Từ giải Nobel 2016 đến lời Phật dạy

03 Tháng Giêng 201720:31(Xem: 4702)
Dấu ấn 2016:
Giải Nobel Y-Sinh học và ý niệm Vô thường của Phật giáo
TỪ GIẢI NOBEL 2016 ĐẾN LỜI PHẬT DẠY
Trí Tánh Đỗ Hữu Tài


blank
Giáo sư Yoshinori Ohsumi trong cuộc họp báo tại Tokyo sau
khi nhận thông báo về giải thưởng Nobel Y học 2016.
Ảnh: AFP/TTXVN
Ngày 3-10-2016, giải Nobel Y-Sinh học được trao cho một nhà khoa học Nhật Bản là Giáo sư Yoshinori Oshumi. Ông hiện là giáo sư của Học viện Công nghệ Tokyo (Tokyo Institute of Technology). Ông là người Nhật thứ 4 được trao giải Nobel Y-Sinh học, và người Nhật thứ 25 được trao giải Nobel.

Giải thưởng năm 2016 ghi nhận khám phá liên quan đến cơ chế sinh tử của tế bào, được đặt tên tiếng Anh là macroautophagy, nhưng thường thì gọi tắt là autophagy. Thuật ngữ autophagy xuất phát từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “tự ăn”, nhưng có lẽ dịch sang tiếng Việt là “tự thực”. Thật ra, nghĩa đúng và đầy đủ là quá trình tế bào tái sinh.

Mỗi ngày, để duy trì sức khỏe bình thường, cơ thể chúng ta phải đào thải một lượng protein bị hư hỏng, và thay thế chúng bằng protein mới. Tính chung, mỗi ngày cơ thể chúng ta cần phải thay thế khoảng 200-300g protein. Nhưng trong khi chúng ta chỉ thu nạp khoảng 60-80g, và hơn phân nửa là bị thải ra, vậy thì lấy đâu để thay thế? Đó là “bí mật” của cơ thể. Giáo sư Yoshinori Oshumi tìm ra được cơ chế thay thế đó. Hóa ra, các tế bào và protein trong chúng ta có khả năng tự tái sinh (self-recycling). Nói cách khác, trong điều kiện thiếu thốn, các protein tự chúng tái sinh để đáp ứng đủ khối lượng protein mà cơ thể cần thiết. Cơ chế tái sinh này được đặt tên là autophagy. Ý nghĩa “tự thực” được hiểu từ cơ chế đó.

Khái niệm sinh - diệt của tế bào rất gần với ý niệm “vô thường” trong Phật giáo. Kinh Tứ thập nhị chương có thuật một câu chuyện, mà theo đó Đức Thế Tôn hỏi các Tỳ-kheo rằng con người sống bao lâu. Người thì trả lời là 100 năm, người cho rằng 70 năm, người lại nói vài tháng. Chỉ có một Tỳ-kheo nói rằng mạng người sống chỉ có một hơi thở! Đức Thế Tôn khen vị Tỳ-kheo đã hiểu đúng về định luật vô thường của sự sống. Định luật vô thường ở đây có thể hiểu là chu trình thành-trụ-hoại-không. Chu trình này diễn ra liên tục không ngơi nghỉ trong cơ thể chúng ta.

Thật vậy, trong thực tế sinh học, tất cả chúng ta sống và chết trong một giây, và quy trình sinh - diệt này diễn ra một cách liên tục cho đến ngày chúng ta giã từ trần thế.  Do đó, nói rằng chúng ta chết và sống trong từng giây không phải là một ví von, một mỹ từ tôn giáo, mà là một thực tế sinh học. Phát hiện của Giáo sư Yoshinori Oshumi tuy không mới nhưng giải thích được cái cơ chế của định luật vô thường qua phương pháp khoa học hiện đại.

Phát hiện về cơ chế tự thực của Giáo sư Yoshinori Oshumi không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn phảng phất triết lý nhà Phật. Quá trình tái sinh của tế bào là một khía cạnh của ý niệm vô thường. Thật ra, rất nhiều những gì mà giới khoa học ngày nay gọi là “khám phá” hay “phát hiện” thực chất chỉ là minh họa và giải thích những ý niệm đã được Đức Phật phát biểu cách đây hơn 2.500 năm. Nhưng cái đẹp của khoa học hiện đại là những phương pháp tinh vichính xác có thể giúp chúng ta xác minh và hiểu biết tốt hơn những ý tưởng cổ điển mà các bậc hiền triết ngày xưa nghĩ đến.

***

Sự kiện khoa học tự nhiêný nghĩa lớn nêu trên như hạt ngọc lưu ly được gắn thêm vào một xâu chuỗi ngọc trí tuệ, lóng lánh nội hàm của ba tạng kinh điển Phật giáo. Mỗi sát-na biến hiện là mỗi sát-na hiển lộ thêm tính Chân Thực vi diệu của lời Phật dạy, vượt ra ngoài và lên trên tri kiến tục đế để xuyên suốt vào từ Cực Tiểu vi tế của mầm sống đến Cực Đại mênh mông của vũ trụ bao la.

Lời Đức Phật dặn dò năm xưa, trước lúc Ngài giã biệt đệ tử, như còn vang vọng đâu đây trong chiều dài không-thời-gian vô tận, trong chiều sâu thăm thẳm của tâm thức hàng tỷ chúng sinh. Hãy mở lòng mở trí đọc lại một lần nữa để cùng nhau kiên trìtinh tấn đi trên con đường thênh thang an lạcĐức Phật đã đi:

“Này các Tỳ-kheo, các con hãy tự làm đuốc để soi sáng cho các con, hãy trông cậy vào chính sức mạnh của các con; không nên lệ thuộc vào bất cứ ai. Những lời giảng huấn của Ta sẽ làm ngọn đuốc dẫn đường cho các con, làm nơi nương tựa cho các con; không cần phải lệ thuộc thêm vào những lời giảng huấn nào khác nữa.”…

“Thân xác con người phải tiêu tan, nhưng Trí tuệ của Giác ngộ sẽ trường tồn vô tận trong thực thể của Đạo pháp, trên con đường tu tập Đạo pháp. Nếu có ai chỉ thấy thân xác Ta thì kẻ ấy không thấy Ta một cách thật sự. Chỉ có người nào chấp nhận những lời giáo huấn của Ta mới thật sự nhìn thấy Ta.”…

“Sau khi Ta tịch diệt, Chánh pháp thay Ta làm vị thầy cho các con. Biết noi theo Chánh pháp, ấy chính là cách các con tỏ lòng thành tín với Ta. Trong bốn mươi lăm năm sau cùng trong cuộc đời của Ta, Ta không hề giấu diếm điều gì trong những lời giáo huấn. Chẳng có một lời giáo huấn nào bí mật, không có một lời nào mang ẩn ý. Tất cả những lời giảng của Ta đều được đưa ra một cách ngay thậtminh bạch.

Này các Tỳ-kheo, đây là giây phút chấm dứt. Trong một khoảnh khắc nữa Ta sẽ nhập vào Niết-bàn. Những lời này là những lời dặncuối cùng của Ta cho các con”. 

Trí Tánh Đỗ Hữu Tài (Hoa Kỳ)
(Viết theo Nguyễn Văn Tuấn, Giải Nobel Y-Sinh học phảng phất ý niệm Vô thường)
(Giác Ngộ)

Bài đọc thêm:
Giải Nobel y sinh học 2016: Phảng phất ý niệm vô thường (GS. Nguyễn Văn Tuấn)


Albert-Einstein“Tôn giáo tương lai sẽ là tôn giáo toàn cầu, vượt lên mọi thần linh giáo điềuthần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm trọng thể gồm mọi phương diện trên, trong cái nhất thể đầy ý nghĩa. Chỉ có đạo Phật đáp ứng đủ mọi điều kiện đó.
Nếu có một tôn giáo nào đương đầu được mọi nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là đạo Phật.
Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa những khám phá mới của khoa học.
Phật giáo không cần từ bỏ quan điểm của mình để theo khoa học vì Phật giáo bao gồm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học”.
Nhà bác học Albert Einstein
(1879-1955, Giải Nobel 1921)
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn