Những bản kinh Phật cổ nhất

12 Tháng Sáu 201807:42(Xem: 7452)
  • Tác giả :

NHỮNG BẢN KINH PHẬT CỔ NHẤT

Như vầy tôi nghe

Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết. Có lẽ ai cũng mong muốn có được may mắn như Ananda, là được trực tiếp nghe Đức Phật giảng dạy. Ngày nay, điều đó là không thể. Tuy vậy, xin được giới thiệu hai bản kinh được xem là thuộc loại cổ nhất với hiểu biết của chúng ta ngày nay, để quý vị hình dung được những bản kinh nguyên sơ nó như thế nào.

Hai bản kinh đó là: Khaggavisāna-sutta, Aṭṭhakavagga. Cả hai bản kinh này đều có mặt trong Suttanipāta thuộc Tiểu Bộ Kinh. Ngài Thích Minh Châu đã dịch với tựa là “Kinh Tập”. (1)

Sau đây, xin giới thiệu vài thông tin về hai bản kinh trên. Phần chú thích nằm ở cuối bài.

blank

Một bản kinh Gandhara có tuổi gần 2000 năm

Khaggavisāna-sutta (Sn 1.3)

Tiếng Anh: Rhinoceros Sutra

Tiếng Việt: Kinh Con Tê Ngưu Một Sừng

Năm 1994, cơ quan British Library Oriental and India Office Collections nhận được một bộ sưu tập 29 bản thảo cổ viết trên gỗ bạch dương (birch bark). Chúng được cất trong một bình đất sét chôn trong lòng đất. Nhóm của giáo sư Richard Salomon (2) tại đại học Washington đã phân tích các ký tự trong bản thảo và xác định: đây là kinh điển Phật giáo viết bằng ngôn ngữ Gandhari (3) Chúng được xác định có niên đại khoảng thế kỷ thứ nhất CN, và được coi là những văn bản Phật giáo cổ xưa nhất còn tồn tại đến ngày nay, thậm chí xưa nhất trong toàn bộ văn bản cổ Ấn Độ còn lưu lại.

Kinh Con Tê Ngưu Một Sừng có mặt trong tập bản thảo Gandhari này.

Aṭṭhakavagga (Sn 4)

Tiếng Anh: The Octet Chapter

Tiếng Việt: Phẩm Tám

Sau đây tôi xin dịch phần Phụ lục 1 trong bản dịch Aṭṭhakavagga của Sư Paññobhāsa.

Một số dấu vết chứng tỏ tính cổ xưa của Aṭṭhakavagga

1. Ngôn ngữ dùng trong Aṭṭhakavagga chứa một số dạng ngữ pháp làm gợi nhớ tới ngôn ngữ Vedic Sanskrit cổ; những dạng này không thấy trong toàn bộ phần kinh điển còn lại.

2. Aṭṭhakavagga được nhắc tới ở vài chỗ khác, chẳng hạn trong Udāna 5.6 (4) thuộc tạng kinh, hay trong Đại Phẩm 5.13 (5) thuộc tạng luật. (6) Cả hai chỗ này đều nhắc tới vị tỳ-kheo trẻ tên Soṇa Kuṭikaṇṇa đã tụng lại Aṭṭhakavagga khi được Đức Phật đề nghị trình bày về pháp. Đoạn Kinh trong Udāna 5.6 còn nêu ra chính xác rằng Aṭṭhakavagga có 16 phần. Như vậy, Aṭṭhakavagga phải có trước hai bản kia.

3. Aṭṭhakavagga là một trong số rất ít phẩm kinh thuộc tạng Pali có bản chú giải cũng thuộc tam tạng, bản chú giải của nó là Mahāniddesa thuộc Tiểu Bộ. (Điều thú vị là dường như mục đích của Mahāniddesa không phải là để bàn chi tiết hơn tính sâu sắc tuyệt diệu của Aṭṭhakavagga, mà nó chỉ làm giảm giá trị của Aṭṭhakavagga hơn là tán dương. Hơn nữa, Mahāniddesa được soạn ra dường như không phải để chú giải một bản kinh cổ danh tiếng, bởi tại thời điểm nó được biên soạn thì nhiều bài kinh được xem là cổ hơn Aṭṭhakavagga mà còn không có chú giải nằm trong tam tạng. Mục đích của Mahāniddesa có lẽ là diễn giải lại một phần không nhỏ giáo thuyết của Theravada thời kỳ đầu (7) hay thậm chí là tiền Theravada (8). Phần giáo thuyết này rõ ràng không tương thích với những giáo thuyết phát triển về sau, nhưng chưa bao giờ chúng quá nổi bật để bị loại bỏ khỏi tam tạng.)

4. Dựa trên dấu vết văn bản thì Aṭṭhakavagga (nhưng không phải là toàn bộ Kinh Tập Sutta-nipāta) vốn phổ biến trong nhiều bộ phái, thậm chí có thể phổ biến trong hầu hết hay toàn bộ các bộ phái Phật giáo, kể cả Đại Chúng Bộ vốn được biết tới như một trong hai bộ phái sinh ra từ lần phân phái đầu tiên. Câu chuyện về vị tỳ-kheo Soṇa Kuṭikaṇṇa tụng đọc cũng có mặt trong tạng luật của Đại Chúng Bộ, cũng như trong tạng luật của nhiều bộ phái khác còn lưu lại trong tạng Hán.

5. Văn bản Aṭṭhakavagga không chứa một đoạn kinh mẫu nào (9), không có một dạng hệ thống hóa giáo thuyết nào cả. Ngoại trừ đoạn mở đầu trong hai kinh Māgandiya Sutta và Sāriputta Sutta thì không có yếu tố thần thông, vốn là một đặc tính của những văn bản hậu kỳ.

6. Những lời dạy trong Aṭṭhakavagga nói tới một tăng đoàn sống không nhà, lời kinh dù giản dị nhưng vẫn rất sâu sắc. Kinh này dường như xuất hiện trong thời kỳ đầu của đạo Phật, khi những vị tăng hầu hết là có thâm niên tu hành và chú trọng thực hành hơn là những đề tài triết lý. Hình ảnh những vị tăng yên vị tại tu viện tiện nghi để cống hiến toàn lực cho việc khảo sát Dhamma theo lối học thuật (10), vốn là hình ảnh quen thuộc từ rất lâu trong lịch sử đạo Phật, hoàn toàn xa lạ với tinh thần của bản kinh này. (hết phần trích dịch – Kan)

Ngoài ra, trong tạng Hán có một bản kinh được xem là tương đương với Aṭṭhakavagga, là kinh Arthapada, số 198 Đại Tạng Taisho. Thầy Thích Nhất Hạnh đã dịch và chú giải với tựa “Kinh Nghĩa Túc”. (11)

Các bản dịch

Khaggavisāna-sutta (Sn 1.3)

Tiếng Anh: Rhinoceros Sutra

http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.1.03.than.html

Tiếng Việt: Kinh Con Tê Ngưu Một Sừng
https://thuvienhoasen.org/p15a1544/chuong-01-pham-ran 

http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-kinh-tieubo1/tb15-kt1.htm

Aṭṭhakavagga (Sn 4)

Tiếng Anh: The Octet Chapter

http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/index.html

Tiếng Việt: Phẩm Tám
https://thuvienhoasen.org/p15a1547/chuong-04-pham-tam 

Bản dịch “Kinh Tập” của Ngài Thích Minh Châu, có lẽ vì muốn giữ được văn phong thi kệ của nguyên bản nên bản dịch trở nên tối nghĩa và nhiều chỗ rất khó hiểu. Hy vọng rằng trong tương lai Sư Pali Việt sẽ công bố bản dịch tập Suttanipāta này.

Chú thích

(1) Xem phần giới thiệu về Kinh Tập của Ngài Minh Châu tại đây:
https://thuvienhoasen.org/p15a1269/kinh-tieu-bo-tap-i-khuddhaka-nikaya 
http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-kinh-tieubo1/tb15-kt0.htm

(2) Sư Pali Việt từng học với giáo sư Richard Salomon tại đại học Washington.

(3) Ngôn ngữ thuộc vùng Gandhara vốn là một trung tâm Phật giáo lớn 2000 năm trước, nay thuộc Pakistan.

(4) Ud 5.6: …Tôn giả Sona vâng đáp Thế Tôn, đọc thuộc lòng mười sáu phần của phẩm tám một cách đầy đủ…
https://thuvienhoasen.org/p15a1547/chuong-04-pham-tam 

http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-kinh-tieubo1/tb13-ptt2.htm#chuong5

(5) Xem Đại Phẩm II, Chương V – Da thú, TTPV 04, trang 511, #115 (tiếng Việt).

“… Rồi đại đức Soṇa nghe theo đức Thế Tôn đã thuyết lại theo trí nhớ đầy đủ toàn bộ phẩm Nhóm Tám (Aṭṭhakavaggikāni) …” http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-luat-daipham/dp-05.htm
https://thuvienhoasen.org/p15a1546/chuong-03-dai-pham 

(6) SN 22.3 cũng có nhắc tới bản kinh này:…Thế Tôn đã nói trong Phẩm Tám (Aṭṭhakavagga), trong tập: “Các câu hỏi của Màgandiya” như sau…

http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-kinh-tuongungbo/tu3-22a.htm

(7) proto-Theravada

(8) pre-Theravada

(9) Đoạn kinh mẫu là những đoạn được lập lại nhiều lần trong một bài kinh, hay trong nhiều bài kinh khác nhau.

(10) Có thể tác giả hàm ý nói tới các học giả Abhidharma.

(11) Thầy Thích Nhất Hạnh nói bản kinh này được tìm thấy tại Đông Thổ Nhĩ Kỳ là nhầm lẫn. East Turkestan ngày nay là khu tự trị Tân Cương thuộc Trung Quốc.
https://thuvienhoasen.org/a9929/dao-but-nguyen-chat-kinh-nghia-tuc 


Người viết: Kan | https://kienngot.wordpress.com/
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
14 Tháng Tư 2016(Xem: 5698)
Tôi đã nghe nói rằng, có một thời Đức Phật đã sống với những người ở vùng Sumbhan. Lúc bấy giờ, trong vùng Sumbhan nầy, có một tỉnh tên là Sedaka. Ở đó, Đức Phật đã gọi chư tăng, "Nầy các Tỳ Kheo!" "Dạ thưa Đức Thế Tôn," chư tăng đồng trả lời.
02 Tháng Tư 2016(Xem: 6689)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời. Những lời chúng ta nghe kể lại ở đây hay được thuyết pháp từ những người kém trí tuệ và đạo đức cho dù có lập lại chính xác từng lời từng chữ từ kim khẫu của Đức Thế Tôn vẫn không có đủ hấp lực, mãnh lực và công lực sư tử hống để giác ngộ nổi cho người nghe. Tuy nhiên, khi đọc, nghe được những lời vàng ngọc của Đức Thế Tôn dù qua bất cứ một phương tiện nào cũng như là những hạt nhân giác ngộ được cấy vào trong ý thức của chúng ta chờ nhân duyên chín ‘muồi’ để đơm hoa kết quả Phật tánh.
29 Tháng Ba 2016(Xem: 5614)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một. Trong đó có nhiều kinh liên hệ tới sự chết. Nơi đây, bài viết này sẽ dịch hai kinh: Ud 7.10 và SN 44.9. Cả hai kinh đều dẫn tới nhiều suy nghĩ cho người học Phật.
02 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 6778)
Có một số kinh được Đức Phật đưa ra và gọi đó là giáo pháp ngắn gọn, để dạy một số chư tăng khi quý ngài bạch rằng tuổi đã cao, bây giờ cần một lời dạy giáo pháp ngắn gọn để lui về một góc rừng tu hành khẩn cấp.
22 Tháng Mười Một 2015(Xem: 7491)
Trong một số bài trước, chúng ta đã thấy Đức Phật trong vài kinh đã đưa ra một số giáo pháp ngắn gọn, để dạy một số chư tăng khi quý ngài bạch rằng tuổi đã cao, bây giờ cần một lời dạy để lui về một góc rừng u tịch tu hành khẩn cấp.
06 Tháng Mười Một 2015(Xem: 7860)
Đức Phật chỉ đường Giới Định Huệ là để giải thoát khỏi Tham Sân Si, ba độc đã lôi kéo chúng ta nhiều đời. Từ giáo pháp nhà Phật, hiện nay, các nhà khoa học Tây phương đã chọn ra một phần thích nghi để sử dụng cho nhiều trường hợp có lợi cho nhân loại và xã hội – trong đó, chánh niệm, thường dịch là mindfulness, được quan tâm, ưa chuộng nhất.
21 Tháng Mười 2015(Xem: 7795)
Phật Giáo là đạo giải thoát, vượt bờ sinh tử, xa lìa muôn kiếp mê lầm bể khổ. Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si. Và ngài nói, chìa khóa xa lìa phiền não là tam học: giới định huệ. Như thế, cả phiền não và xa lìa phiền não đều là tâm. Ngắn gọn, Phật Giáo là pháp tu tâm.
08 Tháng Mười 2015(Xem: 6492)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền, vừa như một thoại đầu cho hành giả mà cũng vừa là bài kinh hộ niệm cho người bệnh.