Chương X - DAṆḌAVAGGA - (Phẩm Hình Phạt)

15 Tháng Sáu 201403:31(Xem: 5548)
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH
Dhammapada
KINH LỜI VÀNG
Việt - lục bát thi hóa - Pāḷi
( In lần thứ 5, có chỉnh sửa và nhuận sắc lần cuối)

Chương X
DAṆḌAVAGGA
(Phẩm Hình Phạt)

129.

Ai ai cũng sợ gươm đao

Ai ai cũng sợ máu đào, thây phơi

Bụng ta suy hiểu bụng người

Chớ nên giết hại, xúi lời giết nhau!

 

Sabbe tasanti daṇḍassa

sabbe bhāyanti maccuno,

attānaṃ upamaṃ katvā

na haneyya na ghātaye.

­œ

130.

Ai ai cũng sợ gươm đao

Người người mạng sống mong sao bảo toàn

Bụng ta hiểu bụng thế gian

Chớ nên giết hại, xúi bàn giết nhau!

 

Sabbe tasanti daṇḍassa,

sabbesaṃ jīvitaṃ piyaṃ,

attānaṃ upamaṃ katvā

na haneyya na ghātaye.

­œ

131.

Ai ai hạnh phúc cũng cầu

Tại sao đao trượng hại nhau làm gì?

Tìm an mà lại ác tri

Những người như vậy mong chi gặp lành.

 

Sukhakāmāni bhūtāni

yo daṇḍena vihiṃsati,

attano sukhamesāno

pecca so na labhate sukhaṃ.

­œ

132.

Ai ai hạnh phúc cũng cầu

Tại sao đao trượng hại nhau làm gì?

Xa lìa ác niệm ấy đi

Báo thân xả bỏ, tức thì nhàn sanh.

 

Sukhakāmāni bhūtāni

yo daṇḍena na hiṃsati,

attano sukhamesāno

pecca so labhate sukhaṃ.

­œ

133.

Giận nhau, thô lỗ, cộc cằn

Người kia trả miếng cũng ngần ấy thôi!

Khổ thay! Phẫn hận trên đời

Vết thương dao xé: Tiếng lời lại qua!

 

Māvoca pharusaṃ kañci

vuttā paṭivadeyyu taṃ,

dukkhā hi sārambhakathā

paṭidaṇḍā phuseyyu taṃ.

­œ

134.

Tự mình nếu biết lặng yên

Không còn oán nộ, chẳng hiềm hại ai

Như chuông đã bể tiếng rồi

Ai mà được vậy, kề nơi Niết-bàn.

 

Sace n’eresi attānaṃ

kaṃso upahato yathā,

esa pattosi nibbānaṃ

sārambho te na vijjati.

­œ

135.

Người chăn dùng gậy lùa dê

Lùa từng con một đi về đồng xa

Tuổi già, sự chết cũng là

Lùa từng mạng sống chúng ta xuống mồ!

 

Yathā daṇḍena gopālo

gāvo pājeti gocaraṃ,

Evaṃ jarā ca maccu ca

āyuṃ pājenti pāṇinaṃ.

­œ

136.

Người ngu ác độc, tội lầm

Vẫn không nhận thức việc làm cuồng si

Nghiệp kia cho quả tức thì

Bị thiêu, bị nấu có chi phải ngờ!

 

Atha pāpāni kammāni

karaṃ bālo na bujjhati,

sehi kammehi dummedho

aggidaḍḍho va tappati.

­œ

137.

Dùng đao hại kẻ “không đao”([1])

Trượng hại “không trượng”([2]) khác nào tự thiêu!

Ai kia thọ khổ mười điều

Chịu quả khốc liệt cùng nhiều tai ương!

 

Yo daṇḍena adaṇḍesu

appaduṭṭhesu dussati,

dasannamaññataraṃ ṭhānaṃ

khippameva nigacchati.

­œ

138.

Một là nhức nhối đau thương

Hai là họa biến, khôn đường trở xoay

Ba là thương tích mặt mày

Bốn là trọng bệnh, thuốc thầy chẳng xong!

 

Vedanaṃ pharusaṃ jāniṃ

sarīrassa ca bhedanaṃ,

garukaṃ vā pi ābādhaṃ

cittakkhepaṃ ca pāpuṇe.

­œ

139.

Năm là tâm trí loạn cuồng

Sáu, bị hại bởi lực quyền vua quan

Bảy, chịu trọng tội cáo oan

Tám là gia quyến các hàng phân ly!

 

Rājato vā upasaggaṃ

abbhakkhānañca dāruṇaṃ,

parikkhayaṃ va ñātīnaṃ

bhogānaṃ va pabhaṅguraṃ.

­œ

140.

Chín là tài sản ra đi

Mười là nhà cửa, lắm kỳ hỏa tai

Đến khi thọ mạng hết rồi

Chung thân địa ngục đồng sôi, chão dầu!

 

Atha vāssa agārāni

aggi ḍahati pāvako,

kāyassa bhedā duppañño

nirayaṃ so’papajjati.

­œ

141.

Bằng cách lõa thể lang thang

Hoặc là bện tóc tro than trét mình

Hoặc như bôi mặt bùn sình

Hay là tuyệt thực tóp hình sậy khô

Tu gì đất bẩn nằm co

Lấm lem bụi dính, phết nhơ dọa người?

Ngồi xổm hoặc nhảy loi choi

Nhịn ăn, nín thở sống đời dị nhân!

Ấy là thanh lọc thân tâm?

Hoài nghi trừ diệt, thánh nhân đời này?!

Than ôi! Khổ hạnh đặt bày

Nhân khổ, quả khổ biết hay trí cuồng?!

 

Na naggacariyā na jaṭā na paṅkā

nānāsakā thaṇḍilasāyikā vā,

rajo ca jallaṃ ukkuṭikappadhānaṃ,

sodhenti maccaṃ avitiṇṇakaṅkhaṃ.

­œ

142.

Người kia dẫu đẹp phục trang

Sống đời thanh tịnh, tĩnh an tục trần

Sáu căn chế ngự tinh thuần

Sống đời phạm hạnh trong ngần pha lê

Bước trên chánh đạo mà về

Từ tâm vô lượng, chẳng hề trượng đao!

Tỳ-khưu, Phạm chí khác nào

Sa-môn, khất sĩ gọi sao cũng là!

 

Alaṅkato ce pi samaṃ careyya,

santo danto niyato brahmacārī,

sabbesu bhūtesu nidhāya daṇḍaṃ,

so brāhmaṇo so samaṇo sa bhikkhu.

­œ

143.

Hiếm thay người ở thế gian

Đã biết tự chế, lại càng tự khiêm!

Biết hổ thẹn, thoát chê gièm

Như con tuấn mã tài hiền tránh roi.

 

Hirīnisedho puriso

koci lokasmi vijjati,

yo niddaṃ apabodheti

asso bhadro kasāmiva.

­œ

144.

Ngựa hiền chỉ thấy bóng roi

Tinh cần, giới đức sáng ngời tín tâm

Định thiền, trạch pháp, tư tầm

Kiên trì, đạo hạnh trong ngần như gương

Đủ đầy chánh niệm lên đường

Những người như vậy, tai ương tận lìa!

 

Asso yathā bhadro kasāniviṭṭho

ātāpino saṃvegino bhavātha,

saddhāya sīlena ca vīriyena ca

samādhinā dhammavinicchayena ca,

sampannavijjācaraṇā patissatā

jahissatha dukkhamidaṃ anappakaṃ.

­œ

 

145.

Hãy xem dẫn nước, đào mương

Mũi tên khéo uốn thành đường thẳng ngay

Bánh xe tròn đẽo, tài hay!

Hành trì tốt đẹp, xứng thay, tự điều!

 

Udakaṃ hi nayanti nettikā

usukārā namayanti tejanaṃ,

dāruṃ namayanti tacchakā

attānaṃ damayanti subbatā.


([1])Hàm chỉ bậc Thánh.

([2])Hàm chỉ bậc Thánh.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
21 Tháng Tư 2016(Xem: 7014)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Bàhiya Daruciriya trú ở Suppàraka, trên bờ biển, được cung kính, tôn trọng đảnh lễ, cúng dường và nhận được y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Rồi Bàhiya Dàcuciriya khởi lên tư tưởng như sau: "Với ai là bậc A-la-hán hay đang đi trên con đường A-la-hán, ta là một trong những vị ấy ". Rồi một Thiên nhân, trước là bà con huyết thống với Bàhiya Dàruciriya, vì lòng từ mẫn, vì muốn lợi ích, với tâm của mình biết tâm tư của Bàhiya Dàruciriya, đi đến Bàhiya Dàruciriya và nói như sau:
14 Tháng Tư 2016(Xem: 5685)
Tôi đã nghe nói rằng, có một thời Đức Phật đã sống với những người ở vùng Sumbhan. Lúc bấy giờ, trong vùng Sumbhan nầy, có một tỉnh tên là Sedaka. Ở đó, Đức Phật đã gọi chư tăng, "Nầy các Tỳ Kheo!" "Dạ thưa Đức Thế Tôn," chư tăng đồng trả lời.
02 Tháng Tư 2016(Xem: 6682)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời. Những lời chúng ta nghe kể lại ở đây hay được thuyết pháp từ những người kém trí tuệ và đạo đức cho dù có lập lại chính xác từng lời từng chữ từ kim khẫu của Đức Thế Tôn vẫn không có đủ hấp lực, mãnh lực và công lực sư tử hống để giác ngộ nổi cho người nghe. Tuy nhiên, khi đọc, nghe được những lời vàng ngọc của Đức Thế Tôn dù qua bất cứ một phương tiện nào cũng như là những hạt nhân giác ngộ được cấy vào trong ý thức của chúng ta chờ nhân duyên chín ‘muồi’ để đơm hoa kết quả Phật tánh.
29 Tháng Ba 2016(Xem: 5606)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một. Trong đó có nhiều kinh liên hệ tới sự chết. Nơi đây, bài viết này sẽ dịch hai kinh: Ud 7.10 và SN 44.9. Cả hai kinh đều dẫn tới nhiều suy nghĩ cho người học Phật.
02 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 6774)
Có một số kinh được Đức Phật đưa ra và gọi đó là giáo pháp ngắn gọn, để dạy một số chư tăng khi quý ngài bạch rằng tuổi đã cao, bây giờ cần một lời dạy giáo pháp ngắn gọn để lui về một góc rừng tu hành khẩn cấp.
22 Tháng Mười Một 2015(Xem: 7484)
Trong một số bài trước, chúng ta đã thấy Đức Phật trong vài kinh đã đưa ra một số giáo pháp ngắn gọn, để dạy một số chư tăng khi quý ngài bạch rằng tuổi đã cao, bây giờ cần một lời dạy để lui về một góc rừng u tịch tu hành khẩn cấp.
06 Tháng Mười Một 2015(Xem: 7853)
Đức Phật chỉ đường Giới Định Huệ là để giải thoát khỏi Tham Sân Si, ba độc đã lôi kéo chúng ta nhiều đời. Từ giáo pháp nhà Phật, hiện nay, các nhà khoa học Tây phương đã chọn ra một phần thích nghi để sử dụng cho nhiều trường hợp có lợi cho nhân loại và xã hội – trong đó, chánh niệm, thường dịch là mindfulness, được quan tâm, ưa chuộng nhất.
21 Tháng Mười 2015(Xem: 7785)
Phật Giáo là đạo giải thoát, vượt bờ sinh tử, xa lìa muôn kiếp mê lầm bể khổ. Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si. Và ngài nói, chìa khóa xa lìa phiền não là tam học: giới định huệ. Như thế, cả phiền não và xa lìa phiền não đều là tâm. Ngắn gọn, Phật Giáo là pháp tu tâm.
08 Tháng Mười 2015(Xem: 6476)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền, vừa như một thoại đầu cho hành giả mà cũng vừa là bài kinh hộ niệm cho người bệnh.