Chương VII – ARAHANTAVAGGA - (Phẩm A-la-hán)

15 Tháng Sáu 201403:01(Xem: 5663)
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH
Dhammapada
KINH LỜI VÀNG
Việt - lục bát thi hóa - Pāḷi
( In lần thứ 5, có chỉnh sửa và nhuận sắc lần cuối)

Chương VII
ARAHANTAVAGGA
(Phẩm A-la-hán)

90.

Trải qua suốt cuộc hành trình

Não phiền chấm dứt, khổ hình tiêu tan

Cởi bao triền phược buộc ràng,

Sống đời siêu thoát, lửa tàn vùi tro!

 

Gataddhino visokassa

vippamuttassa sabbadhi,

sabbaganthappahīnassa

pariḷāho na vijjati.

­œ

91.

Sa-môn chánh niệm kiên trì

Lìa mọi trú xứ, ra đi nhẹ nhàng

Ngỗng trời cất cánh thênh thang

Ao hồ bỏ lại, mây ngàn thong dong!

 

Chim có tổ, cáo có hang

Lìa mọi trú xứ, gót chàng Sa-môn

Non xanh, mây trắng tâm hồn

Rỗng không muôn sự, cô đơn dặm ngoài!

 

Uyyuñjanti satīmanto

na nikete ramanti te,

haṃsā va pallalaṃ hitvā

okamokaṃ jahanti te.

­œ

92.

Rỗng rang tư hữu ra đi

Uống ăn biết đủ, có chi phải bàn?

Tánh không, vô tướng nhẹ nhàng

Chim trời xóa dấu, mây ngàn tìm đâu?

 

Thân không, tài sản cũng không

Ba y dị giản, phiêu bồng chiếc mây

Giữa hư vời, cánh chim bay

Đố ai biết hướng Đông, Tây mà tìm!

 

Yesaṃ sannicayo n’atthi

ye pariññātabhojanā,

sunññto animitto ca

vimokkho yesaṃ gocaro,

ākāse va sakuntānaṃ

gati tesaṃ durannayā.

­œ

93.

Sa-môn lậu hoặc đoạn ly

Uống ăn chẳng đắm, có chi phải bàn?

Tánh không, vô tướng nhẹ nhàng

Bóng chim xóa vết, thênh thang mây trời!

 

Sa-môn, lậu hoặc cắt rời

Uống ăn vừa đủ, sống đời rỗng rang

Tánh không, vô tướng nhẹ nhàng

Vết chân vị ấy, không gian chim trời!

 

Yassāsavā parikkhīṇā

āhāre ca anissito,

suññato animitto ca

vimokkho yassa gocaro,

Ākāse’va sakuntānaṃ,

padaṃ tassa durannayaṃ.

­œ

94.

Ví như tuấn mã luyện thành

Lục căn chế ngự, xứng danh trượng tòng!

Nhiễm ô, ngã mạn tiêu vong

Chư thiên mến mộ giống dòng Sa-môn!

 

Yass’indriyāni samathaṃ gatāni

assā yathā sārathinā sudantā,

pahīnamānassa anāsavassa

devāpi tassa pihayanti tādino.

­œ

95.

Đất kia cau mặt bao giờ

Trụ đồng kiên cố, ao hồ lắng trong

Luân hồi, vị ấy vượt dòng

Tái sinh vô định, khổ không nào còn!

 

Như đất, tâm ý quân bình

Kỷ cương, giới hạnh, thất tình chẳng xao

Trụ đồng kiên cố khác nào

Chẳng còn nhơ bẩn, hồ ao lắng bùn

Là người đích đến cuối cùng

Luân hồi vô định, lao lung chẳng còn!

 

Pathavisamo no virujjhati

Indakhiīl’upamo tādi subbato,

rahadova apetakaddamo

saṃsārā na bhavanti tādino.

­œ

96.

Tâm an thì nghiệp cũng an

Lời ăn, tiếng nói lại càng an hơn

Sống đời tri kiến chánh chơn

Thanh bình siêu thoát, Sa-môn giống dòng!

 

Santaṃ tassa manaṃ hoti

santā vācā ca kamma ca,

sammadaññā vimuttassa

upasantassa tādino.

­œ

97.

Chỉ tin giải thoát, chánh tri

Chẳng tin ai khác, an vi tự lòng

Cắt lìa hệ lụy trần hồng

Là người tối thượng, chân không đi về!

 

Assaddho akataññū ca

sandhicchedo ca yo naro,

hatāvakāso vantāso

sa ve uttamaporiso.

­œ

98.

Thị phường, làng mạc, rừng sâu

Non cao, lũng thấp hoặc đâu mặc dù

Nơi nào bậc thánh ngụ cư

Ở đấy khả ái, an như tuyệt vời!

 

Gāme vā yadi vāraññe

ninne vā yadi vā thale,

yattha arahanto viharanti

taṃ bhūmiṃ rāmaṇeyyakaṃ.

­œ

99.

Rừng sâu khả ái vô cùng

Chỗ người phàm tục ngại ngùng bước chân

Vì không tìm kiếm dục trần

Bậc “ly tham” sống, mười phần hân hoan!

 

Ramaṇīyāni araññāni

yattha na ramatī jano,

vītarāgā ramissanti

na te kāmagavesino.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn