Chương VI - PAṆḌTAVAGGA - (Phẩm Trí Hiền)

15 Tháng Sáu 201402:55(Xem: 4679)
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH
Dhammapada
KINH LỜI VÀNG
Việt - lục bát thi hóa - Pāḷi
( In lần thứ 5, có chỉnh sửa và nhuận sắc lần cuối)

Chương VI
PAṆḌTAVAGGA
(Phẩm Trí Hiền)

76.

Trí hiền điểm lỗi cho ta

Điều xấu nên sửa, điều chưa thành toàn

Ví như chỉ chỗ chôn vàng,

Bạn người như vậy, tốt càng tốt hơn!

 

Nidhīnaṃva pavattāraṃ

yaṃ passe vajjadassinaṃ,

niggayhavādiṃ medhāviṃ

tādisaṃ paṇḍitaṃ bhaje,

tādisaṃ bhajamānassa

seyyo hoti na pāpiyo.

­œ

77.

Ai khuyên kẻ khác làm lành

Ngăn ngừa niệm dữ, pháp hành gắng tu

Người hiền cảm kích kính yêu

Còn phường xấu ác, ra điều chẳng ưa!

 

Ovadeyyānusāseyya

asabbhā ca nivāraye,

sataṃ hi so piyo hoti

asataṃ hoti appiyo.

­œ

78.

Với người xấu ác, không thân!

Với kẻ ti tiện, lại cần tránh xa!

Trí hiền, bạn tốt mới là:

Thượng nhân cao quý điểm hoa lòng mình!

 

Na bhaje pāpake mitte

na bhaje purisādhame,

bhajetha mitte kalyāṇe

bhajetha purisuttame.

­œ

79.

Vui thay! Giáo pháp thấm nhuần

Vui thay! An lạc, thân tâm nhẹ nhàng!

Trí nhân thỏa thích Con Đàng

Của bậc Thánh tuệ, Lời Vàng thuyết ngôn.

 

Dhammapīti sukhaṃ seti

vippasannena cetasā,

ariyappavedite dhamme

sadā ramati paṇḍito.

­œ

80.

Giỏi thay! Dẫn nước, đào mương!

Mũi tên khéo uốn, thành đường thẳng ngay!

Bánh xe tròn đẽo, tài hay!

Tự điều, tự kiểm mới tày trí nhân!

 

Udakaṃ hi nayanti nettikā

usukārā namayanti tejanaṃ,

dāruṃ namayanti tacchakā

attānaṃ damayanti paṇḍitā.

­œ

81.

Ví như tảng đá kiên trì

Gió cuồng tám hướng dễ gì chuyển lay

Tiếng đời chê dở, khen hay

Không làm chao động đôi mày trí nhân.

(Tâm Cao)

Như núi đá dựng trời cao

Tám phương gió bão dễ nào chuyển lay

Tán dương, khiển trách, dở, hay

Chẳng làm dao động, nhíu mày trí nhân!

 

Selo yathā ekaghano

vātena na samīrati,

evaṃ nindāpasaṃsāsu

na samiñjanti paṇḍitā.

­œ

82.

Ví như hồ nước thẳm sâu

Lặng yên, trong suốt chẳng màu bợn hoen!

Như tâm của bậc trí hiền

Khi nghe diệu pháp, lòng liền tịnh an!

 

Yathāpi rahado gambhīro

vippasanno anāvilo

evaṃ dhammāni sutvāna

vippasīdanti paṇḍitā.

­œ

83.

Người hiền, dứt bỏ, xả ly

Thánh nhân mấy chuyện dục si, chẳng bàn!

Hạnh phúc, đau khổ thế gian

Thì bậc thiện trí đâu màng để tâm!

 

Sabbattha ve sappurisā cajanti

na kāmakāmā lapayanti santo,

sukhena phuṭṭhā atha vā dukhena

na uccāvacaṃ paṇḍitā dassayanti.

­œ

84.

Không vì mình, không vì người

Chẳng vì con cái, lộc tài trăm xe:

Làm điều bất chánh đáng chê

Bậc trí như vậy, Bồ-đề nở bông!

 

Không vì mình, không vì người

Chẳng vì sự nghiệp, tiếng đời công danh:

Bởi do bất chánh mà thành

Bậc trí như vậy, đạo hành viên dung!

 

Na attahetu na parassa hetu

na puttamicche na dhanaṃ na raṭṭhaṃ,

na iccheyya adhammena samiddhimattano,

sa sīlavā paññavā dhammiko siyā.

­œ

85.

Giữa đám nhân loại dật dờ

May ra ít kẻ vượt bờ bến mê

Phần đông cười, khóc ê chề

Tâm hồn rách nát, kéo lê bờ này!

 

Phần đông nhân loại dật dờ

Sống say, chết mộng bên bờ bến mê

Quẩn quanh, xuôi ngược ê chề

Đảo điên, tất bật kéo lê bờ này!

 

Appakā te manussesu

ye janā pāragāmino,

athāyaṃ itarā pajā

tīramev’ānudhāvati.

­œ

86.

Những ai tinh tấn tu trì

Đúng theo chánh pháp khéo tri, khéo hành

Vượt qua Ma lực, tử sanh

Thuyền xuôi giác ngạn, mây lành đón đưa!

 

Ye ca kho sammadakkhāte

dhamme dhammānuvattino,

te janā pāramessanti

maccudheyyaṃ suduttaraṃ.

­œ

87.

Bỏ nhà, mây trắng ra đi

Thong dong muôn sự, viễn ly thế tình

Pháp đen, pháp trắng phân minh

Rời xa khổ lạc, khinh linh độc hành.

 

Kaṇhaṃ dhammaṃ vippahāya

sukkaṃ bhāvetha paṇḍito,

okā anokaṃ āgamma

viveke yattha dūramaṃ.

­œ

88.

Phất tay sở hữu riêng tư

Cầu vui tịch tịnh, chân như Niết-bàn

Gỡ bao chướng ngại sân tham,

Nhiễm ô thanh lọc, xứng hàng trí nhân!

 

Tatrābhiratimiccheyya

hitvā kāme akiñcano,

pariyodapeyya attānaṃ

cittaklesehi paṇḍito.

­œ

89.

Khéo thay! Tu tập giác chi

Lành thay! Chánh hạnh nhiếp trì bền tâm

Người không ái nhiễm dục trần

Sống đời sáng chói, Niết-bàn, tại đây!

 

Yesaṃ sambodhiyaṅgesu

sammā cittaṃ subhāvitaṃ,

ādānapaṭinissagge

anupādāya ye ratā,

khīṇāsavā jutimanto

te loke parinibbutā.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
02 Tháng Hai 2015(Xem: 6469)
Giống như biển cả chỉ có một vị, đó là vị mặn của muối; cũng như thế, Giáo Pháp và Giới Luật chỉ có một vị, đó là hương vị giải thoát. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ sáu của Giáo Pháp và Giới Luật..
29 Tháng Giêng 2015(Xem: 6543)
Nầy các Tỳ Kheo, bất cứ ai có hành động, lời nói, và ý nghĩ thiện lành vào buổi sáng, sẽ có một buổi sáng hạnh phúc.Bất cứ ai có hành động, lời nói, và ý nghĩ thiện lành vào buổi trưa, sẽ có một buổi trưa hạnh phúc.Bất cứ ai có hành động, lời nói, và ý nghĩ thiện lành vào buổi chiều, sẽ có một buổi chiều hạnh phúc.
21 Tháng Giêng 2015(Xem: 6330)
Bài kinh hay đúng hơn là bài thơ Sunita này đã được Gabriel 'Jivasattha' Bittar, một người tu tập theo Phật Giáo Theravada và cũng là giáo sư tiến sĩ khoa học giảng dạy về môn "Tiến hóa chủng loại" (Phylology) tại các đại học Genève và Lausanne (Thụy Sĩ), dịch sang tiếng Pháp vào khoảng năm 1998.
19 Tháng Giêng 2015(Xem: 8755)
Bài kinh này khá quan trọng và tinh tế tuy nhiên dường như ít nghe nói đến. Chữ Aggi của tựa bài kinh có nghĩa là ngọn lửa, và lửa thì mang tính cách thiêng liêng trong đạo Bà-la-môn cũng như Ấn Giáo sau này. Các học giả Tây Phương thường xem bản kinh này là một trong số các kinh quan trọng nêu lên tinh thần phi-bạo-lực của Phật Giáo.
07 Tháng Giêng 2015(Xem: 25313)
Trở lại câu hỏi, có MỘT quyển kinh nào, của Phật giáo, tương ưng đối tác với quyển Kinh Thánh của 3 tôn giáo lớn Tây phương hay không, câu trả lời là CÓ, một cách quyết xác và không do dự,
15 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 9205)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538)1, thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm. Với chiều dài lịch sử đó, đã khẳng định những cống hiến riêng có của lễ hội này, trong tiến trình phát triển văn hóa của nhân loại nói chung và của Phật giáo nói riêng. Tuy nhiên