CHƯƠNG 2 TẠI SAO TÔI HỌC THIỀN

15 Tháng Chín 202222:59(Xem: 1130)

 THIỀN TRONG NGHỆ THUẬT BẮN CUNG

Dịch giả: Thích Viên Lý

                                  

CHƯƠNG 2
TẠI SAO TÔI HỌC THIỀN


 

        Tôi cần phải giải thích tại sao tôi học Thiền – và vì mục đích học Thiền mà tôi đã học nghệ thuật bắn cung. Ngay từ thời còn là một sinh viên tôi đã quan tâm nhiều về huyền-bí-học, tựa hồ như bị thúc đẩy bởi một lực bí ẩn, dù rằng vào thời đó những môn học loại này không thịnh hành. Tuy nhiên, dù cố gắng thế nào, càng ngày tôi càng nhận thức được rằng mình chỉ có thể tiếp cận những tác phẩm mật giáo này từ bên ngoài; và dù rằng tôi biết cách đi vòng quanh cái gọi là hiện tượng huyền bí nguyên thủy, tôi vẫn không thể nhẩy qua cảnh giới tuyến bao vây sự huyền bí giống như một bức tường cao. Trong bao nhiêu sách vở huyền-bí-học tôi cũng không thể tìm đúng những gì mà tôi muốn tìm; rồi vì thất vọng và nản lòng, dần dần tôi nhận thức rằng chỉ những ai thực sự “vô chấp’ mới có thể hiểu được ý nghĩa của “sự vô chấp”; và chỉ những người trầm mặc, đã hoàn toàn đoạn trừ cái ngã, mới sẵn sàng “trở thành đồng nhất” với “Đấng Chí Tôn siêu việt.” Vì vậy, tôi nhận thức rằng chỉ có một con đường – và không còn con đường nào khác – đưa tới huyền-bí-học là con đường xây đắp bằng kinh nghiệm và đau khổ của bản thân; nếu thiếu tiền đề này thì tất cả những gì nói về nó chỉ là những lời bàn tán trống rỗng. Nhưng làm cách nào để trở thành một nhà huyền bí? Làm cách nào để đạt tới cảnh giới vô chấp thực sự chứ chẳng phải tưởng tượng? Phải chăng ngày nay vẫn còn có con đường đạt tới cảnh giới huyền bí, ngay cả đối với những người bị ngăn cách với các vị Đại Sư bởi cái hố thẳm của thời gian nhiều thế kỷ? Và đối với con người hiện đại sinh trưởng trong những điều kiện hoàn toàn khác biệt? Bất cứ nơi đâu, tôi chẳng hề tìm thấy điều gì có thể trả lời thỏa đáng cho những câu hỏi của mình, dù rằng tôi đã nghe nói về những chặng đường và những trạm của một con đường hứa hẹn dẫn tới mục tiêu. Để đi trên con đường này, tôi thiếu những giáo huấn chính xác và đúng phương pháp mà người ta có thể dùng để thay thế cho một vị ̣đại sư, ít ra là trong một phần của cuộc hành trình. Nhưng nếu thực sự có những giáo huấn như vậy thì chúng có đủ sức dạy chúng ta hay không? Phải chăng những giáo huấn như vậy chỉ có thể tạo được sự chuẩn bị để tiếp nhận điều gì đó mà ngay cả những phương pháp tốt nhất cũng không thể cung cấp? Phải chăng kinh nghiệm huyền bí là điều mà con người bình thường không thể tự sản sanh ra? Bất luận tôi nhìn vấn đề thế nào, tôi cũng thấy mình đối diện với những cánh cửa khóa kín nhưng tôi vẫn không cách nào tự ngăn cản mình tiếp tục gõ cửa. Khát vọng không ngừng cho đến khi khát vọng mệt mỏi, tôi lại khởi lên khát vọng của tấm lòng khát vọng ấy.

        Vì thế, khi có người hỏi tôi – lúc này tôi đã là giảng sư trường đại học – có muốn đi dạy triết học ở trường Đại Học Đông Kinh không, tôi vui sướng đón mừng cái cơ hội có thể giúp tôi nhận thức về nước Nhật và nhân dân Nhật, nơi đó tôi có hy vọng tiếp xúc với Phật giáo, và từ đó tiếp xúc với sự thực hành nội quán về huyền-bí-học. Tôi đã nghe nói ở Nhật Bổn vẫn còn giữ gìn nghiêm mật một truyền thống Thiền, một nghệ thuật giáo huấn đã được khảo nghiệm qua bao thế kỷ, và điều quan trọng nhất là có những vị Thiền sư tinh thông về nghệ thuật chỉ giáo tâm linh.

        Chẳng bao lâu sau khi tới Nhật Bổn tôi bắt đầu việc thực hiện sự mong muốn của mình, nhưng tôi liền gặp những lời từ chối khiến tôi lúng túng. Người ta bảo rằng xưa nay chưa từng có người Âu Châu nào nghiêm cẩn quan tâm học Thiền bao giờ; và bởi vì Thiền khước từ mọi dấu vết gì về “giáo huấn” cho nên nó sẽ không thể nào thỏa mãn tôi “một cách lý thuyết.” Tôi phải phí thêm bao tâm huyết và thì giờ mới giãi bày rõ tại sao tôi muốn hiến thân đặc biệt cho Thiền mà không nặng phần lý luận. Nghe qua, họ lại cho tôi biết rằng người Âu Châu muốn thâm nhập vào lãnh vực sinh hoạt tâm linh này là hoàn toàn không có hy vọng – loại sinh hoạt tâm linh này có lẽ là kỳ lạ nhất của người Đông phương – trừ phi người đó khởi sự bằng cách học tập một môn nghệ thuật liên quan với Thiền.

        Cái ý tưởng phải trải qua một loại thụ huấn dự bị chẳng khiến tôi sờn lòng chút nào. Tôi cảm thấy sẵn sàng để đi bất cứ đoạn đường dài nào nếu có chút hy vọng được tiến tới gần Thiền hơn chút nữa; và, đối với tôi, một con đường khúc khuỷu phải đi quanh co, dù tốn bao nhiêu công sức, vẫn tốt hơn là chẳng có con đường nào cả. Nhưng tôi nên theo đuổi bộ môn nào trong các loại nghệ thuật mà họ đề ra cho tôi phải học? Vợ tôi, sau khi hơi do dự, liền quyết định học nghệ thuật cắm hoa và hội họa. Còn tôi cảm thấy tựa hồ nghệ thuật bắn cung đối với tôi thích hợp hơn. Tại vì tôi sai lầm – sau này mới phát hiện – cho rằng những kinh nghiệm bắn súng trường và súng lục của tôi sẽ có lợi cho mình.

        Tôi khẩn khoản yêu cầu một trong những bạn đồng sự của tôi, ông Sozo Komachiya – một giáo sư môn công pháp đã từng học bắn cung hai mươi năm và được coi là môn sinh tài giỏi nhất của nghệ thuật này tại trường đại học – giúp tôi ghi danh theo học vị thầy trước đây từng dạy ông, vị đại sư lừng danh tên là Kenzo Awa.

        Đầu tiên, đại sư không nhận tôi, bảo rằng ông bị lầm một lần trước đây, từng dạy một người ngoại quốc, và cho tới nay vẫn còn cảm thấy hối hận về cái kinh nghiệm đó. Ông không có ý định nhượng bộ lần thứ hai, để tránh cho học viên cái gánh nặng tinh thần đặc thù của môn nghệ thuật này. Tôi thỉnh rằng: “Một vị Đại Sư coi trọng công việc của mình như vậy thì phải là một người có thể nhận tôi làm đệ tử nhỏ nhất.” Ông thấy tôi không phải chỉ muốn học nghệ thuật này như một thú vui mà vì muốn tầm cầu “Đại Đạo” mới tìm học môn này. Cuối cùng ông bằng lòng nhận tôi làm môn đồ và nhận cả vợ tôi. Ở Nhật Bổn, giới thiếu nữ học bắn cung là một cổ tục, vợ và hai con gái của đại sư cũng đều siêng học đạo này.

        Thế là bắt đầu một khóa trình huấn luyện đầy cam go. Bạn tôi, ông Komachiya – người đã kiên nhẫn làm thuyết khách và hầu như đứng ra bảo lãnh cho chúng tôi – bây giờ là người thông ngôn của chúng tôi. Đồng thời, thời vận tôi cũng khá, cho nên tôi được mời tham dự những bài học về nghệ thuật cắm hoa và hội họa mà vợ tôi đang theo học, để tôi có dịp không ngừng so sánh các môn nghệ thuật lẫn nhau, hầu đạt được một căn bản kiến thức bao quát hơn về Thiền.  

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
09 Tháng Bảy 202500:06(Xem: 1611)
Trong cơn mộng dài của kiếp người, ta thường nắm chặt những bóng hình thoáng qua – danh vọng, tình yêu, hay chính cái “tôi” mà ta gọi là bản thân – như thể chúng là chân lý vĩnh cửu. Nhưng nếu tất cả chỉ là bọt nước vỡ tan trên dòng sông, là ánh chớp lóe lên rồi tắt, ta còn lại gì giữa hư không? Kinh Kim Cương, như lưỡi gươm vàng rực rỡ, cắt đứt màn sương của ảo tưởng, để lộ ra thực tại sáng trong: không có “ta”, không có “người”, không có gì để nắm giữ, cũng chẳng có gì để buông bỏ.
08 Tháng Bảy 202523:41(Xem: 2695)
Mục tiêu sau cùng là giải thoát khỏi sinh tử, thành tựu trí tuệ viên mãn – nơi không còn bị che lấp bởi phân biệt và vọng tưởng. Duy Thức và Trung Quán – Hai hướng đi lớn trong Đại thừa.Trong truyền thống Phật giáo Đại thừa, có hai hệ thống tư tưởng nổi bật, mỗi hệ đều sâu sắc và dẫnđến giải thoát: Trung Quán Tông và Duy Thức Tông. Cả hai đều dựa trên tinh thần vô ngã – vô pháp, phủ nhận bản thể độc lập và hướng tới Niết-bàn, nhưng phương tiện tiếp cận và lập luận triếtlý lại hoàn toàn khác nhau. Trung Quán (Mādhyamika), do tổ Long Thọ khai sáng, chủ trương rằng tất cả pháp đều không có tự tính (śūnyatā), là “tánh không, duyên khởi”.
08 Tháng Bảy 202523:06(Xem: 1919)
Có một tiếng hét từng xé toạc màn vô minh của kẻ học đạo. Có một bàn tay từng nâng lên mà không chỉ để chỉ, mà để đánh bật mọi vọng tưởng chấp thủ. Và, cũng có một bậc Thầy – không ban cho điều gì, chỉ lặng lẽ chỉ thẳng vào nơi không thể nắm bắt, nơi chẳng còn pháp nào để nương tựa: Đó là Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền.
08 Tháng Bảy 202522:46(Xem: 1822)
Không có cùng định hướng về tinh thần thủ chấp được xuất phát từ cái tôi; nền giáo dục Phật Giáo đưa ra một khuôn mẫu khác. Trong hệ thống giáo dục này, cả kiến thức hữu hình và quan trọng hơn nữa, kiến thức vô hình được truyền từ vị thầy đến học trò của mình. Người thầy đóng vai trò như là cha mẹ, nuôi dưỡng và hướng dẫn người học trò để người ấy có thể đạt đến khả năng tối đa của họ và, dùng khả năng ấy để giúp ích cho xã hội và thế giới muôn loại. Kiến thức này, kết hợp với sự thực hành đường lối Trung Đạo, sẽ giúp cho cá nhân người ấy làm chủ được tâm thức, kiềm chế được hành vi của mình, tránh xung đột với người khác và giải quyết mọi vấn đề mà cả hai phía đều thật sự lợi lạc qua sự đồng thuận, hoan hỷ.
12 Tháng Mười 202401:05(Xem: 3067)
Ấn Độ là một trong những cái nôi tâm linh của thế giới, nơi đây được biết đến là lãnh địa của hàng loạt các tôn giáo lớn nhỏ và vô số hệ tư tưởng triết học. Từ thời cổ đại, con người của Đại Lục Tâm Linh này đã luôn đặt ra câu hỏi làm sao chấm dứt khổ đau, đạt được hạnh phúc vĩnh cửu cũng như không ngại thực hành những phương pháp tu luyện cực đoan đến cùng cực.
11 Tháng Mười 202405:58(Xem: 3790)
Chúng tôi tin rằng "Giới Luật Phật Giáo" sẽ trở thành một ngọn đuốc sáng dẫn lối, một nguồn động viên mạnh mẽ cho tất cả những ai đang trên hành trình hướng thiện và hướng thượng, lập nên Tăng cách quý hơn vàng ngọc của đệ tử Như Lai, là anh lạc vô giá trang nghiêm giáo lý vô thượng Phật đà.
15 Tháng Sáu 202310:51(Xem: 7401)
Phật pháp tại thế gian thời kỳ mạt pháp xuất hiện nhiều dị giáo làm cho hành giả sơ tâm tu tập dễ vướng các chướng do không biện được chánh, tà. Bởi thiếu phân định nên dễ đi vào con đường thành kiến sai lầm khiến một đời nỗ lực tu tập nhưng cứ mãi lẫn quẩn trong vòng luân chuyển của khổ đau, sanh tử. Với xuất phát điểm nơi tâm hướng đến con đường giải thoát, hành giả tu tập cần nương nhờ vào đoàn thể Tăng già - là những người thừa tự pháp của Phật, chọn đúng đường hướng hầu mong thoát khỏi cái khổ trần thế, thoát khỏi sự thiêu đốt của nhà lửa đang bốc cháy hừng hực nơi Ta Bà uế trược.
12 Tháng Sáu 202316:26(Xem: 6170)
Đức Phật đã từng dạy, trong mỗi chúng sanh đều có Phật tính và đều là những vị lai Phật. Hy vọng rằng mùa Phật đản về cũng là lúc chúng ta trở về với Phật tính, lắng nghe Pháp âm trong chính mình, để mỗi thời khắc đều là Phật thị hiện và, mỗi tấc đất trong cõi Ta Bà này đều là y báo trang nghiêm của chư Phật Thế Tôn. Có như vậy chúng ta mới thật sự đón mừng một mùa Phật Đản với tất cả tâm thành và ý nghĩa.
13 Tháng Ba 202315:04(Xem: 7139)
Đạo Phật chủ trương lấy con người làm trung tâm điểm để cải hóa và xây dựng xã hội. Con người tốt, xã hội tốt và ngược lại. Giáo dục con người để trở thành một tài bảo của thế giới nhân loại là bước căn bản và hết sức quan yếu mà Phật giáo gọi là Nhân Thừa trong Ngũ Thừa giáo. Con người là tài nguyên lớn vô giá như Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Nhân thị tối thắng - Con người là trên hết”; ... Truyền thống giáo dục của Phật giáo là truyền thống giáo dục toàn diện. Đức Phật được tôn xưng như là một nhà giáo dục vĩ đại và thánh thiện, là bậc đạo sư tiêu biểu, mẫu mực (bậc Điều Ngự, đấng phước trí vẹn toàn), đức Phật chủ trương giáo dục con người giải thoát mọi kiến thủ đ
27 Tháng Chín 202222:32(Xem: 86835)
Lúc đầu, kinh điển Phật giáo gồm hai bộ chính là “kinh” (sutra) và “luật” (vinaya): “Kinh” ghi lại giáo lý của Đức Phật, “Luật” là những giới luật mà Đức Phật đã chế định cho hàng tăng nhân tu hành tại các tự viện. Về sau này có thêm những lời chú giải về kinh và luật đó, và được gọi chung là “luận” (abhidharma), kết quả là có ba bộ sách gồm kinh, luật, và luận, tức là “Tam Tạng” (Tripitaka). Dần dần xuất hiện những dị biệt trong những lời giải thích về giáo lý của Đức Phật và giới luật của tự viện; và, điều đó gây ra sự phân rẽ trong cộng đồng Phật giáo, đưa tới sự phân chia thành hai bộ phái chính yếu đó là Thượng Tọa Bộ (Therevada) có tinh thần bảo thủ và Đại Chúng Bộ (mahasamghika) có tinh thần cấp tiến. Mỗi bộ phái có một bộ kinh điển riêng, được coi là chính thức bao gồm những quan điểm của mỗi phái.