Chớ bắt chước khiến thân tâm tổn hại.
Tuy rằng pháp tu có lục độ vạn hạnh
Việc lợi người chính là việc lợi mình
Nhưng kẻ hạ, trung căn hãy nên tùy phương tiện tu hành
Dù bước chậm nhưng vững vàng chẳng ngã.
Chớ buộc người bệnh phải làm theo công khóa
Tụng mấy thời, niệm mấy chuỗi mới là xong
Phải biết rằng công đức có từ tâm
Tùy hoàn cảnh, căn cơ mà tu tập.
 
Muốn cầu vãng sinh, trước phải buông bỏ tâm hỗn tạp
Tu sửa chính tâm mình là việc đầu tiên
Tận lực, tận tâm, riêng việc họa phước, cát hung
Niệm Phật sám hối, sẽ hóa lành, chuyển dữ.
Kẻ chẳng biết lập mạng thì chẳng phải là quân tử
Lập mạng do tận tâm, tận lực tu trì
Kẻ buông xuôi, giải đãi, mặc nhân quả an bài
Rồi lớn tiếng đổ thừa cho số mạng.
Người ý chí kém hèn nghĩ rằng khi quá vãng
Chỉ mong không sa vào ba cõi tam đồ [22]
Đâu biết rằng nếu chẳng thể vãng sanh
Ai dám bảo sẽ chẳng sa ác đạo?
Không nguyện về Tây phương, tức theo nhân thọ báo
Sáu nẻo luân hồi theo thiện ác xuống lên
Biết đời sau còn gặp được thiện duyên
3250. Nghe hiệu Phật, tu theo kinh Phật dạy.
 
Luận về báng Phật
Phật nhìn tất cả chúng sinh đều là Phật
Tùy thuận căn cơ thuyết pháp độ quần manh
Giúp tiêu trừ vọng nghiệp, hiển bổn tâm
Chúng sinh thấy Phật là chúng sinh trần tục
Nên chín mươi lăm ngoại đạo nơi Thiên Trúc
Tại Trung Hoa thì có bọn hủ nho
Dốc một lòng hủy diệt, báng Phật môn
Phá hình tượng, đổi tên danh vị Phật
Ví như trẻ dùng tay che mặt nhật
Càng cố công càng lộ rõ chỗ ngu si
Có biết đâu tâm Phật bất tư nghì
Kẻ nghe được câu kinh như gieo trồng hạt giống
Như giọt mưa xuân thấm nhuần khắp chốn
Tươi mát cội mầm, nẩy lộc non xanh
Xưa nay,
Văn chương chỉ vài ba nơi nổi tiếng, thịnh hành
Riêng giáo pháp lan tràn muôn cảnh giới
Bốn biển, năm châu, hằng vô số cõi
Khác Nho gia, Phật lấy giác làm tông
Khiến Thủy giác [23] và Bổn giác [24] hòa chung
Viên tánh đức[25] tức tựu thành quả Phật
Nho gia nói về việc minh minh đức[26]
Phật lấy việc thấy tánh rạng rỡ bản tâm
Thanh văn, Duyên giác đoạn Kiến, Tư Hoặc đắc lục thông
Trải 41 địa [27], phá vô minh thành Phật vị.
Thủy giác hợp bổn giác, chánh chân bất nhị
Phật tùy duyên thuận nghịch lợi quần manh
Đức Thích Ca vô lượng kiếp độ sinh
Ứng thân trải khắp ba nghìn thế giới
Tùy cơ lập giáo, ra vào các cõi
Khi thị hiện sinh thân, khi thị hiện Niết Bàn
Như vầng dương rực rỡ chẳng khi tàn
Như ông lái đưa thuyền hai bến nước
Kẻ ngoại đạo trộm lời kinh nối sau, nối trước
Lại dùng danh hiệu Phật để tu tà
Phật thương đời nên không ngớt lại qua
Hiện muôn thân tướng, gọi người trong cõi mộng.
 
Luận về kinh điển
 Người minh mẫn học giáo tông, tánh tướng
Vẫn phải lấy Tịnh tông làm chánh hạnh tu hành
Kẻ căn cơ thấp kém, thiếu thông minh
Càng nên chọn Tịnh tông làm tuệ mạng
Pháp Phật vô biên, khó liễu thông tường tận
Không dễ gì theo sách vỡ thấy được chân như
Việc hiệu đính bản kinh không khéo thì hư
Chớ vội vã phê bình không chính đáng
Kinh Hoa Nghiêm là vua trong tam tạng
Các kinh Đại thừa lấy thật tướng làm tông
Diệu Pháp Liên Hoa quy nhất hội tam [28]
Khai Tích hiển Bổn, khai Quyền hiển Thật [29]
Tông Thiên Thai nói rằng,
Diệu Pháp Liên Hoa thuần viên, độc diệu
Vượt qua Quyền, chỉ giảng đốn giáo môn
Nhưng phải biết rằng,
Mỗi tàng kinh ứng hợp pháp viên thông
3305. Năm thời giáo vì đối cơ mà lập.
 
Luận về bốn cõi Tịnh độ [30]
 
Cũng như vậy, nay nói về bốn cõi
Phàm Thánh Đồng Cư là cõi đới nghiệp vãng sinh
Cõi Phương Tiện Hữu Dư là cõi của Nhị thừa
Đã đoạn diệt Kiến Hoặc và Tư Hoặc.
Cõi Thật Báo của hằng sa Bồ tát
Đoạn vô minh và chứng đạo từng phần
Thường Tịch Quang là cõi Phật Pháp Thân
Thường tịch thường chiếu, bát nhã và giải thoát.
Luận về sự lý, đọc Di Đà Yếu Giải [31]
Trí đức[32] và Đoạn đức[33] thảy viên dung
Nên biết rằng,
Cõi Thật Báo và Tịch Quang, vốn dĩ hòa chung
Bởi xứng tánh nên gọi là Thật Báo
Tịch Quang tức nhập vào ngôi Phật bảo
Gọi là hai nhưng tánh tướng nhất như
Tánh là Tịch Quang, tướng như vi trần hiện khắp thái hư
Tánh như gương báu, tướng đến đi đều rõ mặt
Hồ đến thì hiện Hồ, Hán đến thì hiện Hán
Vì muốn người dễ rõ thông nên mới nói cách ly
Hữu tướng, vô tướng, hữu vi, vô vi
Cùng nghĩa ấy, tuy có cao, có thấp.
Nhưng chẳng phải vô tự hơn hữu tự
Chẳng phải vô vi luôn siêu việt hữu vi
Bởi có người chẳng tin cảm ứng bất tư nghì
Cho rằng cảnh Phật chỉ do tâm biến hiện.
Thiền lấy tự tánh nguyên lai làm tông chỉ
Tịnh lấy Tín-Hạnh-Nguyện mở đường đi
Bởi đời này người thượng trí khó gặp thay
Nếu lại dạy người tham cứu câu niệm Phật
Phàm phu dù tham cứu được, vẫn chỉ là tỏ ngộ
Tham không xong, thì diệu ngộ chẳng phải gần
 Biết “kẻ niệm Phật là ai”, tức thấy được tánh chân
Đà đến chỗ đại ngộ và đại triệt.
Cũng chớ cho rằng Tịnh tông dành cho người hạ liệt
Người cầu sinh đất Phật há ngu si?
Người tham thiền đời nay thiếu thiện tri thức chỉ bày
Khó có thể đến chỗ minh tâm kiến tánh.
 
 
 
Có thể nói: “Cảnh kia tùy tâm hiện”
Nhưng chẳng thể cho rằng không có cảnh Phật lúc lâm chung
Vốn biết rằng không một cảnh ngoài tâm
Nhưng cảnh giới Phật là pháp môn tu chứng
Như kẻ về đến nhà, sau tháng năm phiêu lãng
Chớ nói duy tâm mà phá hoại pháp Như Lai
Mở miệng nói “duy” thì đã lầm sai
 “Tâm”? Có thật biết khi nào chân khi nào vọng?
Xưa kia Lã Thuần Dương gặp Chung Ly Quyền nơi quán trọ
Họ Lã gối đầu trên chiếc gối của họ Chung
Trải giấc mộng dài, năm mươi năm phú quý tột cùng
Lúc tỉnh dậy, nồi kê vàng chưa chín!
Đó chỉ là cảnh do thần tiên hóa hiện
Huống chi là cảnh Phật hiện, sao dám lạm bàn?
Chớ nói về cảnh Phật qua kiến thức thế gian
Tuy là “một niệm hiện ba nghìn thế giới” [34]
Như trong một tấm gương, hiện hình muôn cảnh vật
Sông núi chập chùng, liễu múa hoa cười
Nhưng gương bất động, chẳng đổi chẳng dời
Sắc pháp thế gian mà còn như thật
Huống chi là người đã chứng tâm đồng tâm Phật
Trên đầu sợi lông hiện cõi bảo vương
Ngồi trong vi trần, chuyển đại pháp luân [35]
Cho nên cảnh Phật hiện cũng tùy theo sở chứng
Người thấy được diệu cảnh chẳng phải là vô cớ
Bồ tát dùng Quyền hiển Thật, dùng Ứng hiển Chơn
Như Bồ tát Văn Thù ứng hiện Ngũ Đài Sơn
Như Quán Thế Âm nơi Phổ Đà hiện tướng.
Nhưng cũng lắm kẻ chưa từng thấy được
Nghe truyền tai thì tiếp tục truyền tai
Năm Quang Tự, Ấn Quang tôi đến viếng Ngũ Đài
Bởi muốn tìm đọc “Thanh Lương Sơn Chí”
Hơn bốn mươi ngày, gặp nhiều người triều bái
Kể nhau rằng thấy được Đức Văn Thù
Nói thấy thì nhiều, chẳng mấy kẻ trì tu
Nên có thấy cũng chẳng thể là thật thấy.
 
Luận về thần thông nên biết sư Đạo Tế [36]
Ăn thịt uống rượu để tự che đức thánh nhân
Giả làm người ngu hòng ở lại cõi thế gian
Ăn chim chết, khi ói ra thành chim sống.
Uống chung rượu, khạc ra thành vàng tô tượng
Nếu cho rằng Bồ tát cũng như ai
Nếu người đời uống rượu, mà chẳng cùng với đời say
Nếu ăn thịt mà nhả ra sinh mạng
Thì hãy uống rượu, ăn thịt như Bồ tát
Còn bằng không, xin chớ có đa ngôn.
 
Cái khổ thế gian là thuốc trị bệnh chẳng gì hơn
Thân trôi giạt biến ra thành pháp bảo
Người ở Bắc Câu Lô Châu không vào được đạo
Người cõi Diêm Phù oan khổ với dãi dầu
Một đời không kết thảm thì cũng đeo sầu
Chợt nhìn lại, tiếc tháng ngày trôi nổi.
Dâng phiến băng tâm, cầu sinh về đất mới
Rũ sạch bụi hồng, tìm lại nét phong tư
Dúm phù hoa vùi dập đã bao thu
Miền phước địa, nay gieo trồng giống Phật
Ai biết được kẻ ngang tàng, bội bạc
Lại chẳng là một Bồ tát ứng thân
Đọa đày người, gây não hại khốn cùng
Như tiếng trống thúc giục người mê muội.
 
Nay lại nói đôi câu về xá lợi
Còn gọi là kim cốt hoặc xương thiêng
Kết tụ do Tâm và Đạo hợp thành
Chớ chẳng phải tinh-khí-thần tu luyện
Cũng không phải khi hỏa thiêu mới hiện
Nơi người chân tu, xá lợi sống tượng hình
Xương, thịt, tóc[37], da, mỗi mỗi kết tinh
Bởi thân ấy không phải là thân ô trược
Thiền sư Tuyết Nham[38] cạo tóc hóa thành xá lợi
Có người trì danh, miệng nhả ngọc, phun châu
Người in kinh thấy ngọc giữa Long Thư [39]
Người thêu tượng, đầu kim tuôn chỉ ngọc
Ngày hỏa thiêu sư Trường [40], trời nổi cơn gió lốc
Khói mù bay muôn dặm biết đâu là
Khói đến nơi nào thì xá lợi tựa châu sa
Đồ chúng thâu nhặt mang về hơn bốn thạch.[41]
Tuy mầu nhiệm nhưng rõ ràng, minh bạch
Chẳng có điều chi gọi là dấu kín, bí truyền
Tà đạo dùng cách bí hiểm, buộc phải thệ nguyền
Lời độc hại tương tự như áp đặt.
Đức Thế Tôn không có pháp gì bí mật
Dạy một người không khác dạy trăm nghìn
Giữa đạo tràng nói lời chánh đại, quang minh
Không bưng bít, không đặt người canh gát
Người học Phật phải đề cao cảnh giác
Chớ lầm bọn yêu tà mượn pháp Như Lai
Khi dạy người thì cửa đóng, then cài
Luôn chiêu dụ rằng có khẩu truyền huyền bí.
 
Việc cầu cơ cũng là một trong những trò nhãm nhí
Chiêu cảm hồn ma giả dạng thánh thần
Hỏi chuyện thế gian thì chuyện biết, chuyện không
Hỏi Phật pháp thì nói quanh nói quẩn
Hồn nương dựa vào lòng người dẫn dắt
Thánh muốn dạy người chẳng nhọc giáng vào cơ
Lòng tham cầu sinh tai họa khó ngờ
3438. Hãy chuyên chú vào pháp môn niệm Phật.
 
Chương 6
Khuyên nhủ các thiện tín tại gia
 
Không nên phân đôi Khổng học và Phật học
Phải tận luân thường mới tận được bổn tâm
Nho học dạy người tận hiếu, tận trung
Phật học dạy người khai tâm, mở tánh
Việc lành thì theo, việc ác thì xa lánh
Kẻ bất nhân há dễ vào Phật đạo được sao.
Nền móng nhà suy sụp lại muốn xây cao
Tà tâm không sửa, mong chi thành Phật.
Trên đường đời, hiếu đạo là bậc nhất
Há xếp trang kinh liền hỗn láo với mẹ cha
Chánh báo [42] và y báo [43] cũng do ta
Chớ phiền trách, chớ đổ thừa mệnh số.
Khách gặp hôm nay do ta mời từ mấy thuở
Quả ác theo nhân ác, chẳng lầm sai
Đã vào chung một nhà, cẩn thận giữ hòa hài
Lòng từ ái sẽ chuyển xoay nhân quả
Pháp Phật dạy gồm thu chín pháp giới
Phật không thuyết lời kinh mà người chẳng thể thực hành
Chớ bảo rằng pháp Phật tận mây xanh
Pháp phàm tục mới dễ sanh, dễ sống.
Đã dễ sanh thì cũng là dễ diệt
Dễ sống thì cũng dễ chết vậy thay
Nên phát huy thiện căn, tánh đức mở khai
Dù trong thế tục cũng trọn đường thế tục.
Ngoài huyền cơ nương nhờ vào Phật lực
Phật dạy về nhân quả suốt ba đời
Đoạn Hoặc chứng Chân, viên mãn Bồ đề
Là những việc Nho giáo chưa hề nghe đến.
Huống chi là vô tu và vô chứng [44]
Là pháp thâm sâu Nho giáo lượng được sao
Nhưng phải đi cho vững trước khi muốn trèo cao
Muốn hiểu Phật Tổ, trước phải theo Hiền Thánh.
Kẻ trái nghịch luân thường thì dám cùng ai sánh
Lại chen vào cửa Phật nói chuyện thấp, cao
Cha hãy từ, con hãy hiếu, thì mới luận cạn, sâu
Học căn bản vững thì lo chi không đạt đạo.
Nho giáo là nền móng trải đường Phật đạo
Nguồn đã sạch thì nước hẳn trong veo
Muốn là chân Phật tử thì chân Nho phải học theo
Muốn thành Phật trước phải là quân tử.
Vua chọn trung thần từ trong hiếu tử
Kẻ tiểu nhân làm sao gánh được đạo Như Lai?
Làm sao nối tuệ mạng, hóa độ muôn loài?
Nên phải biết, pháp Phật gồm thu Tiểu, Đại.
Pháp thế gian, xuất thế gian, đều trong Phật pháp
Nhân đạo vẹn toàn thì Phật đạo mới viên dung
Nếu đối cha bất hiếu, đối vua bất trung
Lễ nghĩa liêm sỉ chẳng hề sáng tỏ
Thì dù có xây chùa cao, khua chuông, đánh mõ
Không tu tâm, Phật chẳng thể gia trì
Như người ngộ độc, uống thuốc bổ vào thì có ích chi
Trước phải ói ra cái độc, gọi là đoạn Hoặc.
 
Luận về giáo dục gia đình
Gia đình hưng thịnh cần gia quy nghiêm chỉnh
Tan nát gia đình bởi bỏ phế gia quy
Muốn con nên người, cha mẹ thận trọng mỗi hành vi
Tránh nhân ác, và dạy con trồng nhân thiện.
Giáo dục trong gia đình là điều khẩn thiết
Hãy dạy con từ lúc bế trong nôi
Khi lớn lên quen tánh thiện, bước vào đời
Đối cảnh, gặp người, biết câu nhân ái.
Không như kẻ ỷ vào thông minh, khinh người ngu dại
Dù tài cao, chí lớn, học rộng, biết nhiều
Không biết nghĩa nhân, mê lợi đánh liều
Hủy diệt đạo nghĩa, khinh thường nhân quả.
Đa phần người như vậy do gia đình buông thả
Lúc bé thơ hãy dạy tánh siêng năng
Hãy dạy con làm những việc vừa sức, vừa thân
Chớ cung cấp áo quần xa hoa, lòe loẹt.
Khi con phí phạm vật dụng, nên răn đe, giải thích
Dạy con biết ơn người chế tạo, vun trồng
Khi con biết đọc, hãy cho con sách dạy đức ân
Gây dựng nền tảng từ thuở còn bé bõng.
Cha mẹ không dạy con đúng cách, khi con hư hõng
Không biết lỗi mình, chỉ biết chối bỏ con
Vừa thiếu lòng nhân mà trọng trách chẳng vuông tròn
Trách người dễ, trách chính mình chẳng dễ.
 Dạy con như vậy, đứa có thiên tư xuất thế
Sẽ trở thành bậc anh kiệt, vĩ nhân
Đứa không sẵn thiên tư cũng sẽ có tình thương
Tánh vốn thiện, sẽ dạy người hướng thiện.
Không biết dạy con nên đứa thông minh dễ thành ngụy biện
Kênh kiệu với người bởi chẳng biết nhún nhường
Không biết thương người ngu dại, bởi thích phô trương
Không được dạy khuôn phép nên biết đâu đạo hiếu.
Cha mẹ thương con nên dạy câu Phật hiệu
Vun bồi phước tuệ, tăng trưởng thiện tâm
Từ ấu thơ, dạy không làm hại thú cầm
Khi khôn lớn ngại làm điều gian ác.
Dạy con thành nhân là việc làm bậc nhất
Mỗi việc làm đều theo dấu hiền nhân
Đó chính là dùng thế tục tu chân
Tình yêu mến nên mang màu bi trí.
Đứa nhỏ dại thường cận kề mẹ, chị
Nên vai trò phụ nữ chớ xem thường
Xưa Thái phu nhân sinh hạ Văn Vương[45]
Đức lớn rộng dạy con thành bậc thánh.
Muốn dựng nước, con gái là điểm chánh
Là người sinh thành và ảnh hưởng bậc trượng phu
Nếu thuở bé thơ không được dạy toàn chu
Khi làm vợ biết đâu là chánh đạo.
Sinh con cái, nếu không phải do hiền mẫu
Bước vào đời, biết thành bại ra sao
Giúp chồng, dạy con, là trách nhiệm bậc nữ lưu
Chớ bương bãi theo cành mà bỏ gốc.
Ấn Quang tôi thường nói,
Nữ nhân chính là bậc tề gia trị quốc
Tự bên trong rường cột của lương tri
Đời nay lắm kẻ chỉ lo trau chuốt mặt mày
Lòng bất thiện, dạy con lời bất thiện.
Mẹ là hiền mẫu thì hiền nhân xuất hiện
Giáo dục gia đình chuyển cộng nghiệp đó thôi
Tai họa liên miên bởi giáo dục suy đồi
Chẳng lo thất đức mà chỉ lo thất nghiệp.
Muốn có con hiền, hãy nên bồi đức
3553. Biết đạo trời thì gầy dựng được thế gian.
 
Khuyên nên tại gia hoằng pháp
 
Học Phật là để khôi phục bản tâm
Không phân biệt còn tóc hay cạo tóc
Với cư sĩ, nhà chính là trường học
Pháp quyến không ngoài cha mẹ, vợ con
Tự tu hành, khuyên nhủ bạn đồng môn
Cùng quy hướng trì danh cầu Cực Lạc.
Khuyên cha mẹ tu hành là con đại hiếu
Biết lạc về đâu khi cha mẹ mất thân
Xưa vua Đại Vũ là bậc thánh nhân
Vẫn không thể cứu khi cha đầu thai làm thú.[46]
Với người chung quanh, lòng hằng khuyên nhủ
Một người cầu vãng sanh tức thêm một Phật viên thành
Đây mới chính là ý nghĩa độ sanh
Tâm hằng tư lự, lo chúng sinh không tin nhận.
Bỏ mất cơ hội đời đời không thấy Phật
Đức từ bi thể hiện tại nơi đây
Hằng nhắc nhở người hết dạ tu trì
Nhớ nỗi khổ luân hồi trong sáu ngã.
Người thế gian dễ theo đời sa đọa
Khi biết tu hành lại cầu phước báu nhân thiên
Cầu thần thông, cầu tuổi thọ thần tiên
Không biết nguyện được sinh về Lạc quốc.
 
Chữ Hiếu của thế gian thường theo cành, bỏ gốc
Dạy chăm lo, cung cấp vật cần dùng
Dạy quạt Hè, ấp lạnh lúc trời Đông
Dạy thành đạt, làm rạng danh tiên tổ.
Sợ mất giống nên gã chồng, dựng vợ
Sợ lúc qua đời không có kẻ khói hương
Sợ mất bàn thờ mà chẳng sợ lỡ mất Tây phương
Dù chu đáo nhưng vẫn là thế sự.
Đối với giải thoát không mảy may ích lợi
Dù được xem là hiếu tử, tiếng lưu đời
Cũng chỉ là câu khen ngợi nhất thời
Sao sánh được với tấm lòng từ mẫn.
Đạo hiếu xuất thế gian lìa tâm vương vấn
Vượt thế tình, lo sinh tử của mẹ cha
Khuyên cầu Tây phương như giục mẹ về nhà
Khuyên tìm bổn tánh như tìm gia tài chôn kín.
Kinh Địa Tạng nói về kẻ ngu si hiếu kính
Lúc cha mẹ lâm chung lại giết hại heo, gà
Mang lên bàn thờ như kết chặt mối oan gia
Khiến cha mẹ càng khó khăn siêu độ
Người đại hiếu vẹn hai đường lớn, nhỏ
Cả thế gian và cả xuất thế gian.
Thường chăm nom nhưng khéo léo khuyên can
Dùng thân chính mình nêu gương đạo hạnh
Khuyên niệm Phật, ăn chay, cầu sinh cõi Tịnh
Không tạo thêm tội thì đới nghiệp vãng sinh.
Chín phẩm sen vàng an trú tánh linh
Nơi đất Phật sẽ viên thành quả Phật.
Nếu cha mẹ đã bỏ thân, ngày ngày truy tiến [47]
Luôn tu hành mong hồi hướng Tây thiên
Nếu chưa vãng sinh thì sẽ được vãng sinh
Nếu đã vãng sinh, nâng cao phẩm vị
Được như vậy tức làm bốn lời nguyện thệ [48]
Cũng hoàn thành pháp tự lợi, lợi tha
Không những là báo đáp hiếu mẹ cha
Mà công đức chính mình thêm thù thắng.
Đó là kẻ biết dùng thân thuyết pháp
Lục đạo chúng sinh là quyến thuộc lâu xa
Độ chúng sinh tức trả hiếu mẹ cha
Nên Phật dạy, hiếu thuận là chí đạo.[49]
Nên phải biết,
Một chữ hiếu trả cho tứ sinh[50], lục đạo[51]
Trong luân hồi đã thay mặt, đổi tên
Gặp lại nhau chẳng biết để đáp đền
Việc nhỏ nhất là trường chay, không giết hại.
Với người không tin, chẳng nên tranh cãi
Làm hết phận mình theo thuyết chính danh[52]
Không nên ép người niệm Phật vãng sanh
Chẳng khác kẻ đè đầu bò cho gặp cỏ.
Thời nay pháp nhược ma cường, người tại gia nên hỗ trợ
Chuyên trì ngũ giới, niệm Phật Di Đà
Tự mình tu hành, khuyên nhủ gần xa
Phải biết rằng, đó là việc chung của tứ chúng [53]
  Thân tâm đoan chánh, người người vâng phục
Không khiến sai mà người tự y theo
Như gió thổi qua, cỏ nép thuận chiều
Giữa phố thị, nói, làm, theo chánh kiến.
Nên Ấn Quang tôi viết câu đối liễn:
“Đường tắt Tây phương nếu chẳng biết dùng
Pháp Phật trong chín cõi, đâu là chỗ viên dung?
Bỏ pháp Tịnh độ, Phật mười phương không độ khắp”.
 
Khuyên nên ở nơi trần thế học đạo
Hàng cư sĩ có trăm điều lo tính
Cha mẹ, vợ con, công sở, cửa nhà
Nên tùy phận mình mà tu tập tại gia
Chẳng thể bỏ tất cả, ngồi yên mong nhập định.
Cho nên, niệm Phật là pháp môn cứu cánh
Khẩu niệm hay tâm niệm cả mọi thời
Lúc đến đi, khi ngủ nghỉ, đứng ngồi
Tâm luôn giữ lấy một câu Phật hiệu.
Muốn học pháp xuất thế, thân không cần xuất thế
Sống giữa chợ đời, nương pháp Phật chuyên cần
Đi đứng, nằm ngồi, nói nín, uống ăn
Nhất cử nhất động đều thuận theo Phật trí.
Được như vậy, một niệm gồm thu ba ngàn cảnh giới[54]
Huống chi là việc đoạn Hoặc chứng Chân
Liễu thoát tử sinh, ngự cõi Liên bang
Xưa cũng vậy mà ngày nay cũng vậy.
Có khác chi Duy Ma [55], Bàng cư sĩ [56]
Đệ tử Như Lai phải đâu tất cả phải vào chùa
Sống tại gia nhưng việc ác ngăn ngừa
Giữ câu Phật hiệu, thân tâm hằng kiểm thúc.
Ngày cũng như đêm, năm canh, sáu khắc
Giữ chân tâm như giữ tuệ mạng Như Lai
Đến một ngày, phát hiện Thực Tướng Không Hai
Sánh vai bậc xuất gia đâu thua kém.
Vẫn hơn kẻ cạo đầu nương cửa Phật
Chuông mõ lơ là, kinh kệ qua loa
Yên phận dần dà, mặc ngày tháng lại qua
Chưa ngộ được đạo, huống chi là chứng đạo.
Sống đời tại gia nhưng biết lấy khổ làm pháp bảo
Bổn phận viên toàn, đủ đức hiếu sinh
Có tiền tài thì cứu giúp kẻ lênh đênh
Có trí tuệ thì khuyên người nên niệm Phật.
Như thuyền xuôi dòng, căng buồm trên sóng nước
Chẳng nhọc công lao liền đến bờ kia
Nếu lãm thông thì Thiền Tịnh song tu
Nhưng phải lấy Tịnh môn làm rường cột.
Nếu là kẻ trung căn thì không cần thông kinh luận
Nhưng luôn ghi lòng việc ác không làm
Luôn trì danh hiệu Phật, hướng Liên bang
Tuy nhàn hạ nhưng bên trong ngầm thông Phật trí.
Cán cân công phu nghiêng về người chánh tín
Được lợi ích thâm sâu hơn kẻ đa văn
Bởi đa văn nên cứ mãi tính toan
Dùng tri kiến thế gian mà luận nghị.
Nếu biết buông xả trăm lo ngàn nghĩ
Sẵn thông minh sẽ triệt ngộ, không lầm.
Tín-Hạnh-Nguyện song hành sẽ vào được bản tâm
Nếu chẳng vậy, tri thức kia chỉ để dành phỏng đoán.
Kẻ tham thiền nếu không minh-tâm-kiến-tánh
Suy luận nọ kia thì chỉ là mớ kiến thức tả tơi
Mang tiếng tham thiền nhưng chỉ là tham chữ, chuộng lời
Càng nghiền ngẫm càng sa vào bế tắc.
Người diệu ngộ là ngộ ra tánh Phật
Nào phải đâu chỉ giải được nghĩa văn chương
Thấy tánh rồi, thực chứng mới phi thường
3692. Nếu chẳng được vậy, phải gia công quán chiếu.


[1] Ưa thích, ham muốn, giết hại, trộm cắp, dâm dục.

[2]  Hệ Châu, kinh Pháp Hoa

[3] Phẩm Thí Dụ, kinh Pháp Hoa

[4] Chánh nhân, Liễu nhân, Duyên nhân Phật tánh.

[5] Lục tức thành Phật: (六卽成佛): trong giáo nghĩa của Thiên Thai Tông có luận một cách có hệ thống về các giai vị từ sơ phát tâm cho đến khi đạt quả vị Phật và phân chia ra thành Bốn Giáo là Tạng, Thông, Biệt, Viên. Về bản chất thì chúng sanh tức là Phật, nhưng về mặt tu hành thì lại có Sáu Tức, gồm:

(a) Lý Tức (理卽, về mặt bản lai thì có thật tại thành Phật),

(b) Danh Tự Tức (名字卽, lấy đây làm lý niệm mà lý giải),

(c) Quán Hành Tức (觀行卽, quán tâm tu hành để thể nghiệm),

(d) Tương Tợ Tức (相似卽, sáu căn thanh tịnh tương tợ với chơn giác ngộ),

(e) Phần Chứng [Chơn] Tức (分証[眞]卽, thể hiện bộ phận của chơn như) 

(f) Cứu Cánh Tức (究竟卽, hoàn toàn giác ngộ).( Phật học Tinh tuyển)

[6] Tông Thiên Thai chia ra Tứ giáo: Tạng, Thông, Biệt, Viên.

[7]  Kiến hoặc, Tư hoặc, Trần sa hoặc, Vô minh tổng cộng là ngũ trụ.

[8] (515-577) ở Nam Nhạc ( 南嶽); tổ thứ hai của tông Thiên Thai; Huệ Tư là người sớm nhất hệ thống ba thời kỳ của giáo pháp, và chủ trương thời kỳ thứ ba, thời mạt pháp đã đến. Tôn sư của Thiên Thai Trí Giả.

[9] Tông: chỉ cho Thiền tông

[10] Chỉ cho Tịnh độ, và hiển giáo.

[11] Thượng, trung, hạ

[12] Chỉ cho Thiền tông.

[13] Đời nhà Minh, người xuất gia phải trúng tuyển kỳ thi về kinh Phật mới được cấp giấy chứng nhận (độ điệp) là tăng sĩ.

[14] Ý nói người có chí khí cao thượng.

[15] Người xuất gia chịu châm hương đang cháy vào đầu để chứng minh sức định lực dùng thân cúng dường pháp.

[16] Người xuất gia chịu châm hương đang cháy vào cánh tay để chứng minh sức định lực dùng thân cúng dường pháp.

[17] (蕅益智旭) Cao tăng Trung quốc sống vào đời Minh, người Mộc độc, huyện Ngô, tỉnh Giang tô, họ Chung, tự Ngẫu ích, hiệu là Bát bất đạo nhân. Vì sư ở núi Linh phong (huyện Hàng, tỉnh Chiết giang) xây chùa, lập Liên xã, viết sách... nên người đời gọi sư là Linh phong Ngẫu ích Đại sư. Thủa nhỏ, sư theo Nho học, thề sẽ tiêu diệt đạo Phật và đạo Lão, nhưng khi tình cờ được đọc các tác phẩm Tự tri lục và Trúc song tùy bút của ngài Châu hoành, sư liền đốt bỏ cuốn Tịch Phật luận (bàn về việc diệt Phật) do sư biên soạn. Trong thời gian thụ tang cha, sư được biết bản nguyện của bồ tát Địa tạng nên có ý định xuất gia. Năm 22 tuổi, sư chuyên tâm niệm Phật. Năm sau, sư phát 48 nguyện, tự xưng là Đại lãng ưu bà tắc. Năm 24 tuổi, sư lễ ngài Tuyết lãnh đệ tử của Đại sư Hám sơn xin xuất gia. Sư học Hoa nghiêm, Thiên thai, Duy thức, muốn thống nhất Thiền, Giáo, Luật, tổng hợp các hệ thống Phật giáo, nhưng trên phương diện tu trì thực tiễn thì nghiêng nặng về pháp môn niệm Phật. Đồng thời, sư còn nghiên cứu về Nho gia, Cảnh giáo và chủ trương dung hợp Phật, Đạo và Nho. Sư cùng với các ngài Hám sơn, Tử bá và Liên trì được tôn xưng là Tứ Đại Cao Tăng đời Minh. Năm 1655 sư thị tịch, thọ 57 tuổi. Sư có các tác phẩm: Duyệt tạng tri tân, Di đà kinh yếu giải, Linh phong ngẫu ích tông luận và các bản chú thích Đại thừa khởi tín luận, Đại thừa chỉ quán luận. [X. Tịnh độ Thánh hiền lục Q.6; Linh phong Ngẫu ích đại sư tông luận Q.1]. (xt. Trí Húc).

[18] Tam luân thể Không (người cho, người nhận, vật bố thí đều Không)

[19] Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. - Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. - Pháp môn vô biên thệ nguyện học. - Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

[20] (所知障) Phạn: Jĩeyàvaraịa. Cũng gọi Trí chướng, Trí ngại. Đối lại: Phiền não chướng. Chấp chặt vào pháp đã chứng được, khiền cho trí chân như căn bản bị ngăn che, là 1 trong 2 chướng. Do vô minh căn bản mà chúng sinh mờ mịt đối với cảnh giới sở tri, che lấp pháp tính mà trở thành chướng ngại cho chủng trí trung đạo, cho nên gọi là Trí ngại. Theo luận Đại tì bà sa quyển 141, luận Đại thừa khởi tín và Câu xá luận quang kí quyển 1 thì Bất nhiễm ô vô tri tức là Sở tri chướng. Còn luận Thành duy thức quyển 9 và Phật địa kinh luận quyển 7 thì cho rằng Sở tri chướng lấy Tát ca da kiến chấp trước các pháp biến kế làm đầu. Nghĩa là tất cả nghiệp phát khởi và quả thu được của các pháp Kiến, Nghi, Vô minh, Ái, Khuể, Mạn... đều bao hàm trong Sở tri chướng, đều lấy pháp chấp và vô minh làm căn bản, vì thế chướng này chỉ tương ứng với 2 tâm Bất thiện và Vô kí, trong tất cả phiền não đều có chướng này. Cứ theo kinh Bồ tát địa trì quyển 9 thì Nhiễm ô sở tri chướng có 3 loại: Bì (lớp bên ngoài), Phu (lớp ở giữa) và Cốt (lớp trong cùng),bậc Hoan hỷ trụ đoạn được Bì, bậc Vô khai phát vô tướng trụ đoạn được Phu, bậc Như lai trụ mới đoạn được Cốt tủycủa Sở tri chướng. [X. kinh Giải thâm mật Q.4; phẩm Hóa trong kinh Nhập lăng già Q.8; luận Thành duy thức Q.10; Đại thừa khởi tín luận nghĩa sớ Q.thượng phần cuối, Q.hạ phần đầu; Hoa nghiêm ngũ giáo chương Q.3]. (Từ điển Phật Quang)

[21] 無生法忍: An trụ ở lý vô sinh diệt mà tâm không lay động.

[22] Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

[23] (始覺) Đối lại: Bản giác. Sự giác ngộ do quá trình tu tập hậu thiên mà đạt được. Luận Đại thừa khởi tín cho rằng thức A lại da có 2 nghĩa là Giác và Bất giác, Giác lại có Thủy giác và Bản giác khác nhau. Trong đó, trải qua quá trình tu tập hậu thiên, dần dần đoạn trừ vọng nhiễm từ vô thủy đến giờ mà biết được nguồn tâm tiên thiên, gọi là Thủy giác, cũng tức là phát tâm tu hành, lần lượt sinh khởi trí đoạn hoặc, phá vô minh, trở về bản tính thanh tịnh của Bản giác. Đại thừa cho rằng tâm người ta xưa nay vốn lặng lẽ bất động, không sinh không diệt, thanh tịnh vô nhiễm, gọi là Bản giác(tâm thể giác biết xưa nay vốn lìa niệm); sau vì gióvô minh dấy động, sinh ra các hoạt động ý thức thế tục, từ đó có các sự sai biệt ở thế gian, đó gọi là Bất giác; cho đến khi được nghe Phật pháp, mở ra Bản giác, huân tập Bất giác, đồng thời dung hợp Bất giác và Bản giác làm một, tức gọi là Thủy giác. Luận Đại thừa khởi tín lại chia Thủy giác làm 4 giai vị, đồng thời phối hợp 4 giai vị này với các giai đoạn tu hành của Bồtát Đại thừa, đó là: 1. Bất giác: Giai vị Thập tín(Ngoại phàm vị) tuy đã biết quả khổ là do các nghiệp ác mang lại, nên thân, khẩu không còn tạo tác các việc ác, nhưng vẫn chưa sinh khởi trí đoạn hoặc. 2. Tương tự giác: Hàng Nhị thừa và Bồtát giai vị Tam hiền tuy đã xa lìa ngã chấp, biết lí ngã không, đoạn trừ các phiền não tham, sân, kiến, ái.. nhưng vẫn chưa lìa bỏ ý niệm phân biệt pháp chấp. 3. Tùy phần giác: Hàng Bồtát từ Sơ địa trở lên đến Địa thứ 9 đã xa lìa niệm pháp chấp, rõ biết tất cả pháp đều do tâm biến hiện, tức sự giác biết tùy theo cảnh giới tu chứng và địa vị chuyển lên mà ngộ 1phần lí chân như pháp thân. 4. Cứu cánh giác: Hàng Bồtát Địa thứ 10 đã đầy đủ nhân hạnh, dùng tuệ giác tương ứng với1niệm để giác biết chỗ sơ khởi của tâm, đồng thời xa lìa niệm vi tế, thấy suốt toàn bộ tâm tính. Theo luận Thích ma ha diễn thì giáo nghĩa của Mật giáo cũng chia Giác tính làm 4 thứ, trong đó 2 thứ trước tức là Bản giác và Thủy giác, rồi lại y cứ theo sự nhiễm, tịnh khác nhau của mỗi thứ mà chia thành Thanh tịnh bản giác, Nhiễm tịnh bản giác, Thanh tịnh thủy giác, Nhiễm tịnh thủy giác..., đồng thời nói rõ về mỗi thứ mà luận chỉ, ý thú khác với thuyết của luận Đại thừa khởi tín được trình bày ở trên. Mật giáo lại gọi Hiển giáo là Thủy giác tông và gọi tông mình là Bản giác tông. Vì Mật giáo cho rằng Hiển giáo phải tu hành trải qua nhiều kiếp mới giác ngộ được bản chân, trừ bỏ mê tình mà trở về chân lí vô tướng. [X. luận Thích ma ha diễn Q.3; Đại thừa khởi tín luận nghĩa kí Q. trung, phần đầu]. (xt. Bản Giác).

[24] Xem chú thích # 23.

[25] Chỉ cho tự tánh, bổn tâm.

[26] Làm sáng cái đức sáng.

[27] Kể từ Thập Tín cho đến Đẳng giác.

[28] Quy ba thừa Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát vào nhất thừa là Phật thừa.

[29] Tích môn là pháp phương tiện, còn gọi là Quyền. Bổn môn là pháp chân, còn gọi là Thực.

[30] Tứ Độ (四土): còn gọi là Tứ Phật Độ (四佛土), Tứ Chủng Phật Độ (四種佛土), Tứ Chủng Tịnh Độ (四種淨土), Tứ Chủng Quốc Độ (四種國土); nghĩa là 4 loại quốc độ Phật. Có nhiều thuyết khác nhau về quan niệm này. Đại Sư Trí Khải (智顗, 538-397), Tổ sáng lập ra Thiên Thai Tông Trung Quốc, lập ra 4 loại Phật Độ là Phàm Thánh Đồng Cư Độ (凡聖同居土), Phương Tiện Hữu Dư Độ (方便有餘土), Thật Báo Vô Chướng Ngại Độ (實報莊嚴土), Thường Tịch Quang Độ (常寂光土).

(1) Phàm Thánh Đồng Cư Độ, còn gọi là Nhiễm Tịnh Đồng Cư Độ (染淨同居土), Nhiễm Tịnh Quốc (染淨國); chỉ quốc độ cùng tồn tại chung của hạng phàm phu thuộc hai cõi Trời người và chư vị Thánh như Thanh Văn (s: śrāvaka, 聲聞), Duyên Giác (s: pratyeka-buddha, p: pacceka-buddha, 緣覺). Trong đó, cõi này được chia thành 2 loại là tịnh và uế, như thế giới Ta Bà (s, p: sahā, 娑婆) là Đồng Cư Uế Độ (同居穢土), Tây Phương Cực Lạc (西方極樂) là Đồng Cư Tịnh Độ (同居淨土).

(2) Phương Tiện Hữu Dư Độ, còn gọi là Phương Tiện Độ (方便土), Hữu Dư Độ (有餘土); chỉ cho quốc độ của những bậc Thánh tu đạo phương tiện, đã đoạn tận Kiến, Tư, Hoặc như Bích Chi Phật (辟支佛), A La Hán (s: arhat, p: arahant, 阿羅漢), v.v.; nên được gọi là phương tiện (s, p: upāya, 方便), nhưng chưa đoạn tận sự mê mờ về vô minh trần sa, mới có tên là hữu dư (有餘, vẫn còn dư, còn sót). Cõi này còn được gọi là Biến Dịch Độ (變易土).

(3) Thật Báo Vô Chướng Ngại Độ, còn gọi là Thật Báo Độ (實報土), Quả Báo Độ (果報土), là quốc độ của chư vị Bồ Tát (s: bodhisattva, p: bodhisatta, 菩薩) đã đoạn trừ một phần của Vô Minh (s: avidyā, p: avijjā, 無明), không có hàng phàm phu của Hai Thừa. Đây là quốc độ tự tại vô ngại của đạo chân thật, nên có tên gọi như vậy.

(4) Thường Tịch Quang Độ, còn gọi là Lý Tánh Độ (理性土); là trú xứ của chư Phật đã đoạn tận căn bản Vô Minh, tức là quốc độ của chư Phật chứng quả Diệu Giác Cứu Cánh. Thường nghĩa là thường có Pháp Thân (s: dharma-kāya, 法身), vốn có thể thường trú; Tịch ở đây là giải thoát, tức hết thảy các tướng vĩnh viễn vắng lặng; Quang là Bát Nhã (s: prajñā, p: paññā, 般若), tức là trí tuệ chiếu soi các tướng; nên cõi này cũng là quốc độ của ba đức Thường Trú (Pháp Thân), Tịch Diệt (Giải Thoát) và Quang Minh (Bát Nhã). Ba đức này có tên là Bí Mật Tạng (秘密藏), là nơi nương tựa của chư Phật Như Lai; vì vậy mới được gọi là Thường Tịch Quang Độ. (Phật học Tinh tuyển )

[31] A Di Đà Kinh Yếu Giải: Đại sư Linh Phong Ngẫu Ích Trí Húc đời nhà Minh soạn.

[32] Là một trong ba trí của chư Phật là Vô sư trí, Tự nhiên trí, Vô ngại trí.

[33] Là một trong ba đức của chư Phật là Bát nhã, Giải thoát, Pháp thân.

[34] Thiên Thai Trí Giả, Nhất niệm tam thiên.

[35] “Ư nhất hào đoan, hiện bảo vương sát

Tọa vi trần lý, chuyển đại pháp luân.”

[36] (道濟) Đạo Tế (1150 - 1209). Vị Thiền tăng thuộc phái Dương kì tông Lâm tế ở đời Tống. Người Lâm hải (Chiết giang), họ Lí, tên Tâm viễn, tự Hồ ẩn, hiệu Phương viên tẩu. Năm 18 tuổi, sư xuất gia ở chùa Linh ẩn, lần lượt tham học các ngài Pháp không Nhất bản ở chùa Quốc thanh, Đạo thanh ở chùaKì viên, Đạo tịnh ở chùa Quan âm. Sau, sư vào núi Hổ khâu làm đệ tử ngài Hạt đường Tuệ viễn và nối pháp của ngài. Sư lại đến ở chùa Tịnh từ, chùa bịthiêu hủy, sư đi hành hóa ở Nghiêm lăng. Cư dân ở vùng Tần hồ ăn ốc thường chặt đuôi, sư liền xin đem thả xuống sông, ốc sống lại nhưng cụt đuôi. Bình sinh tính sư điên khùng, buông thả, thích rượu thịt, nên người đời gọi sư là Tế điên. Năm Gia định thứ 2 (1209) sư ngồi mà hóa, thọ 60 tuổi; nhục thân để vào tháp Hổ bào. [X. Bắc giản tập Q.10; Tịnh từ tự chí Q.10; Kim sử Q.80]. (Từ điển Phật Quang)

[37] Gọi là kim tinh. Kinh Đại Tập: “Không gây việc ác cho chúng sinh nên tóc có màu kim tinh”.

[38] (雪巖祖欽 (?-1287): vị tăng thuộc Phái Dương Kì và Phái Phá Am của Lâm Tế Tông Trung Quốc, còn gọi là Pháp Khâm (法欽), hiệu là Tuyết Nham (雪巖), người vùng Vụ Châu (婺州, Tỉnh Triết Giang). Năm lên 5 tuổi, ông xuất gia làm Sa Di, đến 18 bắt đầu đi hành cước khắp nơi. Ông đã từng tham vấn một số vị tôn túc như Trí Bồng Viễn (智篷遠) ở Song Lâm Tự (雙林寺), Diệu Phong Chi Thiện (妙峰之善), Diệt Ông Văn Lễ (滅翁文禮) ở Tịnh Từ Tự (淨慈寺). Sau ông đến Kính Sơn (徑山), tham yết Vô Chuẩn Sư Phạm (無準師範) và kế thừa dòng pháp của vị này. Vào tháng 8 năm đầu (1253) niên hiệu Bảo Hựu (寳祐), ông bắt đầu khai mở đạo tràng thuyết giảng tại Long Hưng Tự (龍興寺) thuộc Đàm Châu (潭州, Tỉnh Hồ Nam). Kế đến ông đã sống qua một số nơi như Đạo Lâm Tự (道林寺) ở Tương Tây (湘西, Tỉnh Hồ Nam), Nam Minh Phật Nhật Thiền Tự (南明佛日禪寺) ở Xử Châu (處州, Tỉnh Triết Giang), Tiên Cư Hộ Thánh Thiền Tự (仙居護聖禪寺) ở Đài Châu (台州, Tỉnh Triết Giang), Quang Hiếu Thiền Tự (光孝禪寺) ở Hồ Châu (湖州, Tỉnh Triết Giang), Ngưỡng Sơn Thiền Tự (仰山禪寺) ở Viên Châu (袁州, Tỉnh Giang Tây). Vào năm 1287 niên hiệu Chí Nguyên (至元), ông thị tịch, hưởng thọ hơn 70 tuổi. Trước tác của ông để lại có Tuyết Nham Hòa Thượng Ngữ Lục (雪巖和尚語錄) 4 quyển.

[39] (龍舒淨土文) Tác phẩm, 12 quyển, do cư sĩ Vương nhật hưu người đất Long thư (An huy, Thư thành) soạn vào năm Thiệu hưng 30 (1160) đời Nam Tống, được thu vào Đại chính tạng tập 47. Nội dung sách này thu chép các kinh luận, truyện, kí, v.v... có liên quan đến việc vãng sinh Tây phương Tịnh độ. Trong đó, nguyên tác của ông Vương nhật hưu chỉ có 10 quyển, tức 10 chương: Tịnh độ khởi tín, Tịnh độ tổng yếu, Phổ khuyến tu trì, Tu trì pháp môn; Cảm ứng sự tích, Đặc vị khuyến dụ, Chỉ mê qui yếu, Hiện thế cảm ứng, Trợ tu thượng phẩm và Tịnh trược như nhất. Đầu mỗi chương trình bày đại ý, sau đó chia thành các thiên để ghi chép những sự tích hữu quan. Người đời sau tăng thêm làm 11 quyển hoặc 13 quyển, tức là bộ Long thư tăng quảng tịnh độ văn lưu hành hiện nay. Ngoài ra, sách này còn có bản dịch tiếng Đức nhan đề là Laien Buddhismus in China (1924) của ông H. Hackmann (1864-1935). [X. Phật tổ thống kỉ Q.28,47; Lạc bang văn loại Q.3; Tịnh độ y bằng kinh luận chương sớ mục lục; Tịnh độ chân tông giáo điển chí Q.3; Phù tang tạng ngoại hiện tồn mục lục].

[40] Thiền  sư Trường Khánh Nhàn.

[41] 1 thạch là 10 đấu.

[42] Giáo pháp của Phật chủ trương chánh báo và y báo hay tất cả thân thể và sở hữu của chúng sanh đều do tâm của họ biến hiện

[43] # 42.

[44] Tông Thiên Thai gọi là Vô Tác Tính Đức, chỉ cho bậc chân nhân. Xem kinh Tứ Thập Nhị Chương.

[45] Vua lập ra nhà Chu.

[46] Cha vua là Cổn, đầu thai làm một giống rùa.

[47] Làm việc lành hồi hướng cho cha mẹ.

[48] Tứ Hoằng Thệ Nguyện.

[49] Kinh Phạm Võng, Hiếu thuận là pháp chí đạo. Hiếu gọi là giới.

[50] Bốn cách sinh: Thai, nõan, thấp, hóa.

[51] Trời, người, a tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

[52] Nho giáo, cha tròn bổn phận của cha, con tròn bổn phận của con.

[53] Tăng, ni, cư sĩ nam, nữ.

[54] Nhất niệm tam thiên, Thiên Thai Trí Giả (538-597)

[55] Cư sĩ Duy Ma Cật, thời Phật tại thế.

[56] Bàng Long Uẩn, một cư sĩ nổi tiếng. Đây là những bài kệ nổi bậc của ông: “Thập phương đồng tụ hội cá cá học vô vi. Thử thị tuyển Phật trường Tâm không cập đệ qui.” (Mười phương đồng tụ hội Mỗi người học vô vi Đây là trường thi Phật Tâm không thi đậu về).

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn