- Lời Nói Đầu Của Dịch Gỉa
- 01. Pháp Hội Tam Tụ Luật Nghi
- 02. Pháp Hội Vô Biên Trang Nghiêm
- 03. Pháp Hội Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ
- 04. Pháp Hội Tịnh Cư Thiên Tử
- 05. Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai
- 06. Pháp Hội Bất Động Như Lai
- 07. Pháp Hội Mặc Giáp Trang Nghiêm
- 08. Pháp Hội Pháp Giới Thể Tánh Vô Phân Biệt
- 09. Pháp Hội Đại Thừa Thập Pháp
- 10. Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Phổ Môn
- 11. Pháp Hội Xuất Hiện Quang Minh
- 12. Pháp Hội Bồ Tát Tạng
- 12.01. Phẩm Khai Hoá Trưởng Giả Thứ Nhất
- 12.02. Phảm Kim Tỳ La Thiên Thọ Ký Thứ Hai
- 12.03. Phẩm Thí Nghiệm Bồ Tát Thứ Ba
- 12.04. Phẩm Như Lai Bất Tư Nghì Tánh Thứ Tư
- 12.05. Phẩm Tứ Vô Lượng Thứ Năm
- 12.06. Phẩm Đàn Na Ba La Mật Đa Thứ Sáu
- 12.07. Phẩm Thi La Ba La Mật Thứ Bẩy
- 12.08. Phẩm Sằn Đề Ba La Mật Thứ Tám
- 12.09. Phẩm Tỳ Lê Gia Ba La Mật Thứ Chín
- 12.10. Phẩm Tĩnh Lự Ba La Mật Thứ Mười
- 12.11. Phẩm Bát Nhã Ba La Mật Thứ Mười Một
- 12.12. Phẩm Đại Tự Tại Thiên Thọ Ký Thứ Mười Hai
- 13. Pháp Hội Phật Thuyết Nhơn Xử Thái
- 14. Pháp Hội Phật Thuyết Nhập Thai Tạng
- 15. Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký
- 16. Pháp Hội Bồ Tát Kiến Thiệt
- 16.01. Phẩm Tự
- 16.02. Phẩm Tịnh Phạn Vương Đến Phật
- 16.03. Phẩm A Tu La Vương Thọ Ký
- 16-04 Phẩm Bổn Sự
- 16-05 Phẩm Ca Lâu La Vương Thọ Ký
- 16-06 Phẩm Long Nữ Thọ Ký
- 16-07 Phẩm Long Vương Thọ Ký
- 16-08 Phẩm Cưu Bàn Trà Thọ Ký
- 16-09 Phẩm Càn Thát Bà Thọ Ký
- 16-10 Phẩm Dạ Xoa Thọ Ký
- 16-11 Phẩm Khẩn Na La Vương Thọ Ký
- 16-12 Phẩm Hư Không Hành Thiên Thọ Ký
- 16-13 Phẩm Tứ Thiên Vương Thọ Ký
- 16-14 Phẩm Tam Thập Tam Thiên Thọ Ký
- 16-15 Phẩm Dạ Ma Thiên Thọ Ký
- 16-16 Phẩm Đâu Xuất Đà Thiên Thọ Ký
- 16-17 Phẩm Hoá Lạc Thiên Thọ Ký
- 16-18 Phẩm Tha Hoá Tự Tại Thiên Thọ Ký
- 16-19 Phẩm Chư Phạm Thiên Thọ Ký
- 16-20 Phẩm Quang Âm Thiên Thọ Ký
- 16-21 Phẩm Biến Tịnh Thiên Thọ Ký
- 16-22 Phẩm Quảng Quả Thiên Thọ Ký
- 16-23 Phẩm Tịnh Cư Thiên Tử Tán Kệ
- 16-24 Phẩm Giá La Ca Ba Lợi Bà La Xà Ca Ngoại Đạo
- 16-25 Phẩm Lục Giới Sai Biệt
- 16-26 Phẩm Tứ Chuyển Luân Vương
- 17. Pháp Hội Phú Lâu Na
- 18. Pháp Hội Hộ Quốc Bồ Tát
- 19. Pháp Hội Úc Già Trưởng Lão
- 20. Pháp Hội Vô Tận Phục Tạng
- 21. Pháp Hội Thọ Ký Ảo Sư Bạt Đà La
- 22. Pháp Hội Đại Thần Biến
- 23. Pháp Hội Ma Ha Ca Diếp
- 24. Pháp Hội Ưu Ba Ly
- 25. Pháp Hội Phát Thắng Chí Nguyện
- 26-pháp Hội Thiện Tý Bồ Tát
- 27-pháp Hội Thiện Thuận Bồ Tát
- 28-pháp Hội Dũng Mãnh Thọ Trưởng Gỉa
- 29-pháp Hội Ưu Đà Diên Vương
- 30-pháp Hội Diệu Huệ Đồng Nữ
- 31-pháp Hội Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di
- 32-pháp Hội Vô Uý Đức Bồ Tát
- 33-pháp Hội Vô Cấu Thí Bồ Tát Ứng Biện
- 34-pháp Hội Công Đức Bửu Hoa Phu Bồ Tát
- 35-pháp Hội Thiện Đức Thiên Tử
- 36-pháp Hội Thiện Trụ Ý Thiên Tử
- 36-01-phẩm Duyên Khởi
- 36-02-phẩm Khai Thiệt Nghĩa
- 36-03-phẩm Văn Thù Thần Biến
- 36-04-phẩm Phá Ma
- 36-05-phẩm Bồ Tát Thân Hành
- 36-06-phẩm Bồ Tát Tướng
- 36-07-phẩm Nhị Thừa Tướng
- 36-08-phẩm Phàm Phu Tướng
- 36-09-phẩm Thần Thông Chứng Thuyết
- 36-10-phẩm Xưng Tán Phó Pháp
- 37-pháp Hội A Xà Thế Vương Tử
- 38-pháp Hội Đại Thừa Phương Tiện
- 39-pháp Hội Hiền Hộ Trưởng Gỉa
- 40-pháp Hội Tịnh Tín Đồng Nữ
- 41. Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Vấn Bát Pháp
- 42. Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Vấn Sở Vấn
- 43. Pháp Hội Phổ Minh Bồ Tát
- 44. Pháp Hội Bửu Lương Tụ:
- 44.01 Phẩm Sa Môn Thứ Nhất
- 44.02 Phẩm Tỳ Kheo Thứ Hai
- 44.03 Phẩm Chiên Đà La Sa Môn Thứ Ba
- 44.04 Phẩm Doanh Sự Tỳ Kheo Thứ Tư
- 44.05 Phẩm A Lan Nhã Tỳ Kheo Thứ Năm
- 44.06 Phẩm Tỳ Kheo Khất Thực Thứ Sáu
- 44.07 Phẩm Phất Tảo y Tỳ Kheo Thứ Bảy
- 45. Pháp Hội Vô Tận Huệ Bồ Tát
- 46. Pháp Hội Văn Thù Thuyết Bát Nhã
- 47. Pháp Hội Bửu Kế Bồ Tát
- 48. Pháp Hội Thắng Man Phu Nhân
- 49. Pháp Hội Quảng Bác Tiên Nhân
- 50. Pháp Hội Nhập Phật Cảnh Giới Trí Quang Minh Trang Nghiêm
- 51. Pháp Hội Tự Tại Vương Bồ Tát
- 52. Pháp Hội Bửu Nữ
- 53. Pháp Hội Bất Thuần Bồ Tát
- 54. Pháp Hội Hải Huệ Bồ Tát
- 55. Pháp Hội Hư Không Tạng Bồ Tát
- 56. Pháp Hội Vô Ngôn Bồ Tát
- 57. Pháp Hội Bất Khả Thuyết Bồ Tát
- 58. Pháp Hội Bửu Tràng
- 59. Pháp Hội Hư Không Mục
- 60. Pháp Hội Nhựt Mật Bồ Tát
- 61. Pháp Hội Vô Tận Ý Bồ Tát
- 62. Pháp Hội Quán Vô Lượng Thọ Phật
- Lời Ghi Nhận Sau Kinh Của Người Dịch
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch:
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản:
Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XXXVI
PHÁP HỘI
THIỆN TRỤ Ý THIÊN TỬ
THỨ BA MƯƠi SÁU
Hán dịch :
Tùy Pháp Sư Đạt Ma Cấp Đa
Việt dịch :
Việt Nam Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
PHẨM PHÁ NHỊ THỪA TƯỚNG
THỨ BẢY
Bấy Giờ Thiện Trụ Ý Thiên Tử lại hỏi Văn Thù Sư Lợi
Bồ Tát : “Bạch Đại Sĩ ! Nếu lúc có người đến chỗ Ngài để cầu xuất gia, thì Ngài
đáp thế nào ?Vì họ nói pháp xuất gia giải thoát thế nào ? Thọ giới và bảo trì
giới thế nào ?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “Nầy Thiên Tử ! Nếu có
người tới chỗ tôi cầu xuất gia, tôi sẽ dạy họ rằng : “Chư thiện nam tử ! Các
ông chẳng nên phát tâm xuất gia. Nếu các ông chẳng phát tâm xuất gia thì tôi sẽ
dạy các ông pháp chơn xuất gia. Tại sao ? Nầy Thiên Tử ! Nếu cầu xuất gia thì cầu
Dục giới cũng cầu sắc giới cũng cầu vô sắc giới, lại cầu năm dục lạc thế gian
và cầu các sự quả báo vị lai. Nếu thiện nam tử mà có sở cầu thì họ chẳng chứng pháp,
vì chẳng chứng pháp nên họ chẳng thấy có tâm. Nầy Thiên Tử ! Nếu vô sở thủ thì
họ chứng pháp, vì chứng pháp thì chẳng thấy có tâm, vì chẳng thấy có tâm thì
chẳng xuất gia, vì chẳng xuất gia thì không tâm xuất gia, vì không tâm xuất gia
nên họ chẳng phát, vì chẳng phát nên không có sanh, vì vô sanh nên họ tận khổ,
vì tận khổ nên cứu cánh tận, vì cứu cánh tận nên họ vô tận, vì vô tận nên là
bất khả tận, bất khả tận đó tức là hư không. Nầy Thiên Tử ! Tôi sẽ dạy thiện
nam tử cầu xuất gia kia như vậy.
Lại nầy Thiên Tử !Nếu có người đến chỗ tôi cầu xuất
gia, tôi sẽ dạy họ như vầy : Nầy thiện nam tử ! Nay ông chớ phát tâm xuất gia.
Tại sao ? Vì tâm ấy vô sanh không phát được. Ông chớ làm cách lạ mà bảo
thủ tâm ấy.
Nầy Thiện Tử ! Tôi lại bảo người cầu xuất gia ấy
rằng : Nay nếu ông chẳng cạo bỏ râu tóc thì ông xuất gia chơn thiệt. Tại sao ?
Vì như đức Phật nói tất cả các pháp không chỗ dứt trừ, những là sắc pháp chẳng
đoạn cũng chẳng trừ, thọ tưởng hành thức các pháp chẳng đoạn cũng chẳng trừ.
Nầy Thiên Tử ! Nếu có người quan niệm rằng : Tôi
trừ bỏ râu tóc mới là xuất gia, thì nên biết người ấy có ngã tướng, vì có ngã
tướng nên chẳng thấy bình đẳng. Lại vì thấy ngã nên thấy chúng sanh, vì thấy
chúng sanh nên thấy râu tóc, vì thấy râu tóc nên có ý nghĩ trừ bỏ.
Nầy Thiên Tử ! Nếu họ chẳng thấy có ngã tướng thì
không thấy tha tướng, vì không tha tướng nên không ngã mạn, vì không ngã mạn
nên không ngô ngã, vì không ngô ngã nên không phân biệt, vì không phân biệt nên
không động dao, vì không động dao nên không hí luận, vì không hí luận nên không
thủ xả, vì không thủ xả nên không có tác bất tác không có đoạn bất đoạn, không
ly không hiệp không giảm không tăng không tập không tán không tu không niệm
không thuyết không ngôn, như đây thì gọi là an trụ chơn thiệt”.
Thiện Trụ Ý Thiên Tử bạch rằng : “ Bạch Đại Sĩ !
Nghĩa chơn thiệt thế nào ?”
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “Nầy Thiên Tử ! Nói
rằng thiệt ấy tức là hư không, hư không như vậy được gọi là thiệt : không khởi
không tận không giảm không tăng. Vì nghĩa ấy mà hư không là thiệt, tánh không
là thiệt, như như là thiệt, pháp giới là thiệt, thiệt tế là thiệt, thiệt như
vậy cũng là chẳng thiệt. Tại sao ? Vì trong thiệt ấy bất khả đắc vậy nên
gọi là bất thiệt.
Lại nầy Thiên Tử ! Nếu có người đến chỗ tôi cầu
xuất gia, tôi sẽ dạy họ rằng : Nay nếu ông có thể chẳng thủ trước y ca sa ấy
thì tôi cho rằng ông là chơn xuất gia. Tại sao ? Vì chư Phật Thế Tôn chẳng có
thủ trước, phàm có chỗ thuyết pháp đều không vì thủ trước, đó là chẳng thủ sắc
là thường hay vô thường, nhẫn đến chẳng thủ thọ, tưởng, hành, thức là thường
hay vô thường. Chẳng thủ nhãn là thường hay vô thường , nhẫn đến chẳng thủ nhĩ,
tỷ, thiệt, thân , ý là thường hay vô thường. Chẳng thủ sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp. Chẳng thủ tham dục, sân khuể, ngu si. chẳng thủ điên đảo. Cho đến
tất cả pháp đều chẳng thủ, mà cũng chẳng xả chẳng hiệp chẳng ly.
Nầy Thiên Tử ! Nếu thủ trước ca sa , thì nên
biết họ có kiến chấp lớn. Vì thế nên tôi nói chẳng do thủ trước ca sa mà
được thanh tịnh và được giải thoát. Tại sao ? Vì chư Phật Thế Tôn, chỗ
đại Bồ đề không có ca sa.
- Bạch Đại Sĩ ! Pháp gì là ca sa ?
- Nầy Thiên Tử ! Ngài hỏi pháp gì là ca sa ?
Chính tham dục là ca sa, sân khuể là ca sa, ngu si là ca sa, nhơn là ca sa,
kiến là ca sa, , danh sắc là ca sa, vọng tưởng là ca sa, chấp trước là ca sa,
thủ tướng là ca sa,, như vậy nhẫn đến hí luận tất cả các pháp là ca sa cả . Nếu
biết các pháp không có thiện bất thiện không tu không niệm thì gọi là không có ca
sa. Nếu không ca sa thì vô sở hữu, nếu vô hữu thì không cấu trược, nếu không
cấu trược, thì không chướng ngại, nếu không chướng ngại thì không có tác, đây
gọi là suy lường. Suy lường ấy ở nơi pháp bình đẳng không tăng không giảm không
có tác bất tác, đây gọi là suy lường.
Nầy Thiên Tử ! Nếu có thể ở nơi các pháp không làm
tăng giảm, chẳng nên lại khởi tưởng niệm phân biệt đúng như lời đức Phật dạy
thì gọi là suy lường vậy.
- Bạch Đại Sĩ ! Những gì gọi là chẳng làm tăng giảm
?
- Nầy Thiên Tử ! Quá nơi bình đẳng, quá bình đẳng
rồi pháp bất khả đắc, đó là quá khứ bất khả đắc, vị lai bất khả đắc, hiện tại
bất khả đắc, pháp ấy chẳng phải như như, không có tăng giảm làm, không ngô ngã
làm, không tha nhơn làm, không chúng sanh làm, không thọ mạng làm, không có
đoạn làm, không có thường làm, không có phân biệt ấm nhập giới làm, không có
phân biệt Phật Pháp Tăng làm, cũng không có quan niệm trì giới làm, phá giới
làm, phiền não làm, thanh tịnh làm, đắc quả làm, Tu Đà Hoàn làm, Tư Đà Hàm làm,
A Na Hàm làm, A La Hán làm, Bích Chi Phật làm, nhẫn đến không có quan niệm là
không làm, là vô tướng làm, là vô nguyện làm, là minh giải thoát làm, là ly dục
làm.
Như vậy, nầy Thiên Tử ! Đây đều là vì kẻ vô văn
phàm phu ấy mà tư lương phân biệt nói pháp nầy thôi, Ngài cần phải biết. Đây là
người tối hạ ngu si cầu muốn đắc pháp hư vọng thủ trước. Nên đức Như Lai vì
đoạn trừ sự chấp trước của họ mà diễn nói sự tư lương phân biệt tác bất tác ấy”.
Thiện Trụ Ý Thiên Tử khen Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : “
Lành thay Đại Sĩ hay nói pháp môn thậm thâm như vậy”.
Đức Phật cũng khen Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : “Lành
thay lành thay ! Văn Thù Sư Lợi, nay ông có thể tuyên nói như vậy”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát lại nói với Thiện Trụ Ý Thiên Tử :
“Nầy Thiên Tử ! Nếu có người đến chỗ tôi cầu
xuất gia, tôi sẽ dạy họ rằng : Nầy thiện nam tử ! Nay nếu ông chẳng thọ giới cụ
túc thì gọi là chơn xuất gia. Tại sao ? Vì như đức Phật dạy : Chỉ có hai hạng
thọ pháp cụ giới : một là thọ giới chánh bình đẳng, hai là thọ giới tà bất
đẳng.
Trong đây gì là giới tà bất đẳng ? Nghĩa là đọa ngã
kiến, đọa nhơn kiến, đọa chúng sanh kiến, đọa thọ giả kiến, đọa sĩ phu kiến,
đọa đoạn kiến, đọa thường kiến, đọa tà kiến, đọa kiêu mạn, đọa tham dục, đọa
sân khuể, đọa ngu si, đọa Dục giới, đọa Sắc giới, đọa Vô sắc giới, đọa thủ
trước phân biệt. Nầy Thiên Tử ! Đây là lược nói đọa trong tất cả pháp bất
thiện, theo kề ác tri thức vọng chấp lấy tất cả pháp, đọa chẳng hiểu biết chỗ
xuất yếu giải thoát. Đây gọi là thọ giới tà bất đẳng.
Nầy Thiên Tử ! Trong đây thế nào là thọ giới chánh
bình đẳng ? Không là bình đẳng , vô tướng là bình đẳng, vô nguyện là bình đẳng.
Nếu có thể nhập ba môn giải thoát như vậy, giác
tri như thiệt chẳng phân biệt chẳng tư niệm, nơi tất cả pháp không có thối chuyển.Đây
gọi là thọ giới chánh bình đẳng vậy.
Lại nầy Thiên Tử ! Nếu tham dục phát, nếu sân
khuể phát, nếu ngu si phát, nếu ái vô minh phát,ngã kiến phát, sáu mươi hai kiến
phát, ba tà hạnh phát, bốn điên đảo phát, nhẫn đến tà chín não mười nghiệp đạo
bất thiện phát nên gọi là thọ chánh giới vậy. Ví như tất cả chủng tử cỏ cây
rừng bụi đều y nơi đại địa mà được sanh trưởng. Đất ấy bình đẳng không có tâm
niệm làm như vậy. Cũng vậy, trong Phật pháp, nếu thọ chánh giới thì thành tựu
cụ túc.
Nầy Thiên Tử ! Nếu tất cả chủng tử cỏ cây y đại địa
an trụ mà được tăng trưởng. Phải nên như vậy mà thọ cụ chánh giới. Tại sao ? Vì
an trụ nơi giới mà đạo pháp được tăng trưởng. Lại như chủng tử tăng trưởng được
gọi là thành tựu, như vậy vì an trụ nơi giới nên tất cả pháp trợ Bồ đề
phần xuất sanh tăng trưởng nên gọi là thành tựu.
Nầy Thiên Tử ! Đây là chư Phật Thế Tôn quá khứ vị
lai hiện tại, tất cả Thanh Văn thọ chánh giới vậy, đó là nhập vào ba môn giải
thoát ấy chỗ mà tất cả hí luận ngữ ngôn dứt diệt.
Nầy Thiên Tử ! Phải biết nếu người có thể thọ cụ
giới như vậy thì gọi là thọ chánh, chẳng phải chẳng chánh.
Nầy Thiên Tử ! Nay tôi lại ở nơi người xuất gia như
vậy, thọ cụ như vậy mà dạy họ rằng : Các thiện nam tử ! Nếu nay ông có thể
chẳng trì cấm giới thì là chơn thiệt trì vậy. Tại sao ? Vì tất cả pháp đều vô
sở thủ nên không chỗ trì, cớ sao riêng nơi giới nầy mà có trì.
Nầy Thiên Tử ! Nếu giớI có thể trì thì là trì tam
giới.
Nầy Thiên Từ ! Ý Ngài thế nào, lấy gì làm giới ?
- Bach Đại Sĩ ! Nếu có thể đầy đủ ba la đề
mộc xoa thì gọi là giới.
- Nầy thiên Tử ! Thế nào gọi là ba la đề mộc xoa ?
- Bạch Đại Sĩ ! Đó là trì thân và khẩu ý, ba nghiệp đầy đủ thì gọi là ba la đề mộc xoa vậy.
Nầy Thiên Tử ! Ý Ngài thế nào, nay đây
hiện tiền chỗ nào là có thân nghiệp, tạo tác, quá khứ và vị lai cũng không có tạo
tác? Nó đều không tạo tác không tượng mạo để có thể nói được là có , là thanh
huỳnh xích bạch hay là màu pha lê ư ?
- Bạch Đại Sĩ ! Đều không vậy.
- Nầy Thiên Tử ! Nó gọi là gì và nói thế
nào ?
- Bạch Đại Sĩ ! Nó gọi là vô vi thiệt không thể nói
vậy.
- Nầy Thiên Tử ! Ý Ngài thế nào, vô vi kia có thể làm hữu vi được chăng ?
- Bạch Đại Sĩ ! Không.
- Nầy thiên Tử ! Vì nghĩa ấy nên tôi nói rằng
họ chẳng trì thì gọi là chơn trì giới vậy.
Nầy thiên Tử ! Nếu nói tăng thượng giới học, tăng
thượng tâm học, tăng thượng huệ học đó là học tế phải nên biết như vậy: vì
không chỗ trì nên nói tăng thượng học giới, vì không chỗ biết nên nói
tăng thượng tâm học, vì không chỗ thấy nên nói tăng thượng huệ học. Vì tâm
không phân biệt chẳng ức niệm chẳng sanh khác lạ nên gọi là tối thượng tâm học,
giới học và huệ học cũng vậy
Nầy Thiên Tử ! Nếu chẳng được tâm thì chẳng niệm
giới, thì chẳng tu huệ. Nếu chẳng tu huệ thì không còn khởi tất cả nghi hoặc,
đã không nghi hoặc thì chẳng trì giới nếu chẳng trì giới thì gọi là chơn thiệt
trì giới vậy.
Nầy Thiên Tử ! Người trì giới ấy thì không chỗ mong
muốn nên không thối hoàn thì thanh tịnh, vì thanh tịnh nên giải thoát, vì giải
thoát nên tinh tiến, vì tinh tiến nên vô lậu, vì vô lậu nên an trụ chánh hạnh,
vì trụ chánh hạnh nên không tượng mạo. Vì không tượng mạo nên tức là hư không.
Tại sao ?Vì hư không kia không có hình mạo vậy. Vì thế nên, nầy Thiên Tử ! Nếu
có người học được như vậy là chẳng học, vì vô học nên là chơn học. Ở chỗ nào
học ? Là không chỗ học. Thế nào không có chỗ ? Đó là hư không bình đẳng. Nếu có
thể chánh trụ hư không bình đẳng . Nếu có thể chánh trụ hư không bình đẳng thì
gọi là chơn trụ giới học.
Lại nầy Thiên Tử ! nếu là người hay xuất gia như
vậy, hay thọ cụ như vậy, tôi sẽ dạy họ như vầy :
Nầy thiện nam tử ! Nay nếu ông có thể lãnh thọ đồ
cúng dường của tất cả đàn việt trong Đại Thiên Thế giới mà ở trong ấy chẳng
khởi phân biệt chẳng nghĩ báo ơn thì mới gọi là thanh tịnh trì giới. Tại sao ?
Vì, nầy Thiên Tử ! Nếu người nắm lấy kẻ thí kẻ thọ và tài vật ba sự đó là
báo ơn. Lại nếu thấy nếu tư duy nếu phân biệt ba sự ấy đó là báo ơn. Còn nếu
chẳng nắm lấy chẳng thấy chẳng tư duy chẳng phân biệt ba sự ấy thì có gì báo ơn
được, tại sao ?Vì báo ơn như vậy từ bổn lai cứu cánh thanh tịnh vậy. Nầy Thiên
Tử ! Nếu là người nắm lấy nếu thấy nếu tư duy nếu phân biệt nếu nghĩ nhớ báo ơn
thì là phàm phu chớ chẳng phải A La Hán. Vì hàng phàm phu trong tất cả thời gian
luôn thủ trước tư lương phân biệt, đây thọ kia cho, kia cấu đây tịnh , do phân
biệt mà có báo ơn. Thế nào là báo ơn ? Đó là hàng phàm phu ở trong cõi sanh tử
lấy thân đời sau nên ở nơi kia muốn làm sự báo ơn. Nầy Thiên Tử ! Chư A La Hán
chẳng thọ thân sau, cứu cánh chẳng có thấy chẳng tư lương chẳng phân biệt có
đây kia chẳng còn thọ thân thì sẽ ở chỗ nào để báo ơn vậy.
Nầy Thiên Tử ! Nếu thọ người cúng thí nên hành ba
sự thanh tịnh rồi sau mới thọ, một là chẳng thấy tha nhơn tức không người thí,
hai là chẳng thấy kỷ thân tức không người thọ, ba là chẳng thấy tài vật tức
không có sự bố thí. Nầy Thiên Tử ! Ba sự thanh tịnh như vậy là cứu cánh thanh tịnh,
thanh tịnh như đây thì còn cần gì báo ơn, do nghĩa nầy mà tôi nói rằng nếu thọ
lãnh đồ cúng thí của tất cả đàn việt đốc tín trong tam thiên Đại Thiên thế giới
mà chẳng phân biệt chẳng nghĩ báo ơn, người nầy được gọi là phước điền chơn
thiệt thù thắng ở thế gian là chơn xuất gia là tịnh trì giới.
Lại nầy Thiên Tử ! Tôi làm cho người ấy xuất gia
như vậy trì giới như vậy rồi, tôi sẽ còn dạy họ rằng : Nầy thiện nam tử ! Nay
ông có thể chẳng hành a lan nhã chẳng ở tụ lạc, chẳng ở gần chẳng ở xa, chẳng
ngồi một mình chẳng ở trong đại chúng, chẳng nói nhiều chẳng nín lặng, chẳng khất
thực chẳng thọ thỉnh, chẳng dùng y phấn tảo, chẳng nhận y bát của người, chẳng
ăn nhiều chẳng thiểu dục, chẳng cầu nhiều chẳng tri túc, chẳng ngồi dưới cây,
chẳng ngồi chỗ trống,chẳng uống thuốc hủ lãng, chẳng thọ thịt và tô lạc.
Nầy thiện nam tử ! Nếu ông ở nơi tất cả hạnh đầu
đà chẳng khởi phân biệt, hành như vậy thì gọi là hành đầy đủ đầu đà vậy.
Tại sao?
Vì nếu dùng ghi nhớ để hành tức là ngã mạn nơi
tâm còn thấy có các tướng, tôi thọ y phấn tảo, tôi khất thực, tôi ở dưới cây,
tôi ngồi chỗ trống, tôi hành a lan nhã, tôi uống thuốc hũ lãng tôi thiểu dục,
tôi tri túc, tôi hành đầu đà. Nầy Thiên Tử ! Nếu là người chánh hành thì chẳng
sanh niệm tưởng như vậy, tại sao, vì người nầy không có tất cả phân biệt vậy.
Người nầy còn chẳng thấy có ngã huống là có thấy công đức đầu đà. Vì lẽ ấy nên
nầy Thiên Tử ! Nếu có người hành đầu đà mà chẳng ghi nhớ chẳng phân biệt như
vậy thì tôi cho là chơn đầu đà vậy. Tại sao ? Vì đầu đà ấy chẳng thủ chẳng xả
chẳng tu chẳng niệm chẳng tu chẳng hành phi pháp phi phi pháp. Vì thế nên tôi
nói là chơn đầu đà vậy.
Lại nầy Thiên Tử ! Tôi làm cho người ấy xuất gia
như vậy thật hành như vậy rồi, tôi sẽ dạy họ rằng : Nay nếu ông có thể chẳng
quán tứ thánh đế chẳng tu tứ niệm xứ chẳng tu tứ chánh cần tứ như ý túc ngũ căn
ngũ lực thất giác phần bát chánh đạo nhẫn đến chẳng tu ba mươi pháp trợ Bồ đề
phần, chớ chứng ba môn giải thoát. Tại sao ? Vì thánh đế ấy nhập vào tướng vô
sanh không thể nhớ biết chẳng thể tu chứng. Vì thế nên tôi nói luận về niệm xứ là
chẳng niệm chẳng tu tất cả pháp nên gọi là niệm xứ vậy.
Nầy Thiên Tử ! Nếu Tỳ Kheo chẳng trụ Dục giới chẳng
trụ Sắc giới chẳng trụ Vô sắc giới thì gọi là Tỳ kheo chẳng trụ tứ niệm xứ mà
tư tu tứ niệm xứ. Thế nào là tư tu ? Như trên kia nói chẳng tư chẳng tu thì gọi
là tư tu. Và theo thứ đệ như vậy nhẫn đến ba mươi bảy pháp Bồ đề phần nên biết như
vậy.
Nầy Thiên Tử ! Nếu thiền hành Tỳ Kheo ấy nơi tất cả
pháp đều vô sở đắc nên chẳng tư niệm chẳng phân biệt chẳng tu chẳng chứng. Tại
sao ?Vì các pháp ấy chỉ có danh tự thôi . Như ba mươi bảy pháp trợ Bồ đề , nó
dầu có danh tự mà bất khả đắc, chỉ do nhơn duyên phân biệt mà sanh, là nhứt
tướng vô tướng. Do danh tự như vậy nên nói như vậy, lời nói ấy cũng không. Nên
nó dầu do danh tự chứng biết mà trọn bất khả đắc. Đây gọi là như thiệt giác tri
ba mươi bảy pháp trợ Bồ đề.
- Bạch Đại Sĩ ! Thế nào gọi là thiền hành Tỳ
kheo?
- Nầy Thiên Tử ! Nếu Tỳ Kheo ấy ở nơi tất cả
pháp chỉ lấy một hạnh rồi tùy thuận tột mức, nghĩa là vô sanh, đây gọi là thiền
hành. Lại không có một chút pháp để lấyđây gọi là thiền hành. Chẳng lấy pháp gì
? Đó là chẳng lấy đời nầy đời kia, chẳng lấy tam giới nhẫn đến chẳng lấy tất cả
pháp, bình đẳng như vậy thì gọi là thiền hành
Nầy Thiên Tử ! Như thiền hành ấy, nhẫn đến không có
một pháp tương ưng , không hiệp không tán, đây là thiền hành”.
Bây giờ trong pháp hội có đa số vô lượng trăm ngàn
chúng sanh đều nghi ngờ rằng : nay Ngài văn Thù Sư Lợi nói như vậy làm sao
tương ưng với lời của đức Phật đã dạy, như đức Thế Tôn nói: nếu người nhập được
ba môn giải thoát thì gọi là Niết bàn. Đức thế Tôn lại nói : nếu ai hay tu tập ba
mươi bảy pháp trợ Bồ đề thì có thể chứng Niết bàn. Nhưng nay Ngài Văn Thù Sư
Lợi lại bảo, chẳng nên tu ba mươi bảy pháp trợ Bồ đề , cũng chớ nhập ba môn
giải thoát. Có phải Ngài Văn Sư Lợi vọng thuyết ư ?
Biết quan niệm nghi ngờ của chư Tỳ kheo và đa số
chúng hội, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát liền nói với Tôn giả Xá Lợi Phất rằng :” Nầy
Tôn giả ! Nay Ngài rất nên chứng tín. Đức Phật nói Ngài trí huệ đệ nhứt.
Nầy Tôn giả ! Ở nơi đâu Ngài chứng được pháp ly dục
? Đương lúc chứng ấy há lại chẳng thấy tứ thánh đế ư ? ».
Tôn giả Xá Lợi Phất nói : « Chẳng có ».
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hỏI : « Há lại chẳng tu ba
mươi bảy pháp trợ Bồ đề ư ? ».
Tôn giả Xá Lợi Phất nói : « Chẳng có’’.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát lại hỏi : « Há lại chẳng nhập
ba môn giải thoát ư ? ».
Tôn giả Xá Lợi Phật nói : « Chẳng có . Nầy Đại Sĩ !
Lúc ấy đối với tôi, nhẫn đến không có một pháp để thấy được trừ được tu được
chứng được tuyển trạch được. Tại sao ? Vì tất cả pháp vô vi vô sanh vô ngôn là
không. Nếu đã là không thì có gì để chứng được ».
Lúc nói pháp nầy, trong chúng có ba vạn Tỳ kheo nơi
pháp được lậu tận ý giải tâm được giải thoát.
Thiện trụ Ý Thiên Tử khen Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : «
Lành thay lành thay, thưa Đại Sĩ ! Nay Ngài chơn thiệt thông biện lợi trí khéo
nói không nhẫn thậm thâm như vậy ».
VănThù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Nầy Thiên Tử
tôi chẳng phải thông biện lợi trí như vậy.Luận về lợi trí là của anh nhi phàm phu
kia.Vì phàm phu mới gọi là lợi trí. Những gì là lợi trí ? Đó là địa ngục lợi
trí , súc sanh lợi trí , ngạ quỉ lợi trí, nhẫn đến tam giới tất cả lợi trí .
Tương ưng thủ trước như vậy được gọi là lợi trí . Tại sao ? Vì chẳng biết tiên
tế của sanh tử phiền não do đây mà các phàm phu chấp trước lợi tham dục, chấp
trước lợi sân khuể, chấp trước lợi ngu si nhẫn đến thủ trước tương ưng
với các kiến chấp danh sắc, nên gọi là lợi trí. Chẳng phải nói chư Phật chư
Thanh Văn Duyên Giác chư Bồ Tát đắc nhẫn mà có lợi trí như vậy”.
Thiện Trụ Ý Thiên Tử hỏi : “ Bạch Đại Sĩ ! Phải
chăng nay Ngài muốn hiển bày trí ư ?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “Chẳng có”.
Thiện Trụ Ý Thiên Tử hỏi : “Ngài muốn tùy hành ư
?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “ Chẳng có ”.
Thiên Trụ Ý Thiên Tử hỏi : “Ngài muốn tùy văn cú ư
?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “Đúng như vậy. Nầy
Thiên Tử ! Tôi do nơi tự cú”.
Thiện Trụ Ý Thiên Tử hỏi : “Bạch Đại Sĩ ! Nay cớ
chi mà Ngài nói như vậy ?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “Nầy Thiên Tử ! Dầu chư
Bồ Tát ở nơi một chữ một câu chưa bao giờ di động, nhưng đều như thiệt biết rõ
các chỗ nghĩa môn xa gần sâu cạn của chữ của câu ấy. Đó là biết chỗ không chỗ
vô tướng chỗ vô nguyện, biết chỗ viễn ly chỗ vô sở hữu chỗ vô sanh chỗ như như
, mà ở trong ấy không có thọ không có tác không có giải không có tri . Do đó mà
được nói là “duy tự cú” vậy”.
Đức Thế Tôn khen rằng : “Lành thay lành thay Văn
Thù Sư Lợi, nay ông vì đã được đà la ni nên mới phân biệt nói được như vậy”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn
! Tôi thiệt chẳng được đà la ni ấy. Tại sao ? Vì nếu có ai được đà la ni ấy thì
gọi là phàm phu ngu si mà chẳng phải chư Phật Thế Tôn và chư Bồ Tát được
đà la ni. Tại sao ? vì bạch Thế Tôn ! Các chúng sanh phàm phu ngu si ấy có thủ
trước nên có được đà la ni. Thủ trước những gì ? Đó là họ thủ trước ngã mà được
đà la ni, họ thủ trước nhơn chúng sanh thọ mạng sĩ phu mà được đà la ni, họ thủ
trước đoạn diệt thường hằng mà được đà la ni, họ thủ trước tham sân si mà được
đà la ni, họ thủ trước vô minh hữu ái mà được đà la ni, họ thủ trước thân kiến
ngũ ấm mười hai nhập mười tám giới mà được đà la ni, họ thủ trước ức niệm phân
biệt sáu mươi hai chấp kiến mà được đà la ni, nhẫn đến họ thủ trước các hành mà
được đà la ni, vì lẽ nầy nên phàm phu được đà la ni. Tại sao ? Vì nếu là pháp
bị ngu si ấy thủ trước là sở đắc của phàm phu mà chẳng phải chư Phật
được chẳng phải Thanh Văn được chẳng phải Bích Chi Phật được, chẳng phải
Bồ Tát được, do nghĩa ấy nên chỉ có phàm phu kia được đà la ni . Tại sao ? Vì
phàm phu kia do vì ngu si mà nói có thủ đắc mà chẳng phải chư Phật chư Bồ Tát vậy”.
Thiện Trụ Ý Thiên Tử lại bạch Văn Thù Sư Lợi :
“Bạch Đại Sĩ ! Nếu Ngài chẳng được đà la ni toan không sa vào địa vị ngoan độn
kia ư !”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “Đúng vậy, Nầy Thiên
Tử! Tôi chơn thiệt ngoan độn. Tại sao ? Vì luận về ngoan độn là vô sở tri , chỗ
sở hành của tôi chẳng thể biết được, vì thế nên tất cả chư Phật và chư Thanh
Văn Đuyên Giác Bồ Tát đều sa vào ngoan độn mà chẳng phải phàm phu. Tại sao
? Vì tất cả phàm phu ở tại trong số, các bực trí giả khác đều vào ngoan độn.
Như Tu Đà Hoàn vì chướng ngại hành nên tâm tham dục hành còn sa vào trong số
huống là các phàm phu ngu si mà chẳng phải số vậy. Vì thế nên, nầy Thiên
Tử ! Tôi là ngoan độn tôi chẳng được đà la ni. Tại sao ?Vì nhẫn đến một pháp ,
tôi vô sở đắc vậy ».
Lúc nói pháp nầy, trong đại chúng có năm trăm Tỳ
kheo nghe pháp như vậy chẳng thể tín thọ sanh đại khủng bố khởi lòng phỉ báng
bỏ đi , họ liền tự thấy thân mình đọa đại địa ngục.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói với văn Thù Sư Lợi Bồ Tát :
« Ngài nên thôi chớ nói kinh điển thậm thâm như vậy. Tại sao ?Vì trong hội nầy
có năm trăm Tỳ kheo nghe pháp môn ấy chẳng thể tín thọ khởi lòng phỉ báng liền
tự thấy thân mình ở đại địa ngục ’’.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói với Tôn giả Xá Lợi Phất :
« Nay Tôn giả chẳng nên vọng sanh phân biệt. Tại sao ? Vì nhẫn đến không có một
pháp đọa địa ngục, vì tất cả các pháp vô sanh vậy. Nay sao Tôn giả bỗng bảo tôi
thôi chớ tuyên pháp môn ấy. Nầy Tôn giả ! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn y
chỉ ngã kiến y chỉ chúng sanh nhơn thọ mạng kiến dầu có trọn đời cúng dường tất
cả bửu vật đồ dùng cho chư Phật và Tỳ Kheo Tăng mà chẳng được nghe pháp thậm thâm
nầy thì trọn chẳng giải thoát mau chứng Niết bàn. Nếu lại có người nghe tôi nói
pháp thậm thâm không vô tướng vô nguyện vô tác tịch tĩnh vô sanh vô diệt vô ngã
nhơn chúng sanh thọ mạng vô thường khổ vô ngã, họ nghe rồi không tín thọ phỉ
báng mà đọa địa ngục, nhưng nầy Tôn giả, vì họ được nghe pháp thậm thâm nên dầu
đọa địa ngục sau khi ra khỏi địa ngục mau được Niết bàn”.
Đức Phật khen rằng :” Lành thay lành thay, đúng như
lời của Văn Thù Sư Lợi . Nếu ai được nghe kinh điển thậm thâm nầy thì đồng như
được gặp Phật xuât thế. Tại sao ? Vì người muốn chứng Tu Đà Hoàn quả cần phải
do kinh nầy, người muốn chứng Tư Đà Hàm A Na Hàm và A La Hán đều phải nghe kinh
nầy. Tại sao ? Vì chẳng chấp ngã mới chứng được pháp. Vì lúc chứng pháp không
có sở kiến không có sở đắc vậy”.
Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá Lợi Phất : “Ông nên biết
năm trăm Tỳ kheo ấy dầu đọa địa ngục sau nầy ra khỏi địa ngục họ mau chứng Niết
bàn, chẳng phải kẻ phàm phu ngu si kia chìm nơi kiến chấp sa vào lòng
nghi cúng dường Như Lai mà được giải thoát.
Nầy Xá Lợi Phất ! Chư tỳ kheo ấy còn nhơn nghe pháp
thậm thâm nầy ngày sau sẽ được giải thoát mau chứng Niết bàn, chẳng phải người
khác mau được giải thoát. Tại sao ? Vì chẳng được nghe pháp thậm thâm nầy vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu thiện nam tử thiện nữ nhơn
được nghe pháp môn thậm thâm nầy một lần qua tai, dầu họ chẳng tin thọ bị đọa
địa ngục nhưng sẽ mau được giải thoát. Còn kẻ chấp kiến bị đọa địa ngục thì
chưa giải thoát được”.