KINH TỤNG PĀḶI-VIỆT
VII- PHỤ LỤC
(Những đoạn Kinh, Kệ, Thi Kệ dành cho chư Tăng,
nhưng cư sĩ cũng có thể đọc tụng
để tự nhắc nhở, khuyến hóa mình cũng được)
MƯỜI ĐIỀU PHẢN TỈNH CỦA BẬC XUẤT GIA
(PABBAJITA - ABHIÑÑAPACCAVEKKHANA)
Sống theo đại nguyện ly trần
Mười điều phản tỉnh phải cần xét soi:
1. Xuất gia tướng mạo khác người
Chức năng, phận sự hằng thời nhớ ghi.
2. Thảnh thơi cơm áo dễ gì
Tháng ngày nuôi mạng, ta vì ân ai?
3. Giữ gìn thân khẩu nay mai
Cố công thêm nữa, chửa hài lòng đâu!
4. Tự tu, tự kiểm trước sau
Nhu hòa, nết hạnh qua cầu nhân sinh.
5. Đừng cho bậc trí chê khinh
Nặng lời khiển trách, giới mình lươn ươn.
6. Buồn, lìa nhân vật ta thương
Chán, gần người ghét, lẽ thường thế gian.
7. Nghiệp sanh nhân quả rõ ràng
Dữ thì thọ khổ, lành càng được vui.
8. Xuân thu mau lẹ thoáng trôi
Tiến hóa tu tập, ta thời tốt chăng?
9. Lại thêm xét gẫm nữa rằng
Tĩnh cư thanh vắng, ta hằng mến yêu?
10. Nói làm giác niệm sớm chiều
Trú an hơi thở, tiêu diêu cửa thiền
Quyết tâm theo gót trí hiền
Xả rời lậu hoặc, não phiền duyên sinh
Đến khi sự chết rập rình
Các bậc phạm hạnh đạo tình hỏi han
Xét mình bổn phận chu toàn
Ra đi không thẹn dự hàng Sa-môn!
MƯỜI PHÁP LÀM NƠI NƯƠNG TỰA
(DASA-NĀTHAKARAṇADHAMMA)
Ân cần đức Phật bảo ban
Mười nơi nương tựa cho hàng xuất gia:
1. Giữ gìn đi đứng vào ra
Nuôi mạng trong sạch, nết na giới nghì.
2. Học, nghe phải biết nghĩ suy
Tiếp thu chơn chánh, kiến tri rõ ràng.
3. Giao du người tốt, bạn vàng
Điều hay, lẽ phải hỏi han thân gần.
4. Việc làm khéo léo, cân phân
Tính toan cẩn thận, duyên nhân tự thành.
5. Là người dễ dạy, trí nhanh
Biết vâng giáo giới, biết hành nhẫn kham.
6. Thường khi nghe pháp hỷ hoan
Vui say học hỏi, luận bàn Giới, Kinh.
7. Gặp điều xấu ác chê khinh
Siêng năng tu tập cho mình tốt hơn.
8. Nhu cầu tri túc chánh chơn
Dễ nuôi, dễ sống, biết ơn xa gần.
9. Oai nghi chánh niệm tinh cần
Rời xa phóng dật, tham sân đoạn triền.
10. Tuệ tri, niệm xứ, quán thiền
Vào dòng bất tử, tiền khiên tận lìa
Khắc ghi mười diệu pháp kia
Đa năng, đa dụng sớm khuya phụng hành.
MAṄGALA-CAKKAVĀḶA
Sabbabuddh’ānubhāvena,
Sabbadhamm’ānubhāvena,
Sabbasaṅgh’ānubhāvena,
Buddharatanaṃ, Dhammaratanaṃ, Saṅgharatanaṃ, Tinnaṃ ratanānaṃ ānubhāvena, Caturāsīti-sahassa Dhammakkhandh’ānubhāvena, Piṭakattay’ānubhāvena, Jinasāvak’ānubhāvena. Sabbe te rogā, sabbe te bhayā, sabbe te antarāyā, sabbe te upaddavā, sabbe te dunnimittā, sabbe te avamaṅgalā vinassantu.
Āyu-vaḍḍhako, dhana-vaḍḍhako, siri-vaḍḍhako, yasa-vaḍḍhako, bala-vaḍḍhako vaṇṇa-vaḍḍhako sukha-vaḍḍhako, hontu sabbadā.
Dukkha-roga-bhayā-verā-sokā-sattu c’upaddavā, anekā antarāyā’pi vinassantu ca tejasā.
Jaya, siddhi, dhanaṃ, lābhaṃ, sotthi, bhagyaṃ, sukhaṃ, balaṃ, siri, āyu ca vaṇṇo ca bhogaṃ, vuḍḍhī ca yasavā, satavassā ca āyu ca jīvasiddhī bhavantu te.
KỆ ĐIỀM LÀNH VŨ TRỤ
Uy đức chư Phật nhiệm mầu
Giáo pháp, Tăng chúng thẳm sâu, khó nghì
Uy đức Tam Bảo chứng tri
Uy đức Tam Tạng, pháp chi vạn điều
Uy đức Thánh chúng cao siêu
Buồn phiền, oan trái theo chiều nhẹ không
Hận thù, nguy khốn tiêu vong
Ác gian, hiểm độc bến dòng thả xuôi
Nguyện cho thắng phước trong đời
Thành công, lợi đắc, thiên thời hòa vui
Mừng thêm tín, trí chín muồi
Tuổi thọ, may mắn, tiếng lời danh thơm
Sắc đẹp, sức khỏe tốt hơn
Phúc lành, an lạc như chơn vững bền
Viên toàn, tăng thịnh thêm lên
Bởi muôn uy đức, phúc duyên lợi cầu
Phúc cho trăm tuổi sống lâu
An sinh, tấn hóa, pháp mầu diệu tâm!
ĐOẠN CUỐI CỦA BÀI KỆ
TIROKUḌḌA-KAṆḌA-GĀTHĀ
Adāsi me akāsi me
Ñāti mittā sakhā ca me
Petānaṃ dakkhiṇaṃ dajjā
Pubbe katam’anussaraṃ.
Na hi ruṇṇaṃ vā soko vā
Yāv’aññā paridevanā
Na taṃ petānam’atthāya
Evaṃ tiṭṭhanti ñātayo.
Ayañ-ca kho dakkhiṇā-dinnā
Saṅghamhi supatiṭṭhitā
Dīgharattaṃ hitāyassa
Thānaso upakappati
So ñāti-dhammo ca yaṃ nidassito
Petāna-pūjā ca katā uḷārā.
Balañ-ca bhikkhūnam’anuppa-dinnaṃ
Tumhehi puññaṃ pasutaṃ anappakan’ti.
HỒI HƯỚNG PHƯỚC BÁU ĐẾN NGẠ QUỶ
Khi ta tưởng đến ân nhân
Họ đã quá vãng, là thân quyến mình
Nghĩ từ quá khứ lai sinh
Vốn là bè bạn, nghĩa tình gần xa
Bà con, thiết cốt thịt da
Họ đã giúp đỡ cho ta rất nhiều
Ân cần, nhắc nhở mọi điều
Lại còn đùm bọc, thương yêu hết mình
Bây giờ đáp tạ ân tình
Ta nên thiết lễ nguyện kinh cho người
Thành tâm Tăng chúng thỉnh mời
Vật thực trai soạn tỏ lời cúng dâng
Các ngài thọ nhận phước phần
Tụng kinh hồi hướng xa gần hữu duyên
Oai đức Tăng Bảo siêu nhiên
Hương linh các cõi, các miền hỷ hoan
Đại bi, đức Phật Bảo ban
Kết quả như ý đến hàng hương linh
Chớ nên cỗ tiệc linh đình
Cũng đừng than khóc, luỵ mình không nên
Muộn sầu, thương tiếc, ưu phiền
Thảy đều vô ích, trí hiền cười ta
Uy đức, uy lực Tăng-già
Chư linh hưởng phước, lìa xa khổ nàn
Đây là chân thật, lời vàng
Thiện nam, tín nữ hai hàng nhớ ghi!
MƯỜI HAI HƯ
Một hư, nghĩ đến mình nhiều
Hai hư, công việc bỏ liều bốn bên
Ba hư, châm chọc xỏ xiên
Bốn hư, lấc cấc vô duyên nói cười
Năm hư, phù phiếm chuyện người
Sáu hư, chẳng học, biếng lười thành quen
Bảy hư, hao phí điện đèn
Tám hư, xài ẩu bạc tiền, áo cơm
Chín hư, phản phúc, vô ơn
Mười hư, họp bạn “lơn tơn”(1) đêm ngày
Mười một, rảnh óc, rảnh tay
Mười hai, vọng tưởng phố này, quán kia.
MƯỜI HAI VUI
Một vui, đọc sách xem kinh
Hai vui, không luận chuyện mình, chuyện ta
Ba vui, giản dị, từ hòa
Bốn vui, huynh đệ một nhà kính thương
Năm vui, sạch đẹp sân vườn
Sáu vui, công việc lệ thường trước sau
Bảy vui, học pháp diệu mầu
Tám vui, xa lánh bạn bầu vô duyên
Chín vui, cơm áo cửa thiền
Mười vui, giấc ngủ vô phiền vô lo
Mười một vui, đạo thầy trò
Mười hai, hoa nở, câu thơ, nụ cười.
(CHUNG)