Chương XVI – PIYAVAGGA - (Phẩm Thương, Ái)

15 Tháng Sáu 201415:06(Xem: 4676)
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH
Dhammapada
KINH LỜI VÀNG
Việt - lục bát thi hóa - Pāḷi
( In lần thứ 5, có chỉnh sửa và nhuận sắc lần cuối)

Chương XVI 
PIYAVAGGA 
(Phẩm Thương, Ái)

(1) Cần phân biệt một số từ có từ gốc “Ái”, đó là piya, pema, rati, rāgī, rāga, kāma, taṇhā... Piya, pema thường dùng trong nghĩa thương yêu, trìu mến, thân yêu, thương mến, yêu quý, yêu mến... là những tình cảm tốt đẹp trong đời thường như cha mẹ, vợ con, bằng hữu, xóm làng, quê hương... Rati, rāgī, rāga được dùng khi tình cảm đã sâu nặng, như quyến luyến, luyến thương, ái luyến đưa đến dục tình, tình dục... Kāma thì thuộc về tất cả dục ngũ trần, thuộc dục giới. Taṅhā là ái, ái dục nằm trong 12 duyên khởi; khi nó thích thì yêu, thương, tham - khi không thích thì sinh ra ghét, chán, sân. Tuy nhiên, dù thương, dù ái kiểu gì thì cũng đem đến buộc ràng, đau khổ... như tham, thương nhiều thì khổ nhiều; tham, thương ít thì khổ ít vậy (Đây là sự thấy biết riêng, có tính chủ quan của soạn giả, có thể chưa được chính xác hoặc có một vài sai sót nào đó, xin các bậc thức giả, trí giả hiểu cho).

 

209.

Đáng làm thì lại bỏ quên

Chăm chuyên những việc chẳng nên chút nào

Thả cho dục vọng tuôn trào

Quên mục đích chính, lội vào dòng mê!

Đã không cố gắng quay về

Lại còn ganh tị, cười chê người hiền!

 

Chánh chơn thì lại bỏ bên

Chăm chuyên những việc chẳng nên chút nào!

Xa mục đích, dục tuôn trào

Chạy theo những việc tào lao giữa đời

Lại còn dè bỉu, ỉ ôi

Tỵ ganh những bậc chẳng rời hướng tu!

 

Ayoge yuñjamattānaṃ

yogasmiñ ca ayojayaṃ,

atthaṃ hitvā piyaggāhī

pihetattānuyoginaṃ.

­œ

210.

“Thương yêu” thì chớ tìm gần

Kẻ mình chẳng thích, phải cần tránh mau!

Người thương không gặp thì sầu

Còn kẻ mình ghét, mày chau ích gì!

 

Mā piyehi samāgañchi(1)

appiyehi kudācanaṃ,

piyānaṃ adassanaṃ dukkhaṃ

appiyānañca dassanaṃ.

­œ

211.

Vậy nên chớ có thương ai

Thương người mà phải xa người, khổ thay!

Ghét, yêu – ái khởi, duyên bày

Lìa được yêu, ghét - cởi dây buộc ràng!

 

Tasmā piyaṃ na kayirātha

piyāpāyo hi pāpako,

ganthā tesaṃ na vijjanti

yesaṃ n’atthi piyāppiyaṃ.

­œ

212.

“Thân yêu” sinh bệnh phiền ưu

Lại sinh sợ hãi, lo âu nhiều bề

Không thân yêu, chẳng thích mê

U sầu, sợ hãi - ê chề trốn xa!

 

Piyato jāyatī soko

piyato jāyatī bhayaṃ,

piyato vippamuttassa

n’atthi soko kuto bhayaṃ.

­œ

213.

“Trìu mến” sinh bệnh phiền ưu

Lại sinh sợ hãi, lo âu nhiều bề

Không trìu mến, chẳng thích mê

U sầu, sợ hãi - cận kề được đâu!

 

Pemato jāyatī soko(1)

pemato jāyatī bhayaṃ,

pemato vippamuttassa

n’atthi soko kuto bhayaṃ.

­œ

214.

“Luyến ái” sinh bệnh phiền ưu

Lại sinh sợ hãi, lo âu nhiều bề

Không luyến ái, chẳng đắm mê

U sầu, sợ hãi - chúng chê dở mồi!

 

Ratiyā jāyatī soko(1)

ratiyā jāyatī bhayaṃ,

ratiyā vippamuttassa

n’atthi soko kuto bhayaṃ.

­œ

215.

“Tham dục” sinh bệnh phiền ưu

Lại sinh sợ hãi, lo âu nhiều bề

Không tham dục, chẳng đắm mê

U sầu, sợ hãi - chán chê chẳng gần!

 

Kāmato jāyatī soko(1)

kāmato jāyatī bhayaṃ,

kāmato vippamuttassa

n’atthi soko kuto bhayaṃ.

­œ

216.

“Dục ái” sinh bệnh phiền ưu

Lại sinh sợ hãi, lo âu nhiều bề

Không dục ái, chẳng đắm mê

U sầu, sợ hãi - đã thề viễn ly!

 

Taṇhāya jāyatī soko(1)

taṇhāya jāyatī bhayaṃ,

taṇhāya vippamuttassa,

n’atthi soko kuto bhayaṃ.

­œ

217.

Giới đức, trí giác trọn lành

Kiên cố giáo pháp, đạo hành viên dung

Làm xong công việc cuối cùng

Trời, người ái kính, đón mừng hân hoan!

 

Sīladassanasampannaṃ

dhammaṭṭhaṃ saccavedinaṃ,

attano kamma kubbānaṃ

taṃ jano kurute piyaṃ.

­œ

218.

Nguyện thành quả vị “ly ngôn”(1)

Chẳng còn xúc động, “thánh môn đầu dòng”(2)

Tế vi các ái tiêu vong

Những bậc như vậy xứng đồng “thượng lưu”!(3)

 

Chandajāto anakkhāte

manasā ca phuṭo siyā,

kāmesu ca appaṭibaddhacitto

uddhaṃsoto’ti vuccati.

­œ

219.

Lâu ngày làm khách ly hương

An toàn trở lại hỏi đường về thăm

Bà con quyến thuộc xa gần

Bạn bè hoan hỷ, thôn lân đón chào.

 

Cirappavāsiṃ purisaṃ

dūrato sotthimāgataṃ,

ñātimittā suhajjā ca

abhinandanti āgataṃ.

­œ

220.

Ví người hành thiện khác nào

Đời này, đời nọ xiết bao phước dành!

Đón đưa tốt đẹp, an lành

Bà con thân thuộc, chân thành mừng vui!

 

Tatheva katapuññampi

asmā lokā paraṃ gataṃ,

puññāni paṭigaṇhanti

piyaṃ ñātim’va āgataṃ.


(1) Piya: Thân yêu, yêu quý, thương mến...(có từ gốc Ái dục – taṇhā); nó là tình thường trong đời sống, chưa quá đà, chưa có tội lắm, nhưng cũng phát sanh khổ (Người biên soạn).

(1) Pema: Thương yêu, trìu mến...; cũng có từ gốc taṇhā – ái dục; là tình cảm tốt trên cuộc đời như thương vợ, thương con; chưa có tội lắm nhưng cũng đưa đến phiền não (Người biên soạn).

(1) Rati: Luyến ái, phát sanh dục tình – có từ gốc Ái dục - taṇhā, từ đây mới phát sanh vấn đề cần phải được nhìn ngắm. Cao hơn một cấp độ nữa là Rāga: Tình dục, gốc của luân hồi (Người biên soạn).

(1) Kāma: Tham muốn thoả mãn ngũ dục, nói chung là cõi dục giới, có từ gốc Ái dục - taṇhā.

(1) Taṇhā: Ái Dục, nằm trong 12 duyên khởi, gốc của sinh tử luân hồi. Từ Taṇhā này, cái gì được thì tham, thương; cái gì không được thì sân, ghét.

(1) Chỉ Niết-bàn.

(2) Chỉ 3 quả vị đầu là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm.

(3) Chỉ A-la-hán.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
01 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 6309)
01 Tháng Mười Một 2014(Xem: 9056)
Khi xưa, vào thời Đức Phật, tại thành Vesali xảy ra ba khổ nạn là bệnh tật, phi nhơn hoành hành và nghèo đói. Ba hiểm nạn lớn đó đã khiến cho dân thành Vesali khốn đốn. Các vị Hòang thân Licchavi khởi lên niềm tin nơi Đức Phật. Họ tin rằng chỉ có Đức Phật, với trí tuệ và uy lực của Ngài, mới có thể giúp người dân trong thành Vesali thoát khỏi khổ nạn và đem đến sự an lành.
29 Tháng Tám 2014(Xem: 12511)
Bài Kinh này gián tiếp giới thiệu một cách khái quát giá trị tâm linh của người xuất gia, bắt đầu bằng một đời sống thanh cao, không màn đến sở hữu tài sản vật chất thế gian. Mục đích của người tu không phải để được làm trụ trì một ngôi chùa, được người đời cúng dường và cung kính, mà nhằm tầm cầu con đường tâm linh, hướng đến các giá trị nội tại. Các giá trị đó chỉ có thể đạt được bằng cách thực hành theo con đường trung đạo, khởi đi bằng cái nhìn đúng đắn (chánh kiến) và kết thúc bằng đời sống thiền định
01 Tháng Tám 2014(Xem: 7930)
Thế Tôn thuyết như sau: -- Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn Niệm xứ. ... The Blessed One said this: "This is the direct path for the purification of beings, for the overcoming of sorrow and lamentation, for the disappearance of pain and distress, for the attainment of the right method, and for the realization of Unbinding -- in other words, the four frames of reference. Which four?
19 Tháng Bảy 2014(Xem: 8295)
Kinh điển Pali bao gồm hàng ngàn bộ kinh, và đang được phổ biến rộng rãi trên mạng. Đứng trước kho tàng đồ sộ đó, tự nhiên bạn sẽ bối rối: Tại sao tôi nên đọc những kinh này? Đọc kinh nào bây giờ? Đọc như thế nào?
17 Tháng Sáu 2014(Xem: 19720)
Đây là quyển Kinh Tụng Pāḷi-Việt dành cho Phật tử Nguyên thủy, được dịch và biên soạn bằng văn vần dựa theo Pāḷi. Khá nhiều bài ở đây, đã được tụng đọc trong suốt nhiều năm qua tại một số chùa Phật giáo Nguyên thủy trong và ngoài nước. Tuy nhiên, do sao qua chép lại, và do nơi này nơi kia đã tự ý sửa chữ, đổi lời - nên nhiều câu, nhiều từ bị “biến dạng” đi!
15 Tháng Sáu 2014(Xem: 13373)
Người mất ngủ thấy đêm dài Đường xa nặng trĩu đôi vai lữ hành Ngu nhân chẳng thấy pháp lành Luân hồi nào biết mối manh nẻo về.
27 Tháng Ba 2014(Xem: 11969)