- 01. Phẩm Tự Thứ Nhất
- 02. Phẩm Thuần Đà Thứ Hai
- 03. Phẩm Ai Thán Thứ Ba
- 04. Phẩm Trường Thọ Thứ Tư
- 05. Phẩm Kim Cang Thân Thứ Năm
- 06. Phẩm Danh Tự Công Đức Thứ Sáu
- 07. Phẩm Tứ Tướng Thứ Bảy
- 08. Phẩm Tứ Y Thứ Tám
- 09. Phẩm Tà Chánh Thứ Chín
- 10. Phẩm Tứ Đế Thứ Mười
- 11. Phẩm Tứ Đảo Thứ Mười Một
- 12. Phẩm Như Lai Tánh Thứ Mười Hai
- 13. Phẩm Văn Tự Thứ Mười Ba
- 14. Phẩm Điểu Dụ Thứ Mười Bốn
- 15. Phẩm Nguyệt Dụ Thứ Mười Lăm
- 16. Phẩm Bồ Tát Thứ Mười Sáu
- 17. Phẩm Đại Chúng Sở Vấn Thứ 17
- 18. Phẩm Hiện Bịnh Thứ Mười Tám
- 19. Phẩm Thánh Hạnh Thứ Mười Chín
- 20. Phẩm Phạm Hạnh Thứ Hai Mươi
- 21. Phẩm Anh Nhi Hạnh Thứ Hai Mươi Mốt
- 22. Phẩm Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ Tát Thứ Hai Mươi Hai
- 23. Phẩm Sư Tử Hống Bồ Tát Thứ Hai Mươi Ba
- 24. Phẩm Ca Diếp Bồ Tát Thứ Hai Mươi Bốn
- 25. Phẩm Kiều Trần Như Thứ Hai Mươi Lăm
- 26. Phẩm Di Giáo Thứ Hai Mươi Sáu
- 27. Phẩm Ứng Tận Hườn Nguyên Thứ Hai Mươi Bảy
- 28. Phẩm Trà Tỳ Thứ Hai Mươi Tám
- 29. Phẩm Cúng Dường Xá Lợi Thứ Hai Mươi Chín
06. PHẨM DANH TỰ CÔNG ĐỨC THỨ SÁU
(Hán bộ phần sau quyển thứ ba)
(Hán bộ phần sau quyển thứ ba)
Bấy giờ đức Như-Lai lại bảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “Nầy Ca-Diếp ! Nay ông nên khéo thọ trì danh tự chương cú cùng công đức của kinh nầy. Nếu có ai được nghe tên kinh nầy, thời không còn phải sanh vào bốn đường ác. Vì kinh nầy là chỗ tu tập của vô-lượng vô-biên chư Phật. Nay Như-Lai sẽ nói về chỗ được công đức.
Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật : “ Bạch Thế-Tôn ! Kinh nầy tên gì ? Đại Bồ-Tát phụng trì thế nào ?”
Phật dạy : “ Kinh nầy tên là Đại-Bát-Niết-Bàn”. Tất cả lời hoặc thượng, hoặc trung, hoặc hạ đều lành cả. Nghĩa vị thâm thúy, văn trong kinh cũng lành, tinh-thuần đầy đủ phạm-hạnh thanh tịnh, Bửu-tạng kim cang đầy đủ không thiếu. Nay ông khéo nghe, Như-Lai sẽ nói.
Nầy Ca-Diếp ! Nói là Đại đó gọi là Thường, như tám sông lớn đều chảy về biển cả. Kinh nầy hàng phục các kiết sử phiền não và các tánh ma, rồi cần phải ở nơi Đại-bát Niết-bàn mà buông bỏ thân mạng. Vì thế nên tên là Đại-Bát-Niết-Bàn.
Lại như Y-sư có một bí phương, nhiếp cả các phương thuốc khác. Cũng vậy, bao nhiêu môn diệu pháp thâm-áo bí mật đều vào nơi “Đại-Bát Niết-Bàn”. Vì thế nên gọi là “Đại-Bát-Niết-Bàn”.
Ví như nông phu, tháng mùa xuân gieo giống thường có hy vọng lúc đã gặt hái xong thời không hy vọng nữa.
Cũng vậy, tất cả chúng sanh tu học các thứ kinh khác thường hy vọng mùi vị, nếu được nghe kinh Đai-Bát-Niết-Bàn nầy, thời sự hy vọng mùi vị nơi các kinh kia thảy đều dứt hẳn.
Đại-Niết-Bàn đây có thể làm cho chúng sanh qua khỏi các giòng hữu-lậu trong ba cõi.
Nầy Ca-Diếp ! Như trong các dấu chưn, dấu chưn voi là hơn cả. Cũng vậy, kinh nầy là đệ nhứt nơi các kinh Tam-muội.
Như cày ruộng, mùa thu cày là hơn cả, cũng vậy, trong các kinh, kinh nầy là hơn cả.
Như trong các vị thuốc, vị đề-hồ là thứ nhứt hay trị bịnh nhiệt não loạn tâm của chúng sanh, cũng vậy, kinh Đại-Bát-Niết-Bàn là thứ nhứt.
Như bơ ngọt đủ cả tám mùi. Cũng vậy, kinh nầy đầy đủ tám vị. Những gì là tám ? Một là “thường”, hai là “hằng”, ba là “an”, bốn là “thanh lương”, năm là “chẳng già”, sáu là “chẳng chết”, bảy là “không nhơ”, tám là “khoái lạc” . Vì đầy đủ tám vị nên gọi là “ Đại-Bát-Niết-Bàn”.
Nếu các đại Bồ-Tát an trụ trong đây thời lại có thể thị hiện Niết-bàn ở nhiều nơi. Vì thế nên gọi là “Đại-Bát-Niết-Bàn”.
Nầy Ca-Diếp ! Nếu người nào muốn ở nơi Đại-Bát-Niết-Bàn đây mà Niết-Bàn thời phải học như vầy : Như-Lai thường-trụ, Pháp và Tăng cũng thường-trụ.
Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật : “ Bạch Thế-tôn ! Công đức của Như-Lai chẳng thể nghĩ bàn. Pháp và Tăng cũng không thể nghĩ bàn. Đại-Niết-Bàn đây cũng không thể nghĩ bàn.
Nếu có người tu học kinh điển nầy thời đặng pháp môn chơn chánh, có thể làm lương y. Nếu là chưa học, nên biết người nầy đui mù không con mắt trí huệ bị vô minh che đậy”.
Gửi ý kiến của bạn