- Lời Nói Đầu Của Dịch Gỉa
- 01. Pháp Hội Tam Tụ Luật Nghi
- 02. Pháp Hội Vô Biên Trang Nghiêm
- 03. Pháp Hội Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ
- 04. Pháp Hội Tịnh Cư Thiên Tử
- 05. Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai
- 06. Pháp Hội Bất Động Như Lai
- 07. Pháp Hội Mặc Giáp Trang Nghiêm
- 08. Pháp Hội Pháp Giới Thể Tánh Vô Phân Biệt
- 09. Pháp Hội Đại Thừa Thập Pháp
- 10. Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Phổ Môn
- 11. Pháp Hội Xuất Hiện Quang Minh
- 12. Pháp Hội Bồ Tát Tạng
- 12.01. Phẩm Khai Hoá Trưởng Giả Thứ Nhất
- 12.02. Phảm Kim Tỳ La Thiên Thọ Ký Thứ Hai
- 12.03. Phẩm Thí Nghiệm Bồ Tát Thứ Ba
- 12.04. Phẩm Như Lai Bất Tư Nghì Tánh Thứ Tư
- 12.05. Phẩm Tứ Vô Lượng Thứ Năm
- 12.06. Phẩm Đàn Na Ba La Mật Đa Thứ Sáu
- 12.07. Phẩm Thi La Ba La Mật Thứ Bẩy
- 12.08. Phẩm Sằn Đề Ba La Mật Thứ Tám
- 12.09. Phẩm Tỳ Lê Gia Ba La Mật Thứ Chín
- 12.10. Phẩm Tĩnh Lự Ba La Mật Thứ Mười
- 12.11. Phẩm Bát Nhã Ba La Mật Thứ Mười Một
- 12.12. Phẩm Đại Tự Tại Thiên Thọ Ký Thứ Mười Hai
- 13. Pháp Hội Phật Thuyết Nhơn Xử Thái
- 14. Pháp Hội Phật Thuyết Nhập Thai Tạng
- 15. Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký
- 16. Pháp Hội Bồ Tát Kiến Thiệt
- 16.01. Phẩm Tự
- 16.02. Phẩm Tịnh Phạn Vương Đến Phật
- 16.03. Phẩm A Tu La Vương Thọ Ký
- 16-04 Phẩm Bổn Sự
- 16-05 Phẩm Ca Lâu La Vương Thọ Ký
- 16-06 Phẩm Long Nữ Thọ Ký
- 16-07 Phẩm Long Vương Thọ Ký
- 16-08 Phẩm Cưu Bàn Trà Thọ Ký
- 16-09 Phẩm Càn Thát Bà Thọ Ký
- 16-10 Phẩm Dạ Xoa Thọ Ký
- 16-11 Phẩm Khẩn Na La Vương Thọ Ký
- 16-12 Phẩm Hư Không Hành Thiên Thọ Ký
- 16-13 Phẩm Tứ Thiên Vương Thọ Ký
- 16-14 Phẩm Tam Thập Tam Thiên Thọ Ký
- 16-15 Phẩm Dạ Ma Thiên Thọ Ký
- 16-16 Phẩm Đâu Xuất Đà Thiên Thọ Ký
- 16-17 Phẩm Hoá Lạc Thiên Thọ Ký
- 16-18 Phẩm Tha Hoá Tự Tại Thiên Thọ Ký
- 16-19 Phẩm Chư Phạm Thiên Thọ Ký
- 16-20 Phẩm Quang Âm Thiên Thọ Ký
- 16-21 Phẩm Biến Tịnh Thiên Thọ Ký
- 16-22 Phẩm Quảng Quả Thiên Thọ Ký
- 16-23 Phẩm Tịnh Cư Thiên Tử Tán Kệ
- 16-24 Phẩm Giá La Ca Ba Lợi Bà La Xà Ca Ngoại Đạo
- 16-25 Phẩm Lục Giới Sai Biệt
- 16-26 Phẩm Tứ Chuyển Luân Vương
- 17. Pháp Hội Phú Lâu Na
- 18. Pháp Hội Hộ Quốc Bồ Tát
- 19. Pháp Hội Úc Già Trưởng Lão
- 20. Pháp Hội Vô Tận Phục Tạng
- 21. Pháp Hội Thọ Ký Ảo Sư Bạt Đà La
- 22. Pháp Hội Đại Thần Biến
- 23. Pháp Hội Ma Ha Ca Diếp
- 24. Pháp Hội Ưu Ba Ly
- 25. Pháp Hội Phát Thắng Chí Nguyện
- 26-pháp Hội Thiện Tý Bồ Tát
- 27-pháp Hội Thiện Thuận Bồ Tát
- 28-pháp Hội Dũng Mãnh Thọ Trưởng Gỉa
- 29-pháp Hội Ưu Đà Diên Vương
- 30-pháp Hội Diệu Huệ Đồng Nữ
- 31-pháp Hội Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di
- 32-pháp Hội Vô Uý Đức Bồ Tát
- 33-pháp Hội Vô Cấu Thí Bồ Tát Ứng Biện
- 34-pháp Hội Công Đức Bửu Hoa Phu Bồ Tát
- 35-pháp Hội Thiện Đức Thiên Tử
- 36-pháp Hội Thiện Trụ Ý Thiên Tử
- 36-01-phẩm Duyên Khởi
- 36-02-phẩm Khai Thiệt Nghĩa
- 36-03-phẩm Văn Thù Thần Biến
- 36-04-phẩm Phá Ma
- 36-05-phẩm Bồ Tát Thân Hành
- 36-06-phẩm Bồ Tát Tướng
- 36-07-phẩm Nhị Thừa Tướng
- 36-08-phẩm Phàm Phu Tướng
- 36-09-phẩm Thần Thông Chứng Thuyết
- 36-10-phẩm Xưng Tán Phó Pháp
- 37-pháp Hội A Xà Thế Vương Tử
- 38-pháp Hội Đại Thừa Phương Tiện
- 39-pháp Hội Hiền Hộ Trưởng Gỉa
- 40-pháp Hội Tịnh Tín Đồng Nữ
- 41. Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Vấn Bát Pháp
- 42. Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Vấn Sở Vấn
- 43. Pháp Hội Phổ Minh Bồ Tát
- 44. Pháp Hội Bửu Lương Tụ:
- 44.01 Phẩm Sa Môn Thứ Nhất
- 44.02 Phẩm Tỳ Kheo Thứ Hai
- 44.03 Phẩm Chiên Đà La Sa Môn Thứ Ba
- 44.04 Phẩm Doanh Sự Tỳ Kheo Thứ Tư
- 44.05 Phẩm A Lan Nhã Tỳ Kheo Thứ Năm
- 44.06 Phẩm Tỳ Kheo Khất Thực Thứ Sáu
- 44.07 Phẩm Phất Tảo y Tỳ Kheo Thứ Bảy
- 45. Pháp Hội Vô Tận Huệ Bồ Tát
- 46. Pháp Hội Văn Thù Thuyết Bát Nhã
- 47. Pháp Hội Bửu Kế Bồ Tát
- 48. Pháp Hội Thắng Man Phu Nhân
- 49. Pháp Hội Quảng Bác Tiên Nhân
- 50. Pháp Hội Nhập Phật Cảnh Giới Trí Quang Minh Trang Nghiêm
- 51. Pháp Hội Tự Tại Vương Bồ Tát
- 52. Pháp Hội Bửu Nữ
- 53. Pháp Hội Bất Thuần Bồ Tát
- 54. Pháp Hội Hải Huệ Bồ Tát
- 55. Pháp Hội Hư Không Tạng Bồ Tát
- 56. Pháp Hội Vô Ngôn Bồ Tát
- 57. Pháp Hội Bất Khả Thuyết Bồ Tát
- 58. Pháp Hội Bửu Tràng
- 59. Pháp Hội Hư Không Mục
- 60. Pháp Hội Nhựt Mật Bồ Tát
- 61. Pháp Hội Vô Tận Ý Bồ Tát
- 62. Pháp Hội Quán Vô Lượng Thọ Phật
- Lời Ghi Nhận Sau Kinh Của Người Dịch
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch:
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản:
Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XXXVI
PHÁP HỘI
THIỆN TRỤ Ý THIÊN TỬ
THỨ BA MƯƠi SÁU
Hán dịch: Tùy
Pháp Sư Đạt Ma Cấp Đa
Việt dịch :
Việt Nam Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Phẩm PHÁ BỒ TÁT TƯỚNG
Thứ sáu
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch Phật rằng : “Bạch đức
Thế Tôn ! Như lời Phật dạy bồ Tát sơ phát tâm ấy, do nghĩa gì gọi là sơ phát tâm
?”.
Đức Phật phán dạy : “Nầy Văn Thù Sư Lợi !Nếu có Bồ
Tát bình đẳng xem tam giới tất cả tưởng sanh như vậy, được nói tối sơ phát tâm.
Đây gọi là Bồ Tát sơ phát tâm vậy.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát lại bạch Phật : “Bạch đức Thế
Tôn ! Như tôi hiểu nghĩa của đức Phật nói : nếu có Bồ Tát tâm tham dục sanh là
sơ phát tâm, tâm sân khuể sanh là sơ phát tâm , tâm ngu si sanh là sơ phát tâm.
Lời đức Thế Tôn nói phải chăng bảo đó là sơ phát tâm ?”.
Thiện Trụ Ý Thiên Tử hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát :
“Bạch Đại Sĩ ! Nếu chư Bồ Tát khởi tham sân si mà gọi là sơ phát tâm thì tất cả
cụ phược phàm phu đều tức là sơ phát tâm Bồ Tát. Tại sao ? Vì từ xưa đến nay
các phàm phu ấy thường phát ba độc tâm tham sân si như vậy”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “ Nầy Thiên Tử ! Ngài
nói tất cả phàm phu từ xưa đến nay thường phát được ba độc tâm ấy, nghĩa đó
không đúng. Tại sao ? Vì tất cả phàm phu tâm lực kém yếu chẳng thể phát khởi
tham sân si ấy. Duy có chư Phật Thế Tôn tất cả A La Hán Bích Chi Phật bất thối chuyển
địa Bồ Tát mới hay phát khởi tham sân si thôi. Vì thế nên phàm phu chẳng phát
được”.
Thiện Trụ Ý Thiên Tử nói : “ Bạch Đại Sĩ ! Nay Ngài
cớ chi nói như vậy khiến chúng hội nầy chẳng hiểu chẳng biết sa vào lưới nghi
rất đáng kinh sợ”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “ Nầy Thiên Tử ! Như
chim kia bay qua bay lại trong hư không, dấu chưn chim ấy tại hư không là có
phát hành hay không có phát hành ?
- Bạch Đại Sĩ ! Chẳng phải không phát hành.
- Nầy Thiên Tử ! Đúng như vậy. Do nghĩa ấy
nên tôi nói nếu có ai hay phát tham sân si, thì duy chư Phật Thế Tôn Thanh Văn
Duyên Giác bất thối Bồ Tát mới hay phát được thôi.
Nầy Thiên Tử ! Không có y xứ đó gọi là phát, không
có thủ trước đó gọi là phát. Đã không y xứ lại không thủ trước thì tức là không
có, đây gọi là phát, là câu vô phân biệt đây gọi là phát, là câu bất khả sanh
đây gọi là phát, là câu bất thiệt đây gọi là phát, là câu phi vật đây gọi là
phát, là câu bất lai đây gọi là phát, là câu bất khứ, đây gọi là phát, là câu
vô sanh đây gọi là phát, là câu vô phan duyên đây gọi là phát, là câu vô chứng
đây gọi là phát, là câu bất tránh đây gọi là phát, là câu bất tư đây gọi là
phát, là câu bất hoại đây gọi là phát, là câu vô ngôn đây gọi là pháp, là câu
bất phá đây gọi là phát, là câu vô tự đây gọi là phát, là câu vô chấp đây gọi
là phát, là câu vô trụ đây gọi là phát, là câu bất thủ đây gọi là phát, là câu
bất xả đây gọi là phát, là câu bất đạt đây gọi là phát. Nầy Thiên Tử ! Nên biết
đây là Bồ Tát sơ phát tâm vậy.
Nầy Thiên Tử ! Bồ Tát phát tâm nếu ở nơi tất cả
pháp như vậy mà chẳng ái trước chẳng tư tuởng chẳng thấy chẳng biết
chẳng nghe chẳng hiểu chẳng lấy chẳng bỏ chẳng sanh chẳng diệt thì gọi là
chơn phát tâm vậy.
Nầy Thiên Tử ! Đại Bồ Tát nếu hay y chỉ pháp giới
như vậy bình đẳng như vậy thiệt tế như vậy phương tiện như vậy thì tham dục sân
khuể ngu si phát. Lại nếu quyết hay y chỉ như vậy thì nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý
kia phát, thì sắc thủ uẩn thọ tưởng hành thức thủ uẩn kia phát, như vậy thì
tất cả kiến chấp phát, vô minh hữu ái phát, mười hai nhơn duyên hữu phần phát,
ngũ dục các sự phát, ái trước tam giới phát, ngã kiến phát, ngã sở kiến phát,
sáu mươi hai kiến phát, Phật tưởng phát, Pháp tưởng phát, Tăng tưởng phát, tự
tưởng phát, tha tưởng phát, địa thủy hỏa phong không thức đại tưởng phát, tứ
điên đảo phát, tứ thức trụ phát, ngũ cái phát, bát tà phát, cửu não phát, thập ác
nghiệp đạo phát. Nói tóm lại, tất cả phân biệt, tất cả chỗ phân biệt, tất cả
ngữ ngôn, tất cả các tướng, tất cả tiến xu, tất cả hi cầu, tất cả thủ trước,
tất cả tư tưởng, tất cả ý niệm, tất cả chướng ngại Bồ Tát đều phải phát cả, các
Ngài nên biết như thiệt.
Nầy Thiên Tử ! Do nghĩa ấy nên nếu nay Ngài có thể
ở nơi các pháp nầy mà chẳng ái trước chẳng tư tưởng thì gọi là chơn thiệt phát
vậy ”.
Đức thế Tôn khen rằng : “Lành thay lành thay, nầy
Văn Thù Sư Lợi, nay ông có thể vì chư Bồ Tát mà tuyên đủ những nghĩa sơ phát
tâm như vậy. Từ quá khứ ông đã từng cúng dường vô lượng vô biên quá hằng
sa số chư Phật Thế Tôn nên ông có thể tuyên nói như vậy”.
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế
Tôn ! Nay chỗ nói của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát về tối sơ phát tâm và được vô sanh
pháp nhẫn của Bồ Tát, trước sau hai sự bình đẳng không khác ư”.
Đức Phật phán dạy: “Đúng như vậy. Nầy Xá Lợi Phất !
Thuở xưa đức Nhiên Đăng Thế Tôn thọ ký ta rằng : Ma Na Bà ! Đời vị lai quá a
tăng kỳ kiếp ông sẽ được thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Đẳng Chánh
Giác. Nầy Xá Lợi Phất, lúc ấy ta cũng chẳng lìa tâm nầy mà được vô sanh pháp
nhẫn. Ông nên biết nghĩa sơ phát tâm của tất cả Bồ Tát đúng như lời Văn Thù Sư
Lợi nói không có khác vậy”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch rằng : “ Bạch đức Thế
Tôn như tôi hiểu nghĩa của đức Phật nói đều là sơ phát. Tại sao ? Vì như lời
Phật nói tất cả sơ phát tức là chẳng phát, chẳng phát ấy tức là Bồ Tát tối sơ
phát tâm”.
Lúc nói pháp nầy, có hai vạn ba ngàn Bồ Tát chứng
vô sanh nhẫn, năm ngàn Tỳ Kheo ở trong các pháp lậu tận giải thoát, sáu mươi ức
chư Thiên Tử xa lìa trần cấu được pháp nhãn tịnh.
Tôn giả Đại Ca Diếp bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế
Tôn ! Nay Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát lại còn làm được việc khó làm tuyên nói pháp
môn thậm thâm như vậy khiến các chúng sanh được nhiều lợi ích”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “Nầy Tôn giả Đại Ca
Diếp ! Thiệt tôi chẳng làm việc khó làm. Tại sao ? Vì tất cả pháp đều vô sở
tác; cũng không có đã làm, nay làm sẽ làm. Thưa Đại Ca Diếp ! Nơi các pháp tôi
chẳng phải làm chẳng làm nghĩa ấy cũng vậy.
Lại nầy Tôn giả ! Với chúng sanh tôi không có độ
thoát cũng không trói buộc. Tại sao ?Vì tất cả các pháp vô sở hữu vậy. Sao Tôn
giả ở trước Phật nói là hay làm việc khó làm.
Lại nầy Tôn giả ! Thiệt tôi chẳng làm. Chẳng phải
riêng tôi chẳng làm mà tất cả Như Lai cũng chẳng làm, Bích Chi Phật cũng chẳng
làm, A La Hán cũng chẳng làm.
Lại nầy Tôn giả Đại Ca Diếp ! Có những người nào
hay làm việc khó làm ? Nếu muốn nói đúng hay làm sự khó làm thì chỉ có tất cả
anh nhi phàm phu kia nói như vậy là khéo nói . Tại sao ?Vì như chư Phật không
có đã được nay được sẽ được, nhẫn đến tất cả Thanh Văn tất cả Bích Chi Phật
cũng vô sở đắc, chỉ có phàm phu kia tất cả đều được”.
Tôn giả Đại ca Diếp hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát :
“Bạch Đại Sĩ ! Tất cả chư Phật chẳng được những gì ?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “Tất cả chư Phật chẳng
được ngã, chẳng được nhơn chúng sanh thọ mạng sĩ phu, chẳng được đoạn thường;
chẳng được ấm nhập giới, chẳng được các danh sắc, chẳng được Dục giới, Sắc
giới, Vô sắc giới, chẳng được phân biệt tư duy niệm xứ, chẳng được nhơn sanh,
chẳng được điên đảo, chẳng được tham sân si, chẳng được đời nầy đời kia, chẳng
được ngã ngã sở, nhẫn đến chẳng được tất cả các pháp.
Nầy Tôn giả ! Tất cả các pháp thứ đệ chẳng được như
vậy cũng lại chẳng mất, chẳng phược chẳng giải, chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng xa
chẳng gần. Vì thế nên phải giác liễu pháp môn như vậy.
Nếu chư Phật Thế Tôn đều bất đắc thì tất cả
pháp chẳng phải pháp chẳng phải nghe, còn phàm phu tất cả đều đắc nên
phàm phu hay làm sự khó làm, mà chẳng phải chư Phật làm, chẳng phải Bích
Chi Phật làm, chẳng phải A La Hán làm. Đây gọi là phàm phu hay làm vậy”.
Tôn giả lại hỏi : “ Bạch Đại Sĩ ! Làm những gì?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “Làm đoạn làm thường,
làm nhiễm trước, làm y chỉ, làm tư tưởng ức niệm, làm thủ làm xả nhẫn đến tất
cả hí luận phân biệt tùy thuận cao hạ các sự việc.
Vì thế nên các pháp như vậy, chư Phật Thế Tôn đều
không làm, không có đã làm nay làm sẽ làm, chỉ có phàm phu kia hay làm sự khó
làm”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật : “Bạch đức Thế
Tôn ! Vô sanh nhẫn được nói ấy, thế nào là vô sanh nhẫn ?Bạch đức Thế Tôn! Lại
do nghĩa gì mà còn gọi là pháp vô sanh nhẫn, Bồ Tất thế nào được nhẫn pháp ấy
?”.
Đức Phật phán dạy : “Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thiệt
không có người ở trong sanh pháp mà được vô sanh nhẫn. Nói là được ấy chỉ có
ngữ nôn danh tự.Tại sao ? Vì vô sanh pháp chẳng thể được vậy, vì lìa phan duyên
vậy nên chẳng được pháp nhẫn, được không chỗ được, không đắc không thất do đây
mà gọi là được vô sanh pháp nhẫn.
Lại nầy Văn Thù Sư Lợi !Vô sanh pháp nhẫn ấy đó là
vì tất cả pháp vô sanh nên nhẫn như vậy, vì tất cả pháp vô lai vô khứ nên
nhẫn như vậy, vì tất cả pháp vô ngã vô chủ nên nhẫn như vậy, vì tất cả pháp vô
thủ vô xả nên nhẫn như vậy, vì tất cả pháp vô sở hữu vô thiệt nên nhẫn như vậy,
vì tất cả pháp vô đẳng vô đẳng đẳng nên nhẫn như vậy, vì tất cả pháp vô tỉ nên
nhẫn như vậy, vì tất cả pháp vô nhiễm như hư không nên nhẫn như vậy, vì tất cả
pháp vô phá hoại nên nhẫn như vậy, vì tất cả pháp vô đoạn nên nhẫn như vậy, vì
tất cả pháp vô cấu vô tịnh nên nhẫn như vậy, vì tất cả pháp không vô tướng vô
nguyện nên nhẫn như vậy, vì tất cả pháp lìa tham sân si nên nhẫn như vậy, vì
tất cả pháp như như pháp tánh thiệt tế nên nhẫn như vậy, vì tất cả pháp vô phân
biệt vô tương ưng vô ức niệm, vô hí luận vô tư duy nên nhẫn như vậy, vì tất cả
pháp vô tác vô lực gầy kém hư cuống như ảo như mộng như hưởng như ảnh như cảnh
tượng như ba tiêu như tụ mạt như thủy bào nên nhẫn như vậy. Cái bị được nhẫn
cũng không có được nhẫn, chẳng phải pháp chẳng phải phi pháp, chỉ dùng danh tự
nói lên pháp ấy thôi. Mà danh tự ấy cũng bất khả đắc bổn tánh tự ly. Nói nhẫn như
vậy tin hiểu thích vào không nghi hoặc không kinh bố không động không mất đầy
khắp nơi thân rồi chánh thọ mà hành chẳng được thân mình cũng không chỗ trụ.
Đây là đại Bồ Tát ở trong các pháp được vô sanh nhẫn cho đến chẳng hành tất cả
tưởng vậy”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch Phật rằng : “Bạch đức
Thế Tôn ! Nói rằng nhẫn ấy, thế nào là nhẫn cho đến chẳng bị cảnh giới phá hoại
nên gọi là nhẫn’’.
Thiện Trụ Ý Thiên Tử hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
: « Bạch Đại Sĩ ! Những gì chẳng bị cảnh giới phá hoại ? ».
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Nầy Thiên Tử ! Đó là
nhãn. Pháp nào hoại nhãn ? Đó là sắc tốt sắc xấu hay làm hoại nhãn. Như sắc
hoại nhãn, các thứ thanh hoại nhĩ hương hoại tỷ vị hoại thiệt xúc hoại thân và
pháp hoại ý cũng như vậy.
Nầy Thiên Tử ! Nếu Bồ Tát mắt thấy sắc chẳng nắm
lấy tướng chẳng ham tốt chẳng phân biệt chẳng tư tưởng chẳng ái chẳng yểm, biết
là bổn tánh không chẳng có niệm tưởng, chẳng bị các sắc nó làm hư hại, cho đến
ý đối với pháp cũng như vậy.
Nầy Thiên Tử ! Nếu sáu căn ấy không trước không
phược không hoại không hại, Bồ Tát nầy an trụ nơi pháp nhẫn. Vì an trụ pháp
nhẫn nên ở nơi tất cả pháp không chỗ phân biệt không sanh bất sanh không lậu
bất lậu không thiện bất thiện không vi bất vi, chẳng niệm thế pháp và xuất thế
pháp, chẳng phân biệt chẳng tư duy thì gọi là vô sanh pháp nhẫn”.
Lúc nói pháp nầy, có sáu vạn ba ngàn chúng sanh
phát tâm Vô thượng Bồ đề, một vạn hai ngàn Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn.
Thiện Trụ Ý Thiên Tử lại bạch hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát : “Bạch Đại Sĩ ! Thế nào là đại Bồ Tát phát khởi thắng hạnh siêu việt
chuyển tăng nhập vào các địa ?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “Nầy Thiên Tử ! Trong
ấy ai có thể phát được thắng hạnh mà Ngài nói các địa có siêu chuyển ư ?.
- Bạch Đại Sĩ ! Ngài há chẳng biết chư Bồ Tát
tu hành thù thắng càng tăng cho đến siêu việt hay viên mãn thập địa ư ?
- Nầy Thiên Tử ! Chẳng phải vậy. Như tôi được
nghe đức Phật dạy rằng tất cả các pháp như huyễn hóa. Ngài có tin chăng ?
- Bạch Đại Sĩ ! Lời chơn thành của đức Phật
ai dám chẳng tin !
- Nầy Thiên Tử ! Như huyễn nhơn ấy và sự
huyễn há lại có thắng hạnh siêu việt chuyển nhập cho đến đầy đủ thập địa ư ?
- Bạch Đại Sĩ ! không có
- Nầy Thiên Tử ! Như vậy, giả sử nếu huyễn
nhơn và sự huyễn hay có thắng hạnh siêu việt chuyển nhập thì chư Bồ Tát chúng
tôi sẽ siêu việt chuyển nhập như vậy. Tại sao ? Vì như đức Thế Tôn nói tất cả
pháp như huyễn hóa nên không có chuyển nhập. Vì thế nên nếu nói chư địa có
người chuyển nhập tức là chẳng phải chuyển nhập.
Tôi cũng chẳng nói địa có chuyển nhập. Tại sao ? Vì
tất cả pháp không có chuyển nhập vậy. Vì thế nên pháp ở trong pháp chẳng được
chuyển nhập, nghĩa là sắc ở trong thọ, chẳng được chuyển nhập, thọ ở trong sắc
chẳng được chuyển nhập, các pháp khác cũng như vậy. Tại sao ? Vì tất cả các pháp
tánh nó khác nhau, nó đi trong tự cảnh giới, ngoan si vô tri không có giác
thức, cũng như cỏ cây ngói đá tường vách, như tượng trong gương, như huyễn như
hóa chẳng chứng xúc được, một tướng không có tướng. Do vì nghĩa như vậy nên tất
cả các pháp không có siêu chuyển, chẳng xuất chẳng nhập không khứ không
lai.
Nầy Thiên Tử ! Nếu chư Bồ Tát hiểu biết tất cả pháp
không siêu chuyển như vậy thì chẳng lại còn có các địa sai khác, cũng không
nhập đạo, không có xả địa cũng không thối chuyển , ở trong Bồ đề siêu chuyển ấy
không có dứt mất. Tại sao ?Vì nếu người thấy những ấm giới nhập kia là
chơn thiệt thì không có siêu chuyển. Tại sao ? Vì tất cả pháp bổn tịnh vậy. Đây
gọi là Bồ Tát siêu việt đạo địa.
Nầy Thiên Tử ! Như huyễn sư hóa làm mười thứ xe cộ
cung điện rồi sai hóa nhơn ở trong đó. Nầy Thiên Tử ! Ý Ngài thế nào, hóa
nhơn cung điện ấy có định sở chăng ?
- Bạch Đại Sĩ ! Không có chỗ nhứt định.
- Nầy Thiên Tử ! Đúng như vậy, người thấy Bồ
Tát địa có siêu chuyển, sự ấy cũng như đây”.