Phật Thuyết Đại Ngư Sự Kinh

25 Tháng Sáu 201300:00(Xem: 10026)

PHẬT THUYẾT ĐẠI NGƯ SỰ KINH
Số 216
B.S. Trần Văn Nghĩa dịch Việt văn.
Hán dịch: Tỳ-Kheo Trúc Đàm Vô Lan , đời Đông Tấn (317 - 420).
Phiên âm và Lược dịch: Đại Tạng Kinh Việt Nam (01/10/2008) 
Việt dịch & Chú thích: B.S. Trần Văn Nghĩa (03/07/2012)


Phật giảng Đại Ngư Sự Kinh (1).

Đời Đông Tấn (317 - 420) Nước Thiên Trúc (2) Tam Tạng dịch kinh sư Trúc Đàm Vô Lan (3) dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán

Tôi nghe như vậy, có một thủơ Đức Thế Tôn (4) ở tại Thành Xá Vệ (5), trong tịnh xá Kì-Thọ Cấp-Cô-Độc (6), Lúc đó Đức Thế Tôn kể một câu chuyện cho chư Tỳ Kheo rằng: Thuở xưa có một con sông có rất nhiều cá lớn. Một hôm con cá lớn răn các cá con rằng: Các con đừng rời nơi đây đi những chỗ khác chơi kẻo bị những người ác bắt. Nhưng những cá con không nghe lời dạy của cá lớn, bèn lén đi những chỗ khác chơi. Lúc đó có người ngư phủ lấy mồi, lưới và dây câu để bắt cá, các cá con thấy, bèn về nơi cá lớn, cá lớn thấy các cá con đến bèn hỏi các cá con rằng: các con có rời chỗ này đi chỗ khác chơi không? Các cá con thưa với cá lớn rằng: Chúng con vừa đi chơi từ chỗ nọ về. Cá lớn bèn hỏi các cá con rằng: Các con đi chơi chỗ nọ mà không bị người ta lưới bắt sao? Cá con thưa với cá lớn rằng: Chúng con đến chỗ nọ chơi, nhưng không bị người ta bắt, nhưng xa xa thấy dây câu theo sau chúng con. Cá lớn bèn bảo với các cá con rằng: Các con sẽ bị sát hại, nhất định là như vậy. Các con đã xa xa thấy dây câu theo đến, ngày xưa cha ông chúng ta cũng bị sát hại bởi dây câu đó, các con sẽ bị nó sát hại mà thôi, các con không nghe lời ta nên không phải là con ta. Sau đó các cá con đều bị ngư phủ bắt hết và đem lên bờ. Cá con, cá lớn đều chết như thế. Cũng như vậy có một tỳ kheo đến một làng nọ , thầy mặc áo cà sa cầm bát khất thực , đi quanh khất thực để phúc độ chúng sinh, nhưng lại không giữ thân mình, không giữ khẩu ý, không đủ các thiện căn (7), ý chí không vững. Trong lúc ở làng nọ khất thực, thầy thấy những người nữ đẹp đẽ vô song, sắc như hoa đào, thấy vậy lòng bèn sinh những dục ý, những dục ý đó bốc ra nơi thân, khẩu, ý. Với những dục ý đầy thân, ý, khẩu, thầy đi quanh làng đó khất thực. Khi về đến tịnh xá, bèn sinh ra những ý tưởng nhục dục, tỳ kheo bèn đến gặp tôn đại tỳ kheo. Đem đầu đuôi câu chuyện thưa cùng chư tỳ kheo. Chư tôn đại tỳ kheo bảo các tỳ kheo rằng: Tỳ kheo nghĩ đến những dục ý, đó là không thanh tịnh. Tất cả các tỳ kheo phải xem đó là những ác lộ (8). Chư tôn đại tỳ kheo nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Nhưng vị tỳ kheo này vì thân, khẩu, ý đang đầy dục ý, lại trở lại làng nọ khất thực. Từ xa tỳ kheo thấy những người nữ vô cùng đẹp đẽ, sắc như hoa đào, thấy vậy bèn sinh dục niệm, những dục niệm bốc ra từ thân, khẩu, ý. Vì thân khẩu ý đầy dục niệm thầy bèn thường trở lại làng nọ khất thực. Sau khi về tịnh xá, thầy lại đến nơi chư tôn đại tỳ kheo đem câu chuyện này thưa hết cùng chư tỳ khoe. Chư tôn đại tỳ kheo bảo các tỳ kheo rằng: "Tỳ kheo này hãy đi đi, tỳ kheo không còn là tỳ kheo của chúng ta nữa." Lúc đó Tỳ Kheo này không làm lễ xả giới hoàn tục, bèn mặc thường phục, vui chơi trong những ái dục, từ đó bị ma tỳ kheo thao túng, làm theo những gì Ba Tuân (9) sai bảo, như vậy không thoát khỏi được sinh, lão, bệnh, tử, u sầu khổ não. Còn những tỳ kheo đã được nghe câu chuyện, đó là điều thật khó, thật khổ, thật đáng sợ, sợ bị rơi vào những ác thú (10), không được tái sinh nơi vô thượng. Vì vậy chư tỳ kheo hãy lấy điều này mà học hỏi, những tỳ kheo đã tiêm nhiễm cái xấu của câu chuyện này phải bỏ nó đi ngay, những tỳ kheo không nghe câu chuyện này thì không động lòng ham muốn. Các tỳ kheo phải lấy những trường hợp này mà học hỏi. Chư tỳ kheo sau khi nghe Đức Phật giảng xong hoan hỷ phụng hành.

Đại Ngư Sự Kinh.

____________________________________________________________________________

 

1) 大魚事經Đại Ngư Sự Kinh : Chữ sự ở đây là chữ viết tắt của chữ故事cố sự , có nghĩa là chuyện hay truyện, Anh văn là story, vì vậy tên bài kinh này có thể dịch là " kinh về câu chuyện của con cá lớn "

2) Nước Thiên Trúc天竺 : Trong 山海经 Sơn Hải Kinh, sách được viết vào thời 战国Chiến Quốc (476 TCN - 221 TCN ) đã nói đến nước Thân Độc身毒国 ở vùng Tây Vực, trong Sử Ký史记 (109 TCN - 91 TCN ) của đời nhà Hán cũng nói đến nước Thân Độc. Chữ Thân Độc là chữ phiên âm của chữ Phạn Sindhu, người Hy Lạp phiên âm chữ Sindhu là Indus, từ đó sinh ra chữ Indu . Chư Sindhu có nghĩa là sông lớn, đây là tên của một trong 4 con sông lớn ở vùng Ấn Độ (Indian subcontinent ). Danh từ Thân Độc chủ yếu là chỉ những vương quốc quanh con sông Sindhu , nhất là vương quốc cổ có thủ đô là Vichavapura thời đó. Người Ba Tư (Persian) thì lại gọi Indus là Hindu, có nghĩa người sống ở bên kia bờ sông Indus. Hán văn phiên âm chữ Hindu là天竺, tên này được dùng trong sách后汉书Hậu Hán Thư ( 398 CN - 445 CN ) . Hán văn còn phiên âm chữ Sindhu là Tín Độ信度, Hiền Đậu賢豆, Tân Đầu辛頭 trong những sách cổ khác nhau. Đến đời nhà Đường, thầy玄奘Huyền Trang (602CN - 664CN ) sau khi du học từ India về đã thống nhất phiên âm là印度Ấn Độ.

3) Trúc Đàm Vô Lan 竺曇無蘭 : Tỳ kheo là người nước Thiên Trúc, Đàm Vô Lan là tiếng phiên âm của tên tiếng Phạn là Dharmaraksa. Tên này còn dịch nghĩa là Pháp Chánh法正. Tên có trong những sách Lịch Đại Tam Bảo Ký chương bẩy歷代三寶記七 , Khai Nguyên Lục chương ba開元錄三 và Trinh Nguyên Luc chương năm 貞元錄五. Thầy đến Nam Kinh làm dịch kinh sư có lẽ tư năm 381 đến năm 395, đời Đông Tấn. Thầy dịch rất nhiều kinh từ tiếng Phạn sang Hán văn. Hiện nay còn trong Hán tạng và Việt Tạng là 27 bài ( Kinh số : 22, 42, 58, 62, 71, 86, 106, 116, 139, 143, 148, 216, 393, 494,504, 510, 538, 741, 742, 743, 796, 1327, 1352, 1378a, 1352, 1391 ) .

 Chữ Trúc竺 là họ. Họ này được gắn cho tất cả những ai đến từ nước ThiênTrúc天竺, gòn gọi là Trúc thổ竺土, hay gọi tắt là Trúc竺, nay là nước Ấn Độ. Trước đời Tiền Tần (351 - 394), tất cả những người đi tu theo đạo Phật , đều bỏ họ mình theo họ của thầy, bỏ tên mình lấy một tên gọi là pháp danh do thầy đặt cho. Vì vậy những người tu theo thầy người Thiên Trúc lấy họ Trúc, người tu theo thầy nước Nguyệt Chi lấy họ Chi...Đến đời Tiền Tần, Hòa thượng Đạo An道安 (313-385) là người đầu tiên đề nghị tất cả tỳ kheo lấy họ Thích, chư tắt của chữ Thich Ca Sakya, họ của Đức Phật làm họ. Theo Kinh Tăng Nhất A Hàm chương 21 : Bốn sông lớn đổ vào biển, đâu còn mang tên của những sông đó nữa mà chỉ gọi là biển, cũng như thế, bốn nhóm họ lớn dòng dõi của Sát Lợi, bà la môn, trưởng giả, cư sĩ xuống tóc theo Đức Như Lai, quy ý tam bảo, xuất gia học đạo, đâu còn họ mình nữa, mà tất cả gọi là sa môn đệ tử của Đức Thích Ca....Vì vậy các Tỳ Kheo, tất cả những ai từ bốn họ xuống tóc, lấy long kiên trì xuất gia học đạo, nên bỏ tên họ của mình mà gọi là đệ tử của Đức Thich Ca. ( Tăng Nhất A Hàm Kinh nhị thập nhất viết : Tứ đại hà nhập hải, diệc vô bản danh tự, đãn danh vi hải. thử diệc như thị, hữu tứ tánh, vân hà vi tứ ? Sát lợi, bà la môn, trưởng gia, cư sĩ chủng. Ư Như Lai sở thế trừ tu phát, tam pháp y, xuất gia học đạo, vô phục bản tính, đãn ngôn sa môn Thích Ca đệ tử ( trung lược )Thị cố chư tỳ kheo, chư hữu tứ tánh thế trừ tu pháp, dĩ tín kiến cố xuất gia học đạo giả, bỉ đương diệt bản danh tự, tự xưng Thích Ca đệ tử . 增一阿含經二十一曰 : " 四大河入海, 亦無本名字, 但名為海, 此亦如是. 有四姓, 云何為四? 剎利, 婆羅門, 長者, 居士種。於如來所剃除鬚髮, 三法衣, 出家學道, 無復本性, 但言沙門釋迦弟子.(中略)是故諸比丘,諸有四姓剃除鬚髮, 以信堅固出家學道者, 彼當滅本名字自稱釋迦弟子. )

4) Đức Thế Tôn : Trong bản Hán văn dùng chữ婆伽婆 Bà-Già-Bà hay 薄伽梵Bạc Già Phạn là chữ phiên âm của chữ Phạn bhagavat hay bhagavan, dịch nghĩa là 世尊Thế Tôn. Tiếng Anh dịch là the blessed one hay the world honored one. Đây là một trong 10 danh hiệu của Đức Phật. 9 danh hiệu khác là : 如來Như Lai, tiếng Phạn là tathagata, tiếng Anh là thus come. 應供Ứng cung, Arhat, Worthy of respect. 正遍知Chánh biến tri, Samyak-Sambuddha, correctly Enlightened. 明行足Minh hành túc, Vidya-carana-sampanna, Perfect in Wisdom and Action. 善逝Thiện thệ, Sugata, Well gone. 世間解Thế gian giải, Lokavid, Knower of the Secular World. 無上士Vô thượng sĩ, Anuttara, Unsurpassed. 調御大夫Điều ngự đại phu, purusadamya-saratha, the Tamer. 天人師Thiên nhân sư, Sastadevamanusyanam, Teacher of gods and men.

5) Thành Xá Vệ : Là chữ phiên âm của chữ Phạn Sravasti hay Savatthi, chữ này thường được phiên âm là Nước Xã Vệ, thành Xã Vệ 舍衛hay室羅伐Nước Thất La Phạt, một thành phố ở phía bắc Ấn Độ, nằm trên bờ sông Rapti. Trong thời Đức Phật, thành phố này là thủ đô của vương quốc Kosala vì vậy một đôi khi nó được gọi là nước Xá Vệ hay nước Thất La Phạt để thay thế cho chữ nước Kosala. Trong thời Đức Phật, vua của nước này là vua Pasenadi, một đệ tử của Đức Phật. Savatthi là một trong tám thánh địa của đạo Phật. Ở đây có hai tịnh xá nổi tiếng của Đức Phật : Jetavana do Anathapindika trưởng lão xây tăng và Pubbarama do bà cư sĩ Visakha xây tặng. Đức Phật đã ở lại thành phố này trên 19 năm, giảng 871 bài kinh tại thành phố nay. 844 bài tại Jetavana, 23 bài tại Pubbarama, 4 bài tại ngoại thành Savatthi.

6) Tịnh xá Kì-Thọ Cấp-Cô-Độc: Kì-Thọ Cấp-Cô-Độc viên 祇樹給孤獨園tên tiếng Phạn là Jetavana. Ở thành Xá Vệ có người phú thương tên là Anathapindika nghĩa chữ Phạn là người cung cấp, giúp đỡ cho những người nghèo khó cô độc vì vậy Hán văn đã dịch là Cấp Cô Độc trưởng lão. Tên thật của ông tên là Sudatta. Ông mời Đức Phật đến thành Xá Vệ, nguyện giúp Ngài xây một trụ sở. Ông đi tìm mua một khu vườn ở phía nam của thành Xã Vệ. Khu vườn này của hoàng tử Jetakumara. Hoàng tử đòi bán với giá tấc đất tấc vàng, chỉ bán đất không bán cây trong vườn. Anathapindika đã mua khu vườn này, xây lên một phần của tịnh xá. Hoàng tử Jetakumara, con trai của vua Pasenadi, quyên tặng cho Đức Phật những cây trong vườn và lấy tiền bán đất xây thêm một phần khác của tịnh xá. Sau Vua Pasenadi bỏ tiền xây phần còn lại của tịnh xá. Đức Phật đã lấy hai vần đầu của tên hoàng tử Jetakumara và hai vần đầu của tên Anathapindika ghép lại thành Jetavana làm tên của tịnh xá . Theo truyền thuyết của đạo Phật đại thừa, thi sau khi tịnh xá hoàn tất, để nhớ ơn ba vị ân nhân này, đức Phật đã để tên ba vị trong giảng đường, tên vua Pasedani ở giữa , tên hoàng tử Jetakumara và Anathapindika ở hai bên, và sau này Ngài cũng cho để thêm tên cuả 16 người khác trong giảng đường, có sách nói là 18 người khác. 16 người này là những ân nhân khác và những người giúp việc trong tịnh xá, các thủ từ đã mất như người làm vườn, quét nhà..., 19 người này sau này được gọi là thần già lam 伽藍神của nhà Phật. Chữ già lam là chữ phiên âm của chữ Phạn asram, chữ asram có lẽ là chữ viết tắt chủa chữ asrama , Hán văn dịch là già lam ma có nghĩa là tu viên. Thần Già Lam nghĩa là thần trông coi tu viện. Vườn Jetavana : Hán văn dịch là Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên, còn goi tắt là Kỳ Viên, Kỳ Thụ Viên, Cấp Cô Độc Viên trong các kinh điển khác nhau. Có một vài kinh điển còn phiên âm chữ Jeta- Anathapindika asram là kì hoàn A-nan bân chì a lam. Đức Phật đã ở lại trong vườn này 19 năm, diễn giảng hơn 844 bài kinh . Vườn này đã cực thịnh ở thời hoàng triều của Á Dục Vương ( Ashoka) . Sau khi hoàng triều Á Dục Vương sụp đổ, Đạo Ấn Độ đã tàn phá vườn này phần nào. Nhà sư Thích Pháp Hiển ( Fa Hien) đến thăm vườn này vào thế kỷ thứ VI ghi lại là trong tịnh xá này vẫn còn một số sư cư ngụ. Vào thế kỷ thứ VIII, khi thầy Thích Huyền Trang ( Hsuan Chwang, Đường Tam Tạng) ghé thăm thì vườn này là một hoang địa. Đến thế kỷ thứ XI khi Hồi Giáo truyền vào Trung Á ( Central Asia ) và bắc Ấn Độ. Tất cả những di tích của đạo Phật đã bị hoàn toàn phá hủy ở những nước Hồi Quốc, A Phú Hãn, Bắc Ấn Độ, Tân Cương, Iran...Vườn này đã thành bình địa. Đến 1863 đoàn khảo cổ của tướng Alexander Cunningham của quân đội Anh đã khai quật và tìm ra di tích của vườn Jetavana. Vườn này nay là một trọng điểm hành hương của Phật tử thế giới.

7) 諸根 Các căn: Tiếng Phạn là indriya, Anh văn dịch là root, đó là những căn ( faculty) giúp chúng ta tăng trưởng. Trong đạo Phật có 22 loại căn được chia làm nhiều nhóm : Lục cảm giác căn (organ of sens), tam nam, nữ và tính mang căn, ngũ cảm thọ căn (sensation, feeling), ngũ thiện căn (wholesome roots), tam vô lậu căn (the three uncontaminated faculties). Trong bài kinh này các căn có lẽ chỉ ngũ thiện căn.

 7-1 ) Lục cảm giác căn, ngũ căn : Theo瑜伽論Du Già Luân ngũ căn gồm có : 眼根Nhãn căn, 耳根nhĩ căn, 鼻根tị căn, 舌根thiệt căn, 身根thân căn. Nếu thêm 意根ý căn vào thì gọi là六根 lục căn.

 Nhãn căn 眼根 : Đây là một trong 6 căn. tiếng Phạn là Caksu Indriya. Chữ căn có nghĩa là cái rễ, nó cũng có nghĩa là căn cứ địa, nơi tiếp nhận vì vậy Anh văn còn dịch là physical base. Mỗi căn lại gồm có hai phần : Phù trần căn 扶塵根và thắng nghĩa căn 勝義根. Trong nhãn căn, phù trần căn là cái mắt, cái nhãn cầu (eye ball). thẵng nghĩa căn là thị giác ( eye sight). Một người mù có phù trần căn nhưng không có thắng nghĩa căn. Những gì ta nhìn thấy gọi là sắc trần色塵. Những hình ảnh mà chúng ta nhìn thấy qua nhãn căn sẽ đi vào óc tạo thành nhãn thức色識. Chúng ta có 6 căn六根, còn gọi là nội lục xứ內六處, đó là : Nhãn căn, nhĩ căn , tỉ căn, thiệt căn, thân căn, ý căn để tiếp nhận lục trần六塵 từ hoàn cảnh chung quanh đến đó là : Sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần, pháp trần. Lục trần này còn gọi là lục nhập六入, lục cảnh六境, hay ngoại luc xứ外六處 trong những kinh điển khác nhau. Lục trần vào trong óc sẽ tạo ra lục thức六識đó là : Nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.

Ở đây phải nói thếm về ý căn意根, tiếng Phạn gọi là Hrd hay Hrdaya, nghĩa là trái tim bằng thịt, vì vậy Hán văn đã dịch nghĩa là Nhục đoàn tâm肉團心, hay phiên âm là hãn-tê-thái 汗栗太, đây là một sự hiểu lầm của người xưa cho là trái tim là nơi tiếp nhận những ý tưởng từ bên ngoài vào hay từ trong sinh ra, nay chúng ta biết nơi tiếp nhận những ý tưởng đó là khối óc chứ không phải là trái tim, vì vậy mặc dù trong các kinh gọi là tim, chung ta phải hiểu là khối óc.

7-2) Tam nam, nữ và tính mạng căn : a) 男根Nam căn : Bô phận sinh dục của phái nam, tiếng Phạn là purusendriya. b) 女根Nữ căn : Bô phận sinh dục của phái nữ, tiếng Phạn là stri. c) 命根Mệnh căn : Tính mạng của con người, tiếng Phạn là jiva, Anh văn dịch là life.

7-3) Ngũ cảm thọ căn : (1) Hỷ, (2) khổ, (3) Lạc, (4) Ưu, (5) Xả.

7-3A) 喜 Hỷ : Tiếng Phạn là priti, ananda, Anh văn dich là enjoyment, satisfaction. Nó rất gần với chữ樂lạc nhưng chữ hỷ thường chỉ cái vui do tinh thân sinh ra, còn lạc là cái vui do thể xác sinh ra.

7-3B) 苦khổ : Tiếng Phạn là duhkha, Anh văn là suffering, sorrow. Khổ trong đạo Phật được chia làm nhiều nhóm : Nhị khổ, tam khổ, tứ khổ, ngũ khổ, bát khổ và tập khổ.

a) 二苦Nhị khổ : Theo 四分律 Tư Phân Luật, 瑜伽論Du Già Luân, 成唯識論Thành Duy Thức Luân thì nhị khổ căn gồm có : 內苦Nội khổ và 外苦ngoại khổ.

b) 三苦Tam khổ : Theo 倶舍論Câu Xá Luận tam khổ gồm có : (1) 苦苦Khổ khổ : tiếng Phạn là duhkha duhkha, Anh văn là ordinary suffering, cái đau khổ do tiếp xúc vơi những vật gây đau khổ, như bị đánh. (2) 行苦Hành khổ, samskara-duhkha, suffering produced by impermanence, cái khổ gây ra do sự thay đổi của mọi vật. (3) 壞苦Hoại khổ, viparinama duhkhata, the suffering of decay, cái khổ gây ra do sự hư hoại của vạn vật.

c) 四苦Tứ khổ : Theo成唯識論Thành Duy Thức Luân tứ khổ gồm có : (1) Sinh khổ, tiếng Phạn là jati-duhkha. (2) lão khổ, tiếng Phạn là jara-duhkha. (3) Bệnh khổ, tiếng Phạn là vyadhi-duhkha. (4) Tử khổ, tiếng Phạn là marana-duhkha.

d) 五苦Ngũ khổ : (1) Sinh lão Bệnh Tử khổ. (2) 愛別離苦Ái biệt ly khổ: Người thương nhau phải chia tay. (3) 怨憎會苦Oán tăng hội khổ : Ngươi oán ghét nhau phải gặp nhau. (4) 求不得苦Cầu bất đắc khổ : Cái khổ của cái mình mong muốn mà không được . (5) 盛陰苦Thịnh âm khổ hay còn gọi là âm thịnh khổ : Cái khổ của những đòi hỏi về thể xác của con người đang đầy sức sống.

Có sách lại nói ngũ khổ là : (1) Sinh, (2)lão, (3) Bệnh, (4)Tử, (5) gông cùm (shackle). Đây là ngũ khổ cho những người bị tù tội hay bị áp bức.

Sách khác lại nói ngũ khổ là : (1) Địa ngục, (2) ma đói , (3)Súc vật (4) A-tu-la, (5) Nhân đạo.

e) 八苦Bát khổ : Theo kinh涅槃經十二Niết Bàn chương 12 bát khổ là : (1) Sinh khổ. (2) lão khổ. (3) Bệnh khổ. (4) Tử khổ. (5) Ái biệt ly khổ. (6) Oán tăng hội khổ. (7) Cầu bất đắc khổ. (8)Thịnh âm khổ

 f) 十苦Thập khổ : 菩薩藏經Theo Bồ Tát Tạng Kinh thì thập khổ là : 1) Sinh khổ. (2) lão khổ. (3) Bệnh khổ. (4) Tử khổ. (5) 愁苦Sầu khổ (6) 怨苦Oán khổ (7) 苦受Khổ thọ : Đau khổ do nghịch cảnh gây ra (8) 憂苦 Ưu khổ (9) 病惱苦Bệnh não khổ (10) 流轉大苦Lưu chuyển đại khổ.

7-3C) 樂 Lạc : Chữ lạc này là chữ tắt của chữ khoái lạc. tiếng Phạn là sukha, Anh văn là happiness.

7-3D) 憂 Ưu : lo âu, tiếng Phạn là daurmanasya, Anh văn dịch là anxiety.

7-3E) 捨Xả : Xả là chư viết tắt của chữ捨棄xả khí, có nghĩa là buôn thả (let go) , bỏ đi. Tiếng Phạn là upeksa, Anh văn dịch là detachement.

7-4) Ngũ thiên căn gồm có : (1) 信根Tín căn, (2) 進根tiến căn, (3) 念根 niệm căn, (4) 定根định căn, (5) 慧根 tuệ căn.

7-4A) Tín căn : tiếng Phạn là sraddha, tiếng Anh là faith. Nó lại được chia làm hai nhóm : Tam tín và thập tín.

a) Tam tín : Theo瑜伽論Du Già Luân Yogacara thì có ba loại tín : a) 信忍 Tín nhẫn, faith endurance, b) 信樂tín lạc, joy of faith, c) 善法欲thiện pháp dục : Vì tin nên lòng ao ước đi tìm chánh pháp, tiếng Phạn là kusala dharma cchanda, Anh văn dịch là craving for the right dharma. Trong kinh Pháp Hoa thì lại nói thêm một loại tín gọi là信解tín giải, Anh văn dịch là having both correct faith and complete understanding in the Buddhist teaching.

b) Thập tín : Đây là 10 bước đầu trong 52 bước để tu hành bồ tát đạo. Đó là : 1) 信心 Tín tâm, 2) 念心niệm tâm 3) 精進心tinh tiến tâm. 4) 定心 Định tâm 5) 慧心Tuệ tâm 6) 戒心Giới tâm 7) 廻向心Hồi hướng tâm 8) 護法心Hộ pháp tâm, 9) 捨心 Xả tâm 10) 願心Nguyện tâm.

7-4B) 進根tiến căn : Đó là lòng hăng hái, chuyên cần trên con đường tu tập chánh pháp, diệt bỏ những điều xấu. Tiếng Phạn là virya, Anh văn dịch là zeal, excertion, diligence. Theo瑜伽論Du Già Luân Yogacara thì có 5 loại tinh tiến : 1) 被甲精進Bị giáp tinh tiến, excertion of donning armor 2) 加行精進Gia hành tinh tiến, exertion of application 3) 不下精進Bất hạ tinh tiến, undaunted excertion 4) 無動精進Vô động tinh tiến, immovable exertion 5) 無喜足精進 Vô hỷ túc tinh tiến, unsatisfied exertion.

7-4C) 念根 niệm căn : Tiếng Phạn là smrtindriya, tiếng Anh văn dịch là faculty of mindfulness, đó là lòng suy ngẫm về chánh niệm.

7-4E) 定根định căn : Tiếng Phạn là samadhindriya, Anh văn dịch là meditative concentration practices, căn giúp người tu tập thiền định để sinh ra những giác ngộ và công đức.

7-4F) 慧根 tuệ căn : Tiếng Phạn là prajna , Anh văn dịch là wisdom, trí tuệ.

7-5) 三無漏根Tam vô lậu căn : Tiếng Phạn là ajnasyamindriya, Anh văn dịch là three uncontaminated faculties, gồm có :

7-5A) 未知當知根Vị tri đưng tri căn : Anh văn dịch là faculty of the power for learning the Four Noble Truths, Căn giúp người tu hành hiểu những điều cần hiểu về Tứ Diệu Đế mà họ chưa biết.

7-5B) 已知根Dĩ tri căn: Tiếng Phạn là ajnatavindriya hay ajnendriya, Anh văn dịch là faculty of the power of having learned the Four Noble Truths, Căn giúp người tu hành hiểu biết 9 căn là ý, lạc, hỷ, xả, tin cần, niệm, định, tuệ là do thực hành Tứ Diều Đế mà ra. One who already knows the indriya or roots that arise from the practical stage associated with the Four Dogmas, i.e. purpose, joy, pleasure, renunciation, faith, zealo, memory, abstract meditation, wisdom.

7-5C) 具知根Cụ tri căn : Anh văn dịch là faculty of the power of perfect knowledge of the Four Noble Truths. Căn giúp người tu hành biết sâu rộng hơn về Tứ Diệu Đế.

8) 惡露ác lộ : Tiếng Pali là asubha, Anh văn dịch là foul discharges. Đó là những chât nhơ bẩn từ thân thể con người thoát ra như : máu mủ, đại tiểu tiên...Nhưng cũng chỉ những điều xấu ( evil ) của con người. Ác lộ là chữ phản nghĩa (antonym) của chữ cam lộ.

9) 波旬Ba Tuân : Ba tuân là tên của đương kim ma vương, tên tiếng Phạn là Mara-Papiyan. Ma là chữ viết tắt của chữ 魔羅ma-la, chữ phiên âm của chữ Phạn mara. Anh văn dịch là demon. Trước khi đạo Phật truyền vào Trung Hoa, nước này không có chữ 魔ma chỉ có chữ 鬼quỷ. Chữ quỷ có rất sớm trong chữ Hán. Trong đời商朝nhà Thương (1700 TCN - 1100 TCN) đã có chữ 鬼quỷ. Nếu ta đem chữ quỷ tách ra thành bốn phần 丿,田,儿,厶 để tìm hiểu từng phần của chữ. cái丿phết này tượng trương cho mái tóc của con quỷ, Chữ田điền tượng trương cho cái mặt của con quỷ có bốn cái lỗ to, Phần儿này la chữ 人nhân biến thể, phần 厶này nếu ta bẻ thẳng hai cạnh lên, ta sẽ có một hình 凵, hình của một cái bát. Nếu gom cả 4 phần lại có nghĩa là một người có cái mặt to, mặt có 4 lỗ lớn, đây là cái sọ người, mang một cái bát xin ăn, đó là con quỷ đói. Anh văn dịch là hungry ghost.

Khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, chữ mara trong tiềng Phạn, không có nghĩa là linh hôn của một người chết (ghost) , vì vậy không dùng chữ 鬼quỷ để dịch nghĩa được. Trong Hán văn không có chữ nào có phát âm là ma mà có nghĩa là ma quái cả, những người dịch kinh thời đó bèn dùng chữ 磨 ma này để phiên âm, chữ 磨 ma này có nghĩa là mài hay là xay, như chữ thạch ma石磨 là cái cối xay. Đến đời梁武帝Lương Vũ Đế ( 502 - 549 ), có nhà dịch kinh sư lấy bộ phát âm 麻ma kết hợp với chữ 鬼quỷ, tạo ra một chữ mới có phát âm 魔ma và có nghĩa là ma quỷ.

Ma là những tà thần, tà lực, tà tính, tà kiến, tà dục... ngăn cản chúng ta tu tập, thọ trì đạo pháp, nó quyến rũ chúng ta đi vào những con đường xấu để hại chúng ta.

Các loại ma trong đạo Phật, tùy theo kinh, có thể có nhóm 四魔tứ ma, 五魔ngũ ma, 八魔bát ma và十魔 thập ma. Các ma này lại được chia làm hai nhóm : 外魔Ngoại ma và 内魔nôi ma.

9-1 ) Ngoại ma : chỉ có một nhóm đó là 天魔Thiên Ma, chữ viết tắt của天子魔 thiên tử ma nghĩa là ma vương, tiếng Phạn là Deva putra mara, Anh văn dịch là demon king, đó là những ma vương và những ma chúng ngụ tại cõi trời thứ sáu của thiên đạo của dục giới, cõi trời 他化自在天Tha hóa tự tại thiên, Paranirmita-vasa-vartin. Trong cõi trời này có những nhóm ma như Mahesvara và nhóm mara. Ma vương trong cõi trời này cũng thay đôi tùy thời của các Phât. Trong thời Đức Phật Ca Diệp thì ma vương tên là頭師 Đầu Sư, trong thời Đức Phật Thich Ca, thì ma vương là 波旬Ba Tuân Mara-Papiyan. Thiên ma có lẽ tương đương với quỷ Satan của các tôn giáo tây phương.

Theo truyền thuyết thì chính Mara Papiyan đã đem ma quân đến vây đánh Đức Phật để quấy phá ngài, ngăn chặn ngài giác ngộ. Khi cuộc tấn công không thành, Ma Vương lại sai cô con gái đẹp nhất đến quyến rũ ngài, cô gái đến trước ngài và biến thãnh một bà già xấu xí. Ma Vương hoàn toàn thất bại và bỏ đi.

9-2 ) Nội ma : Đây là những tà tính, tà kiến... trong lòng con người, ngăn cản con người tu tập.

9-3) Tứ ma gồm có : a) 煩惱魔Phiền não ma, klesa-mara, do tham, sân, si gây ra. b) 蘊魔uẩn ma, skandha-mara, còn gọi là阴魔 âm ma, do ngũ uẩn : sắc, thọ, tưởng, hành, thức uẩn gây ra. c) 死魔tử ma, mrtya-mara, gây sự chêt chóc, demon of death, death angel ? . d) 天魔Thiên Ma.

9-4) Ngũ ma : Đó là ngũ âm ma hay ngũ uẩn ma, do ngũ uẩn : sắc, thọ, tưởng, hành, thức uẩn gây ra.

9-5) Bát ma : a) Phiền não ma, b) Âm ma, c) Tử ma, d) Thiên Ma, e) 無常魔Vô thường ma, f) 無樂魔Vô lạc ma, g) 無我魔Vô ngã ma, h) 無淨魔Vô tịnh ma.

9-6) Thập ma : a) Phiền não ma, b) Âm ma c) Tử ma, d) Thiên Ma, e) 業魔nghiệp ma, do thân, ý, khẩu nghiệp gây ra, f) 心魔 tâm ma do我慢ngã mạn, lòng kiêu ngạo gây ra, g) 善根魔thiện căn ma, tự tin minh có nhiều thiện căn, đã làm nhiều việc thiện nên không tinh tiến tu tập, h) 三昧魔tam muội ma, đó là khi thiền định thấy những hình ảnh, ý xấu ngăn cản sư thiền định, i) 善知識魔Thiện tri thức ma, đó là tính giấu giếm những điều hay mình hiểu biết, không chia sẻ với người khác, j ) 菩提法智魔Bồ đề pháp tri ma, đó là lòng nghi ngờ những bồ đề đạo pháp.

Còn nhiều loại ma khác như không ma 空魔 : đó là long không tin là có nghiệp báo nên không sợ làm những điều ác. 欲魔dục ma, đó là lòng vì ham muốn những tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, thực dục ăn uống, thụy dục ( ngủ nghỉ) ... mà làm những điều xấu để đạt được gây ra.

10 ) 惡趣Ác thú : Chữ 趣thú theo Câu Xá Luận thế gian phẩm có nghĩa là hướng đi đến, nơi đi đến. ( Câu xá Luận thế gian phẩm viết : Thú vị sở vãng俱舍論世間品曰 : 趣謂所往 ). Ác thú là hướng đi đến, nơi đi đến của những điều ác, Anh văn dịch là the evil direction, or evil realms. Tiếng Phạn là apaya. Ác thú còn gọi là惡道ác đạo, 惡處ác xứ trong những kinh điển khác nhau. Các loại ác thú :

10-1) 三惡趣Tam ác thú : Hay tam ác đạo, tiếng Phạn là try apaya , đó là : Đại ngục, ma đói và súc vật.

10-2) 四惡趣Thứ ác thú : Hay tứ ác đạo, đó là : Đại ngục, ma đói, súc vật và a-tu-la (asuras).

 ______________________________________________________________________________

TUỆ QUANG 慧光 FOUNDATION http://www.daitangvietnam.com

Nguyên Tánh Trần Tiễn Khanh & Nguyên Hiển Trần Tiễn Huyến

Phiên Âm Wed Oct 1 17:48:16 2008

============================================================

 【經文資訊】大正新脩大藏經 第四冊 No. 216《大魚事經》

【Kinh văn tư tấn 】Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh đệ tứ sách No. 216《đại ngư sự Kinh 》

【版本記錄】CBETA 電子佛典 V1.8 (UTF-8) 普及版,完成日期:2007/12/09

【bản bổn kí lục 】CBETA điện tử Phật Điển V1.8 (UTF-8) phổ cập bản ,hoàn thành nhật kỳ :2007/12/09

【編輯說明】本資料庫由中華電子佛典協會(CBETA)依大正新脩大藏經所編輯

【biên tập thuyết minh 】bổn tư liệu khố do Trung Hoa điện tử Phật Điển hiệp hội (CBETA)y Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh sở biên tập

【原始資料】蕭鎮國大德提供,維習安大德提供之高麗藏 CD 經文,北美某大德提供,CBETA 提供新式標點

【nguyên thủy tư liệu 】Tiêu-Trấn-Quốc Đại Đức Đề cung ,Duy-Tập-An Đại Đức Đề cung chi cao lệ tạng CD Kinh văn ,Bắc-Mỹ-Mỗ Đại Đức Đề cung ,CBETA Đề cung tân thức tiêu điểm 

【其它事項】本資料庫可自由免費流通,詳細內容請參閱【中華電子佛典協會版權宣告】(http://www.cbeta.org/copyright.htm)

【kỳ tha sự hạng 】bổn tư liệu khố khả tự do miễn phí lưu thông ,tường tế nội dung thỉnh tham duyệt 【Trung Hoa điện tử Phật Điển hiệp hội bản quyền tuyên cáo 】(http://www.cbeta.org/copyright.htm)

=========================================================================

=========================================================================

# Taisho Tripitaka Vol. 4, No. 216 大魚事經

# Taisho Tripitaka Vol. 4, No. 216 đại ngư sự Kinh 

# CBETA Chinese Electronic Tripitaka V1.8 (UTF-8) Normalized Version, Release Date: 2007/12/09

# CBETA Chinese Electronic Tripitaka V1.8 (UTF-8) Normalized Version, Release Date: 2007/12/09

# Distributor: Chinese Buddhist Electronic Text Association (CBETA)

# Distributor: Chinese Buddhist Electronic Text Association (CBETA)

# Source material obtained from: Text as provided by Mr. Hsiao Chen-Kuo, Tripitaka Koreana as provided by Mr. Christian Wittern, Text as provided by Anonymous, USA, Punctuated text as provided by CBETA

# Source material obtained from: Text as provided by Mr. Hsiao Chen-Kuo, Tripitaka Koreana as provided by Mr. Christian Wittern, Text as provided by Anonymous, USA, Punctuated text as provided by CBETA

# Distributed free of charge. For details please read at http://www.cbeta.org/copyright_e.htm

# Distributed free of charge. For details please read at http://www.cbeta.org/copyright_e.htm

No. 216佛說大魚事經

No. 216 Phật thuyết đại ngư sự Kinh 

No. 216 Phật giảng Đại Ngư Sự Kinh (1).

 東晉天竺三藏竺曇無蘭譯

Đông Tấn Thiên-Trúc Tam Tạng Trúc Đàm Vô Lan dịch 

Đời Đông Tấn (317 - 420) Nước Thiên Trúc (2) Tam Tạng dịch kinh sư Trúc Đàm Vô Lan (3) dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán

 聞如是: 一時婆伽婆在舍衛城,

Văn như thị : nhất thời Bà-Già-Bà tại Xá-vệ thành ,

Tôi nghe như vậy, có một thủơ Đúc Thế Tôn (4) ở tại Thành Xá Vệ (5),

 祇樹給孤獨園。 爾時世尊,告諸比丘:「往昔時,有一水,

Kì-Thọ Cấp-Cô-Độc viên 。 nhĩ thời Thế Tôn ,cáo chư Tỳ-kheo :「vãng tích thời ,hữu nhất thủy ,

 trong tịnh xá Kì-Thọ Cấp-Cô-Độc (6), Lúc đó Đức Thế Tôn kể một câu chuyện cho chư Tỳ Kheo rằng : Thủơ xưa có một con sông

饒諸大魚。

nhiêu chư đại ngư 。

có rất nhiều cá lớn

「爾時大魚勅小魚曰:『汝等莫離此間往他處所,備為惡人所得。』 「爾時小魚,「

nhĩ thời đại ngư sắc tiểu ngư viết :『nhữ đẳng mạc ly thử gian vãng tha xứ sở ,bị vi/vì/vị ác nhân sở đắc 。』 「nhĩ thời tiểu ngư ,

một hôm con cá lớn răn các cá con rằng : Các con đừng rời nơi đây đi những chỗ khác kẻo bị những người ác bắt. Nhưng những cá con

不從大魚教,便往至他處所。 「爾時魚師,

bất tùng đại ngư giáo ,tiện vãng chí tha xứ sở 。 「nhĩ thời ngư sư ,

không nghe lời dạy của cá lớn, bèn lén đi những chỗ khác chơi. Lúc đó có người ngư phủ

 以飯網羅線捕諸魚,諸小魚見,便趣大魚處所。

dĩ phạn võng La tuyến bộ chư ngư ,chư tiểu ngư kiến ,tiện thú đại ngư xứ sở 。

lấy mồi, lưới và dây câu để bắt cá, các cá con thấy , bèn về nơi cá lớn

「爾時大魚見小魚來, 「

nhĩ thời đại ngư kiến tiểu ngư lai ,

cá lớn thấy các cá con đến

 便問小魚曰:『汝等莫離此間往至他所。

tiện vấn tiểu ngư viết :『nhữ đẳng mạc ly thử gian vãng chí tha sở 。

bèn hỏi các cá con rằng : các con có rời chỗ này đi chỗ khác chơi không ?

 』爾時小魚便答大魚曰:『我等向者以至他所來。 』

nhĩ thời tiểu ngư tiện đáp đại ngư viết :『ngã đẳng hướng giả dĩ chí tha sở lai 。

Các cá con thưa với cá lớn rằng : Chúng con vừa đi chơi từ chỗ nọ về

 』 「大魚便勅小魚曰:『汝等至他所, 』 

「đại ngư tiện sắc tiểu ngư viết :『nhữ đẳng chí tha sở ,

Cá lớn bèn hỏi các cá con rằng : Các con đi chơi chỗ nọ

 不為羅網取捕耶?』 「小魚答大魚曰:『我等至彼,不為人所捕,然遙見長線尋我後。

bất vi/vì/vị la võng thủ bộ da ?』 「tiểu ngư đáp đại ngư viết :『ngã đẳng chí bỉ ,bất vi/vì/vị nhân sở bộ ,nhiên dao kiến trường/trưởng tuyến tầm ngã hậu 。

mà không bị người ta lưới bắt sao ? Cá con thưa với cá lớn rằng : Chúng con đến chỗ nọ chơi, nhưng không bị người ta bắt, nhưng xa xa thấy dây câu theo sau chúng con.

 』 「大魚便語小魚曰:『汝等以為所害,所以然者, 』 

「đại ngư tiện ngữ tiểu ngư viết :『nhữ đẳng dĩ vi/vì/vị sở hại ,sở dĩ nhiên giả ,

Cá lớn bèn bảo với các cá con rằng : Các con sẽ bị sát hại, nhất định là như vậy

 汝所遙見線尋後來者,昔先祖父母,

汝所遙見線尋後來者,昔先祖父母,

nhữ sở dao kiến tuyến tầm hậu lai giả ,tích tiên tổ phụ mẫu ,

các con đã xa xa thấy dây câu theo đến, ngày xưa cha ông chúng ta

盡為此線所害,汝今必為所害,汝非我兒。tận vi/vì/vị thử tuyến sở hại ,nhữ kim tất vi/vì/vị sở hại ,nhữ phi ngã nhi 。cũng bị sát hại bởi dây câu đó, các con sẽ bị nó sát hại mà thôi, các con ( không nghe lời ta nên ) không phải là con ta.

』 「爾時小魚,盡為魚師所捕,舉著岸上, 』 

「nhĩ thời tiểu ngư ,tận vi/vì/vị ngư sư sở bộ ,cử trước/trứ ngạn thượng ,

Sau đó các cá con đều bị ngư phủ bắt hết và đem lên bờ

如是小魚、大魚有死者,此亦如是。 「或有一比丘,

như thị tiểu ngư 、đại ngư hữu tử giả ,thử diệc như thị 。 「hoặc hữu nhất Tỳ-kheo ,

cá con, cá lớn đều chết như thế . Cũng như vậy có một tỳ kheo

在他聚落遊行,著衣持鉢,周行乞食,

tại tha tụ lạc du hạnh/hành/hàng ,trước y trì bát ,châu hạnh/hành/hàng khất thực ,

đến một làng nọ , thầy mặc áo cà sa cầm bát khất thực, đi quanh khất thực

福度眾生;不守護身,不守護口意,不具足諸根,意不專一。

phước độ chúng sanh ;bất thủ hộ thân ,bất thủ hộ khẩu ý ,bất cụ túc chư căn ,ý bất chuyên nhất 。

để phúc độ chúng sinh, nhưng lại không giữ thân mình, không giữ khẩu ý, không đủ các (thiện) căn (7), ý chí không chuyên vững

「即於彼村落乞食,時見諸女人端正無雙,

「tức ư bỉ thôn lạc khất thực ,thời kiến chư nữ nhân đoan chánh vô song ,

Trong lúc ở làng nọ khất thực, thầy thấy những người nữ đẹp đẽ vô song,

色猶桃華,見已便起婬心,以此婬心,

sắc do đào hoa ,kiến dĩ tiện khởi dâm tâm ,dĩ thử dâm tâm ,

sắc như hoa đào, thấy vậy long bèn sinh những dục ý, những dục ý đó

身口意熾然。 「彼以身口意熾然,即於村落乞食,

thân khẩu ý sí nhiên 。 「bỉ dĩ thân khẩu ý sí nhiên ,tức ư thôn lạc khất thực ,

bốc ra nơi thân, khẩu, ý. Với những dục ý đầy thân ý khẩu , thầy đi quanh làng đó khất thực

還所止處,故發欲想。 「便往尊比丘所,

hoàn sở chỉ xứ/xử ,cố phát dục tưởng 。 「tiện vãng tôn Tỳ-kheo sở ,

khi về đến tịnh xá, bèn sinh ra những ý tưởng nhục dục, tỳ kheo bèn đến gặp tôn đại tỳ khoe

以此因緣,具向諸比丘說。 「諸尊大比丘,

dĩ thử nhân duyên ,cụ hướng chư Tỳ-kheo thuyết 。 

「 chư tôn Đại Tỳ-kheo ,đem đầu đuôi câu chuyện thưa cùng chư tỳ kheo. Chư tôn đại tỳ kheo

告此比丘言:『汝起婬想,此不為淨。汝比丘!當惡露觀。

cáo thử Tỳ-kheo ngôn :『nhữ khởi dâm tưởng ,thử bất vi/vì/vị tịnh 。nhữ Tỳ-kheo !đương ác lộ quán 。

bảo các tỳ kheo rằng : Tỳ kheo nghĩ đến những dục ý, đó là không thanh tịnh. Tất cả các tỳ kheo phải xem đó là những ác lộ (8)

』「尊大比丘,語復至再三。 「爾時彼比丘, 』

「tôn Đại Tỳ-kheo ,ngữ phục chí tái tam 。 「nhĩ thời bỉ Tỳ-kheo ,

chư tôn đại tỳ kheo nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Nhưng vị tỳ kheo này

身口意熾盛,復至彼村落乞食,

thân khẩu ý sí thịnh ,phục chí bỉ thôn lạc khất thực ,

vì thân khẩu ý đang đầy dục ý, lại trở lại làng nọ khất thực

遙見女人端正無比,色猶桃華,見已便起婬心,以此婬心,

dao kiến nữ nhân đoan chánh vô bỉ ,sắc do đào hoa ,kiến dĩ tiện khởi dâm tâm ,dĩ thử dâm tâm ,

Từ xa tỳ kheo thấy những người nữ vô cùng đẹp đẽ, sắc như hoa đào, thấy vậy bèn sinh dục niệm, những dục niệm

身口意熾然,彼以身口意熾然故,

thân khẩu ý sí nhiên ,bỉ dĩ thân khẩu ý sí nhiên cố ,

bốc ra từ thân khẩu ý. Vì thân khẩu ý đầy dục niệm

即於彼村落乞食已,還所止處,往尊大比丘所,

tức ư bỉ thôn lạc khất thực dĩ ,hoàn sở chỉ xứ/xử ,vãng tôn Đại Tỳ-kheo sở ,

thầy bèn thường trở lại làng nọ khất thực. Sau khi về tịnh xá , thầy lại đến nơi chư tôn đại tỳ kheo

以此因緣,具向諸比丘說。 「彼尊比丘,

dĩ thử nhân duyên ,cụ hướng chư Tỳ-kheo thuyết 。 「bỉ tôn Tỳ-kheo ,

đem câu chuyện này, thưa hết cùng chư tỳ khoe. Chư tôn đại tỳ kheo

告此比丘言:『汝往,非我眾中比丘。』 「爾時此比丘不捨禁戒,

cáo thử Tỳ-kheo ngôn :『nhữ vãng ,phi ngã chúng trung Tỳ-kheo 。』 「nhĩ thời thử Tỳ-kheo bất xả cấm giới bảo các tỳ kheo rằng : " Tỳ kheo này hãy đi đi, tỳ kheo không còn là tỳ kheo của chúng ta nữa." Lúc đó Tỳ Kheo này không làm lễ xả giới hoàn tục

便著俗服,樂愛欲中,是謂比丘魔得其便,

tiện trước/trứ tục phục ,lạc/nhạc ái dục trung ,thị vị Tỳ-kheo ma đắc kỳ tiện ,

bèn mặc thường phục, vui chơi trong những ái dục, từ đó bị ma tỳ kheo thao túng

隨波旬所欲,亦不脫生老病死愁憂苦惱。

tùy Ba-tuần sở dục ,diệc bất thoát sanh lão bệnh tử sầu ưu khổ não 。

làm theo những gì Ba Tuân (9) sai bảo, như vậy không thoát khỏi được sinh lão bệnh tử u sầu khổ não

如是諸比丘利養具,甚為難,甚為苦,甚為恐畏,

như thị chư Tỳ-kheo lợi dưỡng cụ ,thậm vi/vì/vị nạn/nan ,thậm vi/vì/vị khổ ,thậm vi/vì/vị khủng úy ,

Còn những tỳ kheo đã được nghe câu chuyện, đó là điều thật khó, thật khổ, thật đáng sợ

墮入惡趣,不生無上處。」 「是故,

đọa nhập ác thú ,bất sanh vô thượng xứ/xử 。」 「thị cố ,

sợ bị rơi vào những ác thú (10), không được tái sinh nơi vô thượng. Vì vậy

諸比丘!當作是學,已得利養當捨離之,

chư Tỳ-kheo !đương tác thị học ,dĩ đắc lợi dưỡng đương xả ly chi ,

chư tỳ kheo ! Hãy lấy điều này mà học hỏi, những tỳ kheo đã tiêm nhiễm cái xấu của câu chuyện này phải bỏ nó đi ngay

未得利養不起貪意,如是諸比丘當作是學。

vị đắc lợi dưỡng bất khởi tham ý ,như thị chư Tỳ-kheo đương tác thị học 。

những tỳ kheo không nghe câu chuyện này thì không động lòng ham muốn, các tỳ kheo phải lấy những trường hợp này mà học hỏi,

」 爾時諸比丘聞佛所說,歡喜奉行。 」 

nhĩ thời chư Tỳ-kheo văn Phật sở thuyết ,hoan hỉ phụng hành 。

Chư tỳ kheo sau khi nghe Đức Phật giảng xong hoan hỷ phụng hành

大魚事經

Đại Ngư Sự Kinh.


NGUYÊN BẢN CHỮ HÁN (TVHS THÊM VÀO DƯỚI ĐÂY ĐỂ ĐỘC GIẢ THAM KHẢO)

KINH ĐIỂN ĐẠI CHÁNH TẠNG
Đại Ngư Sự Kinh [大魚事經]

Đông Tấn Trúc Đàm Vô Lan dịch
1 quyển

【經文資訊】大正新脩大藏經 第四冊 No. 216《大魚事經》
【版本記錄】CBETA 電子佛典 V1.14 (Big5) 普及版,完成日期:2001/07/24
【編輯說明】本資料庫由中華電子佛典協會(CBETA)依大正新脩大藏經所編輯
【原始資料】蕭鎮國大德提供,維習安大德提供之高麗藏 CD 經文,北美某大德提供
【其它事項】本資料庫可自由免費流通,詳細內容請參閱【中華電子佛典協會資料庫基本介紹】(http://www.cbeta.org/cbeta/result/cbintr.htm)
_______________________________________________________________________________________________
# Taisho Tripitaka Vol. 4, No. 216 大魚事經
# CBETA Chinese Electronic Tripitaka V1.14 (Big5) Normalized Version, Release Date: 2001/07/24
# Distributor: Chinese Buddhist Electronic Text Association (CBETA)
# Source material obtained from: Text as provided by Mr. Hsiao Chen-Kuo, Tripitaka Koreana as provided by Mr. Christian Wittern, Text as provided by Anonymous, USA
# Distributed free of charge. For details please read at http://www.cbeta.org/cbeta/result/cbintr_e.htm
_______________________________________________________________________________________________
0800c15║
0800c16║ No. 216
0800c17║佛說大魚事經
0800c18║
0800c19║ 東晉天竺三藏竺曇無蘭譯
0800c20║聞如是。一時婆伽婆在舍衛城。祇樹給孤獨
0800c21║園。爾時世尊。告諸比丘。往昔時。有一水饒
0800c22║諸大魚。爾時大魚敕小魚曰。汝等莫離此間
0800c23║往他處所。備為惡人所得。爾時小魚。不從
0800c24║大魚教。便往至他處所。爾時魚師。以飯網
0800c25║羅線捕諸魚。諸小魚見便趣大魚處所。爾時
0800c26║大魚見小魚來。便問小魚曰。汝等莫離此間
0800c27║往至他所。爾時小魚。便答大魚曰。我等向
0800c28║者以至他所來。大魚便敕小魚曰。汝等至
0800c29║他所。不為羅網取捕耶。小魚答大魚曰。我
0801a01║等至彼。不為人所捕。然遙見長線尋我後。大
0801a02║魚便語小魚曰。汝等以為所害。所以然者。
0801a03║汝所遙見線尋後來者。昔先祖父母。盡為此
0801a04║線所害。汝今必為所害。汝非我兒。爾時小
0801a05║魚。盡為魚師所捕。舉著岸上。如是小魚。大
0801a06║魚有死者。此亦如是。或有一比丘。在他聚
0801a07║落遊行。著衣持缽。周行乞食。福度眾生。不
0801a08║守護身。不守護口意。不具足諸根。意不專一。
0801a09║即於彼村落乞食。時見諸女人端正無雙。色
0801a10║猶桃華。見已便起婬心。以此婬心。身口意
0801a11║熾然。彼以身口意熾然。即於村落乞食。還
0801a12║所止處。故發欲想。便往尊比丘所。以此因
0801a13║緣。具向諸比丘說。諸尊大比丘。告此比丘
0801a14║言。汝起婬想。此不為淨。汝比丘。當惡露觀。
0801a15║尊大比丘。語復至再三。爾時彼比丘。身口
0801a16║意熾盛。復至彼村落乞食。遙見女人端正無
0801a17║比。色猶桃華。見已便起婬心。以此婬心。身
0801a18║口意熾然。彼以身口意熾然故。即於彼村落
0801a19║乞食已。還所止處。往尊大比丘所。以此因
0801a20║緣。具向諸比丘說。彼尊比丘。告此比丘言。
0801a21║汝往非我眾中比丘。爾時此比丘不捨禁戒。
0801a22║便著俗服。樂愛欲中。是謂比丘魔得其便。隨
0801a23║波旬所欲。亦不脫生老病死愁憂苦惱。如是
0801a24║諸比丘利養具。甚為難。甚為苦。甚為恐畏。
0801a25║墮入惡趣。不生無上處。是故諸比丘。當作
0801a26║是學。已得利養當捨離之。未得利養不起貪
0801a27║意。如是諸比丘當作是學。爾時諸比丘聞佛
0801a28║所說。歡喜奉行
0801a29║大魚事經

(http://rongmotamhon.net/mainpage/taisho_225.html&tg=6)


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn