KHÔNG CÓ BẢN NGÃ, KHÔNG CÓ SAO CẢ
Anam Thubten*
Vô Minh dịch
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi. Tất nhiên, chúng ta tồn tại ở mức độ hiện sinh - điều đó không thể phủ nhận - nhưng chúng ta không tồn tại như một bản thể vĩnh viễn, liên tục, thống nhất. Cố gắng duy trì ảo tưởng đó là nguồn gốc của đấu tranh lớn, bất an và đau khổ, và buông xả nó là giải thoát. Vị thầy người Tây Tạng Anam Thubten mô tả sự thật sâu sắc này một cách đơn giản và duyên dáng, và chỉ ra cách chúng ta có thể đến đó trực tiếp.
Có khá nhiều ý tưởng về những gì cần thiết để nhận ra sự giác ngộ. Một số người nói rằng phải mất một thời gian dài để thức tỉnh và một số người cho rằng chỉ mất một thời gian rất ngắn để thức tỉnh. Một số người nói rằng có mười dặm giữa chúng ta và sự giác ngộ và một số người nói rằng có một tỷ dặm giữa chúng ta và sự giác ngộ. Đôi khi thật khó để quyết định cái nào là quan điểm chính xác.
Giải thoát là gì? Thức tỉnh là gì? Trên thực tế, nếu chúng ta đang tìm kiếm sự tỉnh thức như một phần thưởng đạo đức hoặc như một cảnh giới không tưởng được lý tưởng hóa, thì sự giác ngộ chỉ là một ước mơ vô vọng, giống như theo đuổi cầu vồng (chasing after a rainbow). Chúng ta có thể đuổi theo cầu vồng, nhưng chúng ta không bao giờ có thể bắt được nó. Có lẽ một trong những trở ngại chính khiến chúng ta không thể có kinh nghiệm trực tiếp về giác ngộ là định kiến của chúng ta về giác ngộ là gì. Vì vậy, chúng ta phải từ bỏ mọi ý tưởng chúng ta có về giác ngộ là gì. Đôi khi điều đó có thể hơi khó chịu một chút, đặc biệt nếu chúng ta có hy vọng rất cao về sự giác ngộ. Khi chúng ta được yêu cầu từ bỏ mọi ý tưởng chúng ta có về sự giác ngộ, đôi khi chúng ta cảm thấy rằng chúng ta đang đánh mất tất cả, ngay cả ảo tưởng yêu quý của chúng ta, sự giác ngộ. Thật nhẫn tâm và lạnh lùng. Nhưng sự thật cuối cùng, hay tính không, là sự hủy diệt của mọi ảo tưởng và bao gồm cả ảo tưởng về sự giác ngộ.
Khi chúng ta thiền, khi chúng ta ngồi và chỉ chú ý đến hơi thở của mình, chúng ta bắt đầu thấy rằng có một “cái tôi”, một cái tôi, đang tìm kiếm sự giác ngộ và giải thoát khỏi đau khổ. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục chú ý đến hơi thở và cảm giác cơ thể của mình, thì cuối cùng tất cả những ý tưởng, khái niệm và ảo tưởng đó sẽ lần lượt tiêu tan và sự thật tự hiện ra. Giống như đang xem một ngọn núi bị mây mù bao phủ. Ban đầu chúng ta không nhìn thấy ngọn núi bởi vì nó bị bao phủ bởi những đám mây dày. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục quan sát, thì khi mây tan, ngọn núi bắt đầu xuất hiện và cuối cùng, khi tất cả các đám mây biến mất, ngọn núi vẫn luôn ở đó xuất hiện.
Tương tự như vậy, khi chúng ta chú ý đến hơi thở, cảm giác cơ thể và nhận thức khởi lên, thì tất cả ảo tưởng, đau khổ, bối rối, buồn phiền và các vấn đề cá nhân, tất cả điều này bắt đầu tiêu tan. Chúng ta thấy rằng tất cả những kinh nghiệm này đều được sinh ra từ sự si mê. Đây là ý nghĩa của “Tôi”. “Tôi là thật. Tôi thực sự đang tồn tại”. Mọi thứ đều biến mất ngoại trừ cái “tôi” này, cảm giác về bản thân này. Sau đó, khi chúng ta tiếp tục thiền, cảm giác về bản thân cũng biến mất. Khi chúng ta tiếp tục thiền định, khi chúng ta chỉ duy trì trong nhận thức và quan sát hiện tại đó, thì cái tôi cũng tan biến. Khi cái tôi tan biến thì chỉ có nhận thức thuần túy. Khi cái tôi hoàn toàn sụp đổ, có một trạng thái không thể diễn tả được, đơn giản nhưng sâu sắc và xuất thần này. Không có ai ở đây. “Tôi” hoàn toàn không tồn tại ở nơi đó. Không có sự ngăn cách giữa luân hồi, hoàn cảnh xấu, và niết bàn, hoàn cảnh tốt, và không có ai theo đuổi con đường tu hoặc đuổi theo giác ngộ. Trong khoảnh khắc đó, chúng ta nhận ra bản chất của lời dạy của Đức Phật.
Tôi sẽ kể cho bạn nghe một chút câu chuyện cá nhân của tôi. Lần đầu tiên đi tu, tôi có nhiều tưởng tượng. Tôi đã nghĩ rằng đó sẽ là một cuộc hành trình đầy những tầm nhìn, những khám phá và những thiên thần với những bông hoa giáng xuống trên tôi. Sau đó, một trong những lời cầu nguyện đầu tiên mà chúng tôi học được gọi là Tâm Kinh. Tâm Kinh có thể rất khô khan đối với những ai chưa nhận ra ý nghĩa thực sự của nó. Nó không giống một số câu thơ đẹp đẽ, ngây ngất, thần bí. Kinh viết, "Không có mũi. Không có miệng. Không có lưỡi. Không có âm thanh, không có mùi, không có vị, không có xúc giác.” Dù sao đi nữa, chúng tôi vẫn trì tụng Tâm Kinh mỗi ngày cho đến khi hoàn toàn thuộc lòng. Hơn cả học thuộc lòng, chúng tôi có thể đọc thuộc lòng nhanh đến mức không thể tin được. Rồi một ngày trong nhiều năm sau khi học thuộc lòng và đọc thuộc lòng Tâm Kinh, cuối cùng tôi cũng có duyên với ý nghĩa của Tâm Kinh và ý nghĩa của ý niệm này rằng không có gì ở đó theo nghĩa tối thượng. Thậm chí không có hư vô. Sự thật này là sự trống rỗng vĩ đại. Thậm chí có một cái nhìn thoáng qua về sự hiểu biết đó có thể sẽ gây biến đổi trong suốt quãng đời còn lại của chúng ta.
Bản chất của tất cả giáo lý tâm linh là làm tan vỡ sự gắn kết với bản ngã, và về việc giải thể mọi chấp trước về hình dáng, âm thanh, mùi, vị, xúc giác, ý tưởng tốt và xấu, và tất cả các khái niệm. Đó là về việc loại bỏ tất cả mọi chấp thủ mà không có ngoại lệ. Trong Phật giáo, chúng ta thường nói rằng một người phải xuất gia để mang lại sự tỉnh thức hoặc giải thoát hoàn toàn trong một đời. Khi chúng ta nói "xuất gia", chúng ta không thực sự nói về việc trở thành tăng hoặc ni một cách chính thức hay chỉ hình thức bên ngoài mà là nói về việc trở thành tăng hoặc ni trong nội tâm. Cuối cùng để trở thành một người xuất gia là bằng cách từ bỏ chấp trước nội tại, chấp trước vào mọi thứ, chứ không chỉ dính mắc vào sinh tử luân hồi và những thứ mà chúng ta không thích. Chúng ta từ bỏ chấp trước vào niết bàn và những thứ mà chúng ta yêu thích, bởi vì khi chúng ta dính mắc vào niết bàn đó chỉ là một cách khác của sự lưu luyến. Đó là một cách khác để duy trì cái tôi mỏng manh này. Do đó, chúng ta phải từ bỏ chấp trước vào niết bàn và với mọi hình thức của bản ngã bởi vì bản ngã có tất cả các loại hình thức. Đôi khi bản ngã thậm chí có thể ở dạng hiện tượng tâm linh.
Tin hay không thì tùy, chúng ta thường sử dụng con đường tâm linh hoặc tôn giáo để xây dựng bản sắc của bản ngã, ngay cả khi điều này không được ý thức vào thời điểm đó. Đó không phải là một điều ngạc nhiên, vì chức năng của chứng loạn thần kinh (vọng tưởng) là ngăn chặn nhận thức về thực tại. Nỗi sợ hãi, sự kiêu hãnh, sự thù ghét, thậm chí cả sự cố chấp - chúng không chỉ còn lâu mới bị tiêu biến, mà chúng còn được duy trì tốt nữa. Đây là những gì chúng ta đã làm trong hàng ngàn năm, kể từ buổi bình minh của nền văn minh, và nó vẫn là một trong những hành vi yêu thích của chúng ta, không phải trong phạm vi cụ thể nào, mà là trong mọi truyền thống tôn giáo. Điều này có thể tiếp tục vô thời hạn trên quy mô lớn, vì chúng ta vẫn còn đang phát triển. Đức Phật nhận ra rằng chúng ta không thể được giải thoát chừng nào chúng ta còn bám chặt vào bất kỳ vọng tưởng (hình thức rối loạn thần kinh) nào. Trước ngài, trong nền văn hóa Ấn Độ, các mô hình vọng tưởng đã xâm nhập vào giáo lý và kinh sách thiêng liêng. Những thứ như chế độ đẳng cấp và phân biệt đối xử dựa trên giới tính được coi là bình thường. Đức Phật là người đầu tiên mời những tiện dân (untouchable = người không thể chạm tới, không thuộc đẳng cấp nào) và phụ nữ vào giáo đoàn của mình, điều này đã gây ra rất nhiều tranh cãi và tạo ra sự phản đối.
Mọi người luôn hỏi tôi là Phật tử nghĩa là gì. Câu trả lời của tôi là, "Nó có nghĩa là không là ai cả." Con đường tâm linh thực sự không phải là “trở thành”. Đó là về việc “không trở thành”. Khi chúng ta buông bỏ nỗ lực vô ích để trở thành chính ta hoặc trở thành ai đó, tự do và giác ngộ sẽ tự lo cho chúng. Chúng ta thấy rằng chúng ta vốn dĩ đã là thần thánh và chúng ta bị mê hoặc khi thấy sự giải thoát diễn ra dễ dàng như thế nào.
Cuối cùng, chúng ta phải giải thể tất cả các cơ chế bảo vệ, củng cố bản ngã của chúng ta. Điều này bao gồm cả những “bản ngã tâm linh”, bởi vì đôi khi cái tôi biểu hiện dưới những hình thức khác nhau, dưới dạng ngụy trang. Do đó, sự giải thoát đích thực đòi hỏi sự từ bỏ hoàn toàn và siêu việt bản ngã của chúng ta, cái tôi. Chúng ta có thể nghĩ, “Đây chỉ là một thông điệp cũ, ý tưởng về việc xóa bỏ chấp trước vào cái tôi. Tôi đã nghe nó nhiều lần. Hơn thế nữa, tôi đã thất bại nhiều lần. Thực ra, tôi đến đây để tìm kiếm một giải pháp khác. Tôi vẫn muốn giác ngộ, nhưng tôi muốn một phương pháp khác”. Bản ngã nói, “Tôi vẫn muốn giác ngộ nhưng không có việc xóa bỏ hoàn toàn mọi chấp trước vào bản thân. Tôi sẽ làm bất cứ điều gì ngoại trừ điều đó. Xin vui lòng, tha cho tôi, đủ quá rồi. Hãy mặc cả một chút”.
Bản ngã thích mặc cả, tranh luận với sự thật. “Yêu cầu tôi làm bất cứ điều gì. Tôi sẽ nhảy qua một vách đá. Tôi sẽ kiềm chế những xung động tình dục của mình. Tôi sẽ làm bất cứ thứ gì. Nhưng đừng yêu cầu tôi làm điều này. Tôi không thể làm điều này bởi vì nếu tôi làm vậy, tôi sẽ chết trong sự thật vĩ đại không thể biết trước được”. Một lần nữa, chúng ta bắt đầu xoay quanh nhiệm vụ cuối cùng này là phân hủy cái tôi hay tan biến thành cái gì đó. Trên thực tế không có cách nào để mặc cả với sự thật, sự trống rỗng. Dù chúng ta gọi nó là gì - sự thật, sự trống rỗng - hòa tan vào nó là cách duy nhất. Và càng nhận ra sự thật, chúng ta càng nhận ra rằng không còn cách nào khác.
Cách duy nhất chúng ta có thể mang lại sự tỉnh thức hoàn hảo, toàn diện, ngay bây giờ trong thời điểm này, là làm tan biến cái “tôi” ngay tại chỗ. Nhưng có hai cách để làm điều đó: một cách đau đớn và một cách siêu thoát. Con đường cực lạc được gọi là con đường của phúc lạc. Lý do mà chúng ta gọi nó là con đường hạnh phúc là bởi vì nó liên quan đến một cách dễ dàng để vượt thoát khỏi cái tôi. Làm thế nào để chúng ta tiêu tan cái tôi một cách hạnh phúc? Khi chúng ta cố gắng tiến hành một cuộc chiến tranh như một phương tiện để xóa bỏ đế chế của cái tôi, cuối cùng chúng ta sẽ không thành công cho lắm.
Là những người tu hành, đặc biệt là Phật tử, chúng ta đã và đang tuyên chiến với bản ngã và đổ lỗi cho nó về tất cả các vấn đề và sự nhầm lẫn của chúng ta. Cái tôi là vật tế thần của chúng ta. Chúng ta đổ lỗi mọi thứ cho bản ngã của mình như thể nó là một thực thể riêng biệt. Chúng ta có một cuộc chiến với bản ngã và đôi khi chúng ta cảm thấy rằng chúng ta đang chiến thắng trong cuộc chiến và đôi khi chúng ta cảm thấy rằng bản ngã đang chiến thắng. Đôi khi chính cái tôi đang chiến đấu với cái tôi thực sự là cái tôi và điều đó thậm chí còn phức tạp hơn. Nhưng đôi khi chúng ta chỉ có thể nhìn thẳng vào ý thức của mình và hỏi, "Ai đang chiến đấu chống lại cái tôi?" Thường thì mọi thứ sụp đổ ngay tại đó. Vì vậy, con đường hạnh phúc thực sự không phải là tuyên chiến với bản ngã để thoát khỏi bất cứ thứ gì chúng ta coi là chướng ngại vật trên con đường đến đích cuối cùng mà chúng ta tưởng tượng. Đúng hơn đó là việc cho phép cái tôi tan biến một cách tự nhiên bằng cách buông xả hoàn toàn và chẳng cần đi đến đâu.
Làm sao chúng ta làm việc đó bây giờ? Có rất nhiều cách. Nhưng cuối cùng, hóa ra nhiều cách này rốt cuộc là giống nhau. Đôi khi chúng ta chỉ cần nghỉ ngơi và đó là tất cả những gì chúng ta cần làm. Trong giáo lý Phật giáo, thiền định được định nghĩa là nghệ thuật của sự nghỉ ngơi. Khi chúng ta nghỉ ngơi, chúng ta chú ý đến hơi thở của mình. Chúng ta chú ý đến cảm giác cơ thể của mình. Lúc đầu, chúng ta thấy một đế chế khổng lồ của các khái niệm và ý tưởng, nhưng nếu chúng ta tiếp tục chú ý đến nhận thức hiện tại, hòa bình và thanh thản đó, thì đế chế của cái tôi, lâu đài lớn của ảo tưởng về bản thân, bắt đầu biến mất. Trong khoảnh khắc đó, “tôi” biến mất và điều được sanh khởi là nhận thức thuần túy. Nó xuất hiện một cách tự nhiên, giống như ngọn núi xuất hiện khi mây tan. Cứ như vậy, bản chất thật của chúng ta tự hiện ra. Ở nơi đó, không có ngã và cũng không có cái khác. Chúng ta biết điều này theo kinh nghiệm, không phải theo khái niệm. Chúng ta biết điều đó một cách trực tiếp và không nghi ngờ gì. Chúng ta biết chúng ta là ai. Chúng ta biết bản chất thực sự của mình, ngay tại đó, với sự tự tin hoàn toàn. Thật phi thường khi chúng ta nhìn thoáng qua điều đó.
Nhiều lúc, khi chúng ta ngồi và chú ý đến hơi thở của mình, bản ngã cố gắng gây trở ngại cho đường tu của chúng ta. Bản ngã nói với chúng ta, “Điều này quá đơn giản. Bạn chẳng đi đến đâu cả. Không có gì đặc biệt xảy ra ở đây. Không có pháo hoa. Điều này sẽ không dẫn đến đâu cả.” Bản ngã đang cố gắng dụ dỗ chúng ta theo đuổi một ảo ảnh kỳ lạ đẹp đẽ nào đó. Nhưng nếu chúng ta chỉ buông xả và duy trì trong nhận thức hiện tại đó, chú ý đến hơi thở của mình, thì cái tôi chết đi một cách đáng kinh ngạc. Không còn một cái tôi nào nói rằng, “Tôi không thích những gì đang diễn ra. Tôi không thích khoảnh khắc bình thường này. Tôi không thích chỉ ngồi đây để ý đến hơi thở”. “Tôi” không thích những gì đang diễn ra đã hoàn toàn biến mất và đó là tất cả những gì quan trọng theo nghĩa cuối cùng.
Khi bản ngã tan biến, mọi thứ đã được đánh thức. Cây được đánh thức, đá được đánh thức, chim được đánh thức, và mây trên trời được khai sáng. Khi Đức Phật có giây phút chứng ngộ hoàn toàn này, Ngài phát hiện ra rằng toàn thể vũ trụ này đã được giác ngộ. Hơn thế nữa, ngài nhận ra rằng mọi hạt giống trên mặt đất đều được khai sáng. Ngài thấy rằng mỗi hạt là một thiên đường của Phật. Trong mỗi hạt có hàng tỷ hàng tỷ tỷ thiên đường của Đức Phật. Trong mỗi hạt đó có hàng tỷ vị phật trú ngụ. Toàn bộ vũ trụ này đột nhiên trở nên giác ngộ và hoàn hảo như nó vốn có.
Điều đó không có nghĩa là chúng ta sẽ hoàn toàn chìm đắm trong một loại trạng thái tinh thần nào đó, mất đi ý thức thông thường, lái xe vượt đèn đỏ, đội tất trên đầu, v.v. Tất nhiên, bản ngã sẽ bảo chúng ta không được đầu hàng hoàn toàn cái tâm tầm thường, tự chấp của mình vì sẽ có quả báo. Bản ngã luôn cố gắng cảnh báo chúng ta không nên hoàn toàn tỉnh táo. Tỉnh táo một chút là được nhưng không tỉnh hẳn. Bản ngã có nhiều cách để thuyết phục chúng ta không trở nên hoàn toàn tỉnh táo. Đôi khi nó sẽ mang lại cho chúng ta những điều thú vị bằng cách để chúng ta say sưa với những đỉnh cao tinh thần giả dạng như sự thức tỉnh thực sự. Những lần khác, nó sẽ giáng xuống chúng ta bằng nỗi kinh hoàng của sự nghi ngờ và tuyệt vọng, ném chúng ta vào bóng tối phủ nhận mọi khát vọng.
Những chướng ngại cho sự thức tỉnh bên trong có thể rất tinh vi đến mức chúng hầu như không thể nhận ra và thường chúng lẻn vào cửa sau. Nhiều truyền thống tâm linh dạy chúng ta rằng chúng ta không thể tự do trong cuộc đời này. Nhưng ngay cả khi họ dạy chúng ta rằng điều đó là hoàn toàn có thể, họ làm cho nó nghe như thể đó là một loại siêu thành tựu mà chúng ta không thể đạt tới. Một số người thậm chí còn đi đến cực điểm khi nói rằng chỉ có thể đạt được điều đó bằng cách đầu hàng một thẩm quyền bên ngoài. Bao lâu chúng ta còn tin những tin đồn đó, chúng ta sẽ không đi đến đâu cả mà chỉ là vòng luẩn quẩn. Việc thực hành của chúng ta sẽ chẳng ích lợi gì hơn một con chó đuổi theo cái đuôi của nó.
Là những người hành thiền, chúng ta có thể liên tưởng đến những tình huống đó. Khi chúng ta đã thực hành thiền định trong một thời gian dài, chúng ta biết nhiều khoảnh khắc khi chúng ta đã trải qua những biến đổi phi thường và thức tỉnh bên trong. Nhưng một phần chúng ta thực sự không muốn từ bỏ hoàn toàn chấp trước vào đau khổ. Chúng ta không muốn hoàn toàn hòa tan vào sự thật vĩ đại đó, sự trống rỗng.
Một phần trong chúng ta muốn níu kéo sự gắn bó cuối cùng đó. Chúng ta muốn tỉnh táo một chút nhưng không hoàn toàn. Thật tiện lợi khi bản ngã không thức tỉnh hoàn toàn nhưng đây là cách duy nhất để giải thoát. Không sớm thì muộn, chúng ta phải hoàn toàn thức tỉnh. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải hoàn toàn tan biến vào cái trống rỗng vĩ đại đó, chân lý tối thượng của tánh không, không bám víu vào bất cứ điều gì, thậm chí không giác ngộ, thậm chí không nhầm lẫn về giải thoát hay chân lý. Chúng ta phải buông bỏ tất cả. Chúng ta làm điều đó như thế nào? Khi chúng ta cố gắng loại bỏ nó, điều này sẽ không thành công. Nó phản tác dụng bởi vì ai đang cố gắng loại bỏ nó? Không có ai ở đó theo nghĩa cuối cùng. Vì vậy, đây chỉ là sự tan chảy; về việc giải thể cái tôi, và khi chúng ta biết làm thế nào để giải thể cái tôi, thì sự giải thoát sẽ trở nên không cần nỗ lực. Nó giống như thưởng thức chung rượu tiên hơn là nỗ lực làm việc chăm chỉ. Nói chung, đây là một cách giải thể cái tôi một cách xuất thần và không có bất kỳ đấu tranh nào, không có bất kỳ sự phản kháng nào. Sự tận tâm đóng một vai trò rất quan trọng.
Khi chúng ta cầu nguyện, những gì chúng ta đang làm là kêu gọi tinh thần của sự tận tâm. Sự tận tâm là không còn chống lại bất cứ điều gì. Chúng ta không còn cố gắng giữ sự kiên định của thực thể, bản ngã hay cái tôi ảo tưởng này nữa. Bản ngã luôn sụp đổ và tan biến trong từng khoảnh khắc. Nó sẽ tan biến nếu chúng ta để nguyên như vậy bởi vì nó không có thật ngay từ đầu. Nó vốn không thực. Nó đã sụp đổ rồi. Khi chúng ta cố gắng xây dựng và duy trì ảo tưởng về bản thân, thì chúng ta sẽ phải chịu đựng khá nhiều đau khổ. Chúng ta cảm thấy bất an và điên cuồng bởi vì chúng ta đang cố gắng duy trì một thứ gì đó đã sụp đổ. Bản ngã đã sụp đổ. Đau khổ đã tan rã rồi. Và ai là người làm việc chăm chỉ hai mươi bốn giờ một ngày để cố gắng duy trì vòng sinh tử luân hồi trong khi phàn nàn về nó? Người đó là ai?
Có một chút phân đôi ở đây. Thật khó hiểu vì chúng ta đến với con đường tâm linh với rất nhiều nhiệt huyết và quyết tâm. Chúng ta đang phàn nàn về luân hồi sinh tử, về sự khốn khổ của chúng ta, và chúng ta đang tìm kiếm sự giải thoát một cách tuyệt vọng. Đồng thời, chúng ta phải nhớ rằng sinh tử đã tan rã rồi. Chúng ta có thể tự hỏi làm thế nào điều đó có thể được. Tôi đã bị mắc kẹt trong nó trong nhiều kiếp. Vòng luẩn quẩn này không tự nó sụp đổ. Câu hỏi thực sự là, “Bản ngã là ai? Ai là người đang cố gắng duy trì sự luân hồi đó?” Luân hồi thực sự được bảo trì rất cao. Việc duy trì sẽ tốn rất nhiều chi phí và đau đầu. Bản ngã này là ai đang cố gắng xây dựng luân hồi? Người đó là ai? Thực ra chúng không tồn tại.
Cách đây một thời gian, tôi đang thực hiện một khóa tu thiền cuối tuần và một phụ nữ trung niên đã đến gần tôi trong giờ nghỉ giải lao. "Ngài đang yêu cầu chúng tôi chết?" Tôi đã trả lời, "Đúng thế!" trong khi chắp hai lòng bàn tay của tôi và cúi đầu về phía cô ấy trong sự tôn kính. “Bạn đã nhận được thông điệp, chính điều đó. Không còn gì để học nữa”. Khi tôi nhìn lên, tôi thấy khuôn mặt cô ấy sáng lên trong một nụ cười đẹp. Không nghi ngờ gì nữa, ngay lúc đó cô đã biết con đường giải thoát. Người ta phải cho phép cái tôi ảo tưởng này chết đi.
Cái chết này sâu sắc hơn cái chết thể xác. Cái chết này cho phép tất cả nỗi thống khổ của chúng ta tan biến vĩnh viễn. Nó không phải là kết thúc của một cái gì đó. Đó là sự khởi đầu của một cuộc sống nơi bông hoa của tình yêu và trí thông minh nở rộ. Một người bạn của tôi đã từng nói với tôi rằng cách duy nhất để có thể trở thành một vị thầy tâm linh thực sự là từ bỏ mọi ý tưởng rằng mình là một vị thầy. Anh ấy hoàn toàn đúng. Bạn phải từ bỏ ý nghĩ, "Tôi là một vị thầy giảng Pháp." Anh ấy từng nói với tôi rằng khi chúng ta có thể hoàn toàn vượt qua và cắt đứt ngay cả ý niệm đó, thì chúng ta có thể trở thành những vị thầy giảng Pháp vĩ đại. Vì vậy, những gì anh ấy đang nói về cơ bản là giải thể sự gắn bó với bất kỳ định danh nào. Hãy tưởng tượng rằng chúng ta có một niềm tin rất mạnh mẽ vào danh tính hoặc vai trò của chúng ta trong xã hội. Hãy tưởng tượng rằng bạn là một ông chủ hoặc một giám đốc điều hành.
Hãy tưởng tượng rằng bạn được coi là một phụ nữ xinh đẹp hoặc bạn tin rằng bạn là một người trẻ. Hãy tưởng tượng rằng bạn bị đồng nhất với một trong những ảo tưởng về con người của bạn. Hãy xem bạn có thể trải qua bao nhiêu đau khổ và lo lắng khi cố gắng bảo vệ và duy trì danh tính đó. Nhiều người muốn trở thành ông chủ, một nhà lãnh đạo trong thế giới thông thường này. Nhiều người muốn được bầu làm thị trưởng hoặc tổng thống vì sau đó điều đó trở thành bản sắc của họ. Và nhiều người gây ra nhiều đau đớn và đau khổ cho người khác để duy trì danh tính đó.
Trong suốt lịch sử, các nhà lãnh đạo đôi khi đóng vai trò là những nguyên mẫu hoặc mô hình tuyệt vời chứng minh bản sắc bản ngã có thể hủy diệt và nguy hiểm như thế nào. Hàng triệu người đã mất mạng và đau khổ vì những người tranh giành một vị trí. Chức vụ là gì? Nó không có thực, là ảo ảnh. Sự gắn bó với bất kỳ danh tính nào có thể rất bạo lực và phá hoại. Đây là vận hành của luân hồi. Do đó, bản chất của tất cả các con đường tâm linh là hòa tan mọi thứ ở đây và bây giờ mà không cần chờ đợi. Và một lần nữa, làm thế nào để chúng ta hòa tan cái tôi đó một cách ngây ngất? Chúng ta chỉ hiện diện, chú ý đến hơi thở, và sau đó cái tôi bắt đầu tan biến. Điều này nghe có vẻ đơn giản quá.
Chúng ta có thể nghĩ, "Tôi đã chú ý đến hơi thở của mình nhiều lần và chưa bao giờ có bất kỳ sanh khởi nào." Nhưng đó là chuyện đã qua, cố gắng bẫy chúng ta trong khuôn mẫu cũ một lần nữa. Lần này hãy nhận biết và bỏ luôn suy nghĩ đó đi. Đôi khi chúng ta phải cầu nguyện. Khi trái tim của chúng ta hoàn toàn bị chiếm đoạt và chiếm giữ bởi sức mạnh của sự tận tâm, thì bản ngã không có bất kỳ sức mạnh nào để duy trì sự định hình của nó. Bàn ngã chết ngay tại chỗ mà không cần tháo rời bản thân thành những mảnh nhỏ và điều tra xem chúng có thật hay không. Không có thời gian cho thiền phân tích. Không có thời gian chuẩn bị để vượt lên trên cái tôi. Bản ngã không còn nữa vào thời điểm trái tim của chúng ta hoàn toàn bị chiếm lĩnh bởi tinh thần tận tụy.
Khi chúng ta thiền định, tôi khuyến khích tất cả chúng ta có thái độ rằng chúng ta đang thiền định để tiêu tan cái “tôi”. Đó là lý do tại sao chúng ta thiền định. Giữ quan điểm này trong nhận thức của bạn và để tâm trí nhị nguyên của bạn tan biến trong ít nhất nửa giờ, hoặc ít nhất trong mười phút mỗi ngày. Khi bạn cho phép mình chứng kiến cái nhìn thoáng qua bất ngờ về sự thật, nơi mà cái tôi bị tan biến, nó giống như uống rượu tiên. Nó không thể diễn tả được. Chúng ta thường dùng từ “phúc lạc” để mô tả trạng thái đó. “Bliss” (phúc lạc) là một từ hay nhưng nó có thể bị hiểu nhầm. Hạnh phúc mà tôi đang nói đến không liên quan gì đến hạnh phúc bình thường. Nó không giống như niềm hạnh phúc khi được thưởng thức những món ăn ngon hay những khoái cảm nhục dục khác. Đây là hạnh phúc phi tri giác không dựa trên cảm xúc mà dựa trên nhận thức. Chúng ta thường nói rằng nhận ra bản chất thật của con người chúng ta cũng giống như uống rượu tiên cõi cực lạc. Càng uống nhiều sẽ càng nghiện, điều này rất tốt.
Thưởng thức rượu tiên đó một hoặc hai lần là không đủ. Chúng ta phải học cách uống nước cam lồ từ sự tan biến của cái tôi nhiều lần. Chỉ cần nhớ lại trải nghiệm đó cách đây một thời gian là không đủ. Trong thời gian đầu, chúng ta nên uống rượu tiên hạnh phúc này ít nhất ba lần mỗi ngày. Đó là nhiệm vụ dành cho tất cả những ai đang tìm kiếm sự giải thoát. Rồi thời gian trôi qua, chúng ta uống nhiều lần, hàng trăm lần mỗi ngày. Cuối cùng chúng ta uống hàng nghìn lần mỗi ngày. Sau một thời gian, chúng ta uống trong từng khoảnh khắc, khi chúng ta ngủ, khi chúng ta thức, khi chúng ta nói chuyện, khi chúng ta thiền định, khi chúng ta chơi nhạc, khi chúng ta chiến đấu với mọi người. Chúng ta uống rượu tiên hạnh phúc đó mọi lúc. Đây được gọi là "thức tỉnh hoàn toàn" và đây là mục tiêu của chúng ta. Đây là ý định và nguyện vọng cao nhất của chúng ta.
Tôi nhớ một câu nói rất ngắn của một vị thầy Phật giáo: “Không có bản ngã, không có vấn đề gì”. Nó thực sự ngắn nhưng đúng và rất hiệu quả. Luôn có sự đấu tranh trong cuộc sống của chúng ta, dù có ý thức hay vô thức. Nhiều người trên thế giới đang phải trải qua những cuộc đấu tranh với bất công xã hội, bạo lực và chiến tranh. Ngay cả ở những quốc gia thịnh vượng nhất, về mặt nào đó may mắn hơn vì họ được hưởng nhiều tiện nghi vật chất, thì người dân vẫn còn chịu nhiều đau khổ. Một số người cảm thấy rằng họ không có đủ tiền hoặc họ không đủ xinh đẹp hoặc không đủ thông minh. Họ không có một mối quan hệ lý tưởng, hoặc họ lo lắng vì họ chưa giác ngộ. Nhiều người đau khổ vì tức giận, hận thù và bất hạnh. Tất cả những vấn đề này bắt nguồn từ quan niệm sai lầm về chúng ta là gì và là ai. Ý tưởng về “bản ngã”, “tôi” và “của tôi” là nguồn gốc của cuộc đấu tranh nội tâm của chúng ta. Nó giống như tác giả tạo ra sự thống khổ không ngừng trong ý thức của chúng ta.
Khi chúng ta vượt ra ngoài cái tôi thì chúng ta vượt ra ngoài mọi thứ. Chúng ta vượt qua mọi hình thức đấu tranh mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống. Ví dụ, khi tôi thiền định, nếu tôi không thực sự sẵn sàng để làm tan chảy cái tôi, có nghĩa là tôi đang đấu tranh. Bản ngã của tôi đang đấu tranh. “Chà, tôi muốn được chứng ngộ. Tôi muốn có được niềm hạnh phúc mà ông ấy đang nói đến ngay bây giờ. Tôi muốn cảm thấy an lành. Tôi muốn có được sự sung sướng nhưng nó không có ở đó. Thời gian không còn nhiều. Tôi muốn vượt thoát bản ngã, nhưng không thành công lắm. Đó là lý do tại sao tôi thất vọng. Tôi đang đấu tranh."
Vì vậy, loại đấu tranh này đang lan rộng hầu hết mọi khía cạnh của cuộc sống. Có những lúc chúng ta đang ở trên gối thiền, nơi chúng ta trông rất thánh thiện, hoàn toàn thanh tịnh, và chúng ta cảm thấy hạnh phúc. Nhưng đôi khi chúng ta quá đỗi bình thường. Chúng ta đang nói chuyện điện thoại, hét lớn. Chúng ta khá tức giận với một ai đó. Thật đáng kinh ngạc khi chúng ta trải qua bao nhiêu vai trò trong cuộc sống hàng ngày. Khi chúng ta ngồi trên đệm thiền, chúng ta rất thánh thiện. Nhưng khi chúng ta đang điều khiển xe trên đường giao thông, nói chuyện điện thoại và bị ai đó cắt ngang trước mặt, chúng ta có phản ứng tiêu cực. Chúng ta thậm chí có thể bắt đầu chửi rủa. Trông chúng ta không giống với anh chàng đang ngồi thiền cách đây vài giờ. Ý tưởng luôn luôn tạo sự đấu tranh. Luôn luôn có sự đấu tranh dưới các hình thức khác nhau. Có đấu tranh khi chúng ta thiền định và có đấu tranh khi chúng ta không thiền định, miễn là bản ngã được coi là có thật. Khi cái tôi biến mất, thì chúng ta đã ở trên thiên đường và không có gì để làm. Không có bất cứ điều gì để làm (vô sự) và không có bất cứ điều gì để đạt được (vô cầu). Vì vậy, đây là câu thần chú của chúng ta trong suốt phần đời còn lại: Không có bản ngã (vô ngã), không có sao cả. Hãy ghi nhớ điều này: Không có bản ngã, không có sao cả.
Tôi biết rằng trong trái tim sâu thẳm nhất của chúng ta, mỗi người chúng ta đều có niềm tin mãnh liệt, niềm khao khát thực sự và khát vọng bất diệt để vượt ra khỏi cái tôi. Nhưng đồng thời có một cách mà chúng ta cũng có thể cho phép cái tôi câu giờ. Bản ngã rất lo sợ về sự sụp đổ hoàn toàn của mình, vì vậy nó đã thử mọi phương pháp và chiến lược để câu giờ và trì hoãn. Nếu nó không thể làm bất cứ điều gì khác, ít nhất nó luôn luôn có thể trì hoãn. Vì vậy, nó cứ trì hoãn và trì hoãn sự giải thoát hoàn toàn. Vì vậy, chúng ta luôn phải tâm niệm về điều đó và cầu nguyện loại bỏ mọi chướng ngại trên con đường của mình. Những trở ngại trên con đường thực sự là sự phản kháng của bản ngã đối với sự giải thoát hoàn toàn. Đó là trở ngại cuối cùng. Vì vậy, chúng ta cầu nguyện để vượt qua tất cả những trở ngại và chướng ngại mà bản ngã gây ra cho chúng ta, để chúng ta có thể được đánh thức càng sớm càng tốt và để mọi người khác cũng có thể được đánh thức càng sớm càng tốt. Chúng ta phải nhận ra rằng trí tuệ nằm trong mỗi chúng ta có thể vượt qua mọi chướng ngại. Điều đó đòi hỏi một hành động trao quyền cho chính chúng ta. Hãy để mình là một chiến binh hòa bình. Tất cả chúng ta khi sinh ra đều là những chiến binh hòa bình. Không có gì để chống lại bên ngoài. Chiến binh hòa bình là anh hùng tinh thần chiến thắng kẻ thù bên trong bằng sức mạnh của ý thức thuần túy.
Ghi chú của người dịch
* ANAM THUBTEN RINPOCHE sinh ra ở Tây Tạng và được công nhận là một Lạt ma hóa thân (tulku) khi ông còn là một cậu bé. Ông đã giảng dạy ở phương Tây từ những năm 1990, thành lập Dharmata Foundation, có trụ sở tại Point Richmond, California. Ông là một học giả và nhà văn Phật giáo. Những lời dạy của Anam Thubten chủ yếu rút ra từ Bát nhã ba la mật, trí tuệ phi phàm vượt thời gian của Đức Phật.
Sách đã xuất bản:
- No Self, No Problem: Awakening to Our True Nature (Không có bản ngã, không có sao cả: Đánh thức bản chất thực sự của chúng ta), được trích ở đây.
- Embracing Each Moment_ A Guide to the Awakened Life (Nắm lấy từng khoảnh khắc_ Hướng dẫn cho cuộc sống thức tỉnh)
- The Magic of Awareness
- Choosing Compassion: How to Be of Benefit in a World That Needs Our Love
- Into the Haunted Ground : A Guide to Cutting the Root of Suffering
- A Sacred Compass: Navigating Life Through the Bardo
- The Citadel of Awareness: A Commentary on Jigme Lingpa's Dzogchen Aspiration Prayer
- The Fragrance of Emptiness: A Commentary on the Heart Sutra
- Extraordinary Freedom: Buddhist Wisdom for Modern Times (with Dana Marsh)
- Kindness for All Creatures: Buddhist Advice for Compassionate Animal Care (with Sarah C. Beasley)
- Ani Trime's Little Book of Affirmations: 52 Illustrated Practices for a Peaceful and Open Mind (with Ani Trime)
- Big Sky: Poems by Anam Thubten