- Lời Nói Đầu Của Dịch Gỉa
- 01. Pháp Hội Tam Tụ Luật Nghi
- 02. Pháp Hội Vô Biên Trang Nghiêm
- 03. Pháp Hội Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ
- 04. Pháp Hội Tịnh Cư Thiên Tử
- 05. Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai
- 06. Pháp Hội Bất Động Như Lai
- 07. Pháp Hội Mặc Giáp Trang Nghiêm
- 08. Pháp Hội Pháp Giới Thể Tánh Vô Phân Biệt
- 09. Pháp Hội Đại Thừa Thập Pháp
- 10. Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Phổ Môn
- 11. Pháp Hội Xuất Hiện Quang Minh
- 12. Pháp Hội Bồ Tát Tạng
- 12.01. Phẩm Khai Hoá Trưởng Giả Thứ Nhất
- 12.02. Phảm Kim Tỳ La Thiên Thọ Ký Thứ Hai
- 12.03. Phẩm Thí Nghiệm Bồ Tát Thứ Ba
- 12.04. Phẩm Như Lai Bất Tư Nghì Tánh Thứ Tư
- 12.05. Phẩm Tứ Vô Lượng Thứ Năm
- 12.06. Phẩm Đàn Na Ba La Mật Đa Thứ Sáu
- 12.07. Phẩm Thi La Ba La Mật Thứ Bẩy
- 12.08. Phẩm Sằn Đề Ba La Mật Thứ Tám
- 12.09. Phẩm Tỳ Lê Gia Ba La Mật Thứ Chín
- 12.10. Phẩm Tĩnh Lự Ba La Mật Thứ Mười
- 12.11. Phẩm Bát Nhã Ba La Mật Thứ Mười Một
- 12.12. Phẩm Đại Tự Tại Thiên Thọ Ký Thứ Mười Hai
- 13. Pháp Hội Phật Thuyết Nhơn Xử Thái
- 14. Pháp Hội Phật Thuyết Nhập Thai Tạng
- 15. Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký
- 16. Pháp Hội Bồ Tát Kiến Thiệt
- 16.01. Phẩm Tự
- 16.02. Phẩm Tịnh Phạn Vương Đến Phật
- 16.03. Phẩm A Tu La Vương Thọ Ký
- 16-04 Phẩm Bổn Sự
- 16-05 Phẩm Ca Lâu La Vương Thọ Ký
- 16-06 Phẩm Long Nữ Thọ Ký
- 16-07 Phẩm Long Vương Thọ Ký
- 16-08 Phẩm Cưu Bàn Trà Thọ Ký
- 16-09 Phẩm Càn Thát Bà Thọ Ký
- 16-10 Phẩm Dạ Xoa Thọ Ký
- 16-11 Phẩm Khẩn Na La Vương Thọ Ký
- 16-12 Phẩm Hư Không Hành Thiên Thọ Ký
- 16-13 Phẩm Tứ Thiên Vương Thọ Ký
- 16-14 Phẩm Tam Thập Tam Thiên Thọ Ký
- 16-15 Phẩm Dạ Ma Thiên Thọ Ký
- 16-16 Phẩm Đâu Xuất Đà Thiên Thọ Ký
- 16-17 Phẩm Hoá Lạc Thiên Thọ Ký
- 16-18 Phẩm Tha Hoá Tự Tại Thiên Thọ Ký
- 16-19 Phẩm Chư Phạm Thiên Thọ Ký
- 16-20 Phẩm Quang Âm Thiên Thọ Ký
- 16-21 Phẩm Biến Tịnh Thiên Thọ Ký
- 16-22 Phẩm Quảng Quả Thiên Thọ Ký
- 16-23 Phẩm Tịnh Cư Thiên Tử Tán Kệ
- 16-24 Phẩm Giá La Ca Ba Lợi Bà La Xà Ca Ngoại Đạo
- 16-25 Phẩm Lục Giới Sai Biệt
- 16-26 Phẩm Tứ Chuyển Luân Vương
- 17. Pháp Hội Phú Lâu Na
- 18. Pháp Hội Hộ Quốc Bồ Tát
- 19. Pháp Hội Úc Già Trưởng Lão
- 20. Pháp Hội Vô Tận Phục Tạng
- 21. Pháp Hội Thọ Ký Ảo Sư Bạt Đà La
- 22. Pháp Hội Đại Thần Biến
- 23. Pháp Hội Ma Ha Ca Diếp
- 24. Pháp Hội Ưu Ba Ly
- 25. Pháp Hội Phát Thắng Chí Nguyện
- 26-pháp Hội Thiện Tý Bồ Tát
- 27-pháp Hội Thiện Thuận Bồ Tát
- 28-pháp Hội Dũng Mãnh Thọ Trưởng Gỉa
- 29-pháp Hội Ưu Đà Diên Vương
- 30-pháp Hội Diệu Huệ Đồng Nữ
- 31-pháp Hội Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di
- 32-pháp Hội Vô Uý Đức Bồ Tát
- 33-pháp Hội Vô Cấu Thí Bồ Tát Ứng Biện
- 34-pháp Hội Công Đức Bửu Hoa Phu Bồ Tát
- 35-pháp Hội Thiện Đức Thiên Tử
- 36-pháp Hội Thiện Trụ Ý Thiên Tử
- 36-01-phẩm Duyên Khởi
- 36-02-phẩm Khai Thiệt Nghĩa
- 36-03-phẩm Văn Thù Thần Biến
- 36-04-phẩm Phá Ma
- 36-05-phẩm Bồ Tát Thân Hành
- 36-06-phẩm Bồ Tát Tướng
- 36-07-phẩm Nhị Thừa Tướng
- 36-08-phẩm Phàm Phu Tướng
- 36-09-phẩm Thần Thông Chứng Thuyết
- 36-10-phẩm Xưng Tán Phó Pháp
- 37-pháp Hội A Xà Thế Vương Tử
- 38-pháp Hội Đại Thừa Phương Tiện
- 39-pháp Hội Hiền Hộ Trưởng Gỉa
- 40-pháp Hội Tịnh Tín Đồng Nữ
- 41. Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Vấn Bát Pháp
- 42. Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Vấn Sở Vấn
- 43. Pháp Hội Phổ Minh Bồ Tát
- 44. Pháp Hội Bửu Lương Tụ:
- 44.01 Phẩm Sa Môn Thứ Nhất
- 44.02 Phẩm Tỳ Kheo Thứ Hai
- 44.03 Phẩm Chiên Đà La Sa Môn Thứ Ba
- 44.04 Phẩm Doanh Sự Tỳ Kheo Thứ Tư
- 44.05 Phẩm A Lan Nhã Tỳ Kheo Thứ Năm
- 44.06 Phẩm Tỳ Kheo Khất Thực Thứ Sáu
- 44.07 Phẩm Phất Tảo y Tỳ Kheo Thứ Bảy
- 45. Pháp Hội Vô Tận Huệ Bồ Tát
- 46. Pháp Hội Văn Thù Thuyết Bát Nhã
- 47. Pháp Hội Bửu Kế Bồ Tát
- 48. Pháp Hội Thắng Man Phu Nhân
- 49. Pháp Hội Quảng Bác Tiên Nhân
- 50. Pháp Hội Nhập Phật Cảnh Giới Trí Quang Minh Trang Nghiêm
- 51. Pháp Hội Tự Tại Vương Bồ Tát
- 52. Pháp Hội Bửu Nữ
- 53. Pháp Hội Bất Thuần Bồ Tát
- 54. Pháp Hội Hải Huệ Bồ Tát
- 55. Pháp Hội Hư Không Tạng Bồ Tát
- 56. Pháp Hội Vô Ngôn Bồ Tát
- 57. Pháp Hội Bất Khả Thuyết Bồ Tát
- 58. Pháp Hội Bửu Tràng
- 59. Pháp Hội Hư Không Mục
- 60. Pháp Hội Nhựt Mật Bồ Tát
- 61. Pháp Hội Vô Tận Ý Bồ Tát
- 62. Pháp Hội Quán Vô Lượng Thọ Phật
- Lời Ghi Nhận Sau Kinh Của Người Dịch
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch:
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản:
Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XLII
PHÁP HỘI DI LẶC BỒ TÁT SỞ
VẤN
THỨ BỐN MƯƠI HAI
Hán Dịch: Nhà
Đường, Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt Dịch: Việt
Như vầy tôi nghe một lúc đức Phật ở nước Ba La Nại trong rừng Thí Lộc cùng chúng đại Tỳ kheo năm trăm người câu hội, tất cả đều là tri thức của đại chúng, danh hiệu các Ngài là:
A Nhã Kiều Trần Như, Ma Ha Ca Diếp, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Già Gia Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, A Nan, La Hầu La v.v... làm thượng thủ.
Còn có một vạn đại Bồ tát câu hội. Danh hiệu các Ngài là:
Thiện Ý Bồ tát, Tăng Thượng Ý Bồ tát, Kiên Cố Ý Bồ tát, Sư Tử Ý Bồ tát, Quan Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, Biện Tích Bồ tát, Mỹ Âm Bồ tát, Thắng Tràng Bồ tát, Tín Huệ Bồ tát, Thủy Thiên Bồ tát, Đế Thắng Bồ tát, Đế Thiên Bồ tát, Vô Phan Duyên Bồ tát, Cụ Biện Tài Bồ tát, Thần Thông Diệu Hoa Bồ tát, Di Lặc Bồ tát, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử v.v... làm thượng thủ.
Đức Thế Tôn có vô lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh cúng dường cung kính mà vì họ thuyết pháp.
Bấy giờ Di Lặc Bồ tát ở trong chúng đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất đảnh lễ chắp tay mà bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi có chút nghi nay muốn thỉnh hỏi Như Lai, ngưỡng mong cho phép”.
Đức Phật dậy:
“Nầy Di Lặc! Nếu có chỗ nghi cho phép ông hỏi, ta sẽ giải nói cho ông vui
mừng”.
Được Phật hứa
cho, Di Lặc Bồ tát vui mừng hớn hở bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Bồ tát
thành tựu mấy pháp được lìa ác đạo và ác tri thức mà mau chứng Vô thượng Bồ
đề?”.
Đức Phật dạy: “Lành thay, lành thay, nầy Di Lặc! Nay ông thương xót tất cả muốn lợi ích an vui cho Trời Người mà hỏi nơi Như Lai về thâm nghĩa ấy. Ông nên lắng nghe khéo suy nghĩ, ta sẽ vì ông mà phân biệt giải nói.
- Vâng bạch đức Thế Tôn! Tôi xin ưa thích được nghe.
- Nầy Di Lặc! Có một pháp mà Bồ tát thành tựu thì lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Đó là phát tâm Bồ đề ý nguyện thù thắng.
Còn có hai pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là với xa ma tha thường siêng tu tập, hai là với tỳ bát xá na thì được thiện xảo.
Còn có ba pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là thành tựu đại bi, hai là tu tập pháp không, ba là nơi tất cả pháp chẳng sanh phân biệt.
Còn có bốn pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là an trụ tịnh giới, hai là lìa các lưới nghi, ba là thích a lan nhã, bốn là khởi tâm chánh kiến.
Còn có năm pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là an trụ pháp không, hai là chẳng cầu tìm lỗi người, ba là thường tự quan sát, bốn là yêu thích chánh pháp, năm là nhiếp hộ người.
Còn có sáu pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là không có tham dục, hai là chẳng sanh sân khuể, ba là chẳng khởi ngu si, bốn là thường lìa thô ngữ, năm là an trụ tánh không, sáu là tâm như hư không.
Còn có bảy pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là an trụ chánh niệm, hai là thành tựu trạch pháp, ba là phát khởi tinh tiến, bốn là thường sanh hoan hỷ, năm là thân được khinh an, sáu là trụ các thiền định, bảy là có đủ hành xả.
Còn có tám pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là chánh kiến, hai là chánh tư duy, ba là chánh ngữ, bốn là chánh nghiệp, năm là chánh mạng, sáu là chánh tinh tiến, bảy là chánh niệm và tám là chánh định.
Còn có chín pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng Vô thượng Bồ đề. Một là xa lìa các pháp tham dục, ác bất thiện mà an trụ sơ thiền tầm từ hỉ lạc tâm nhứt cảnh tánh. Hai là xa lìa tầm từ an trụ nhị thiền nội tịnh hỉ lạc tâm nhứt cảnh tánh. Ba là xa lìa hỉ an trụ tam thiền xả niệm huệ lạc tâm nhứt cảnh tánh. Bốn là xa lìa ưu khổ và hỉ lạc an trụ tứ thiền xả niệm thanh tịnh vô khổ vô lạc tâm nhứt cảnh tánh. Năm là vượt quá sắc tưởng không phan duyên dị biệt an trụ vô biên hư không xứ định. Sáu là vượt qua vô biên hư không xứ định rồi có thể an trụ vô biên thức xứ định. Bảy là vượt qua vô biên thức xứ định rồi có thể an trụ vô sở hữu xứ định. Tám là vượt qua vô sở hữu xứ định rồi có thể an trụ phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Chín là vượt qua phi tưởng phi phi tưởng xứ định rồi có thể an trụ diệt thọ tưởng định.
Còn có mười pháp xa lìa ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là khéo có thể thành tựu kim cương tam muội. Hai là thành tựu xứ phi xứ tương ưng tam muội. Ba là thành tựu phương tiện hành tam muội. Bốn là thành tựu biến chiếu minh tam muội. Năm là thành tựu phổ quang minh tam muội. Sáu là thành tựu phổ biến chiếu minh tam muội. Bảy là thành tựu bửu nguyệt tam muội. Tám là thành tựu nguyệt đăng tam muội. Chín là thành tựu xuất ly tam muội. Mười là thành tựu thắng tràng tý ấn tam muội.
Nầy Di Lặc! Thành tựu các pháp như vậy rồi, Bồ tát lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề”.
Được nghe pháp rồi, Di Lặc Bồ tát rất vui mừng trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay cung kính ở trước Phật nói kệ tán thán:
“Phật ở kiếp
quá khứ
Bỏ vợ con yêu
thương
Đầu mắt và xương
tủy
Đến bờ kia bố
thí
Phật thường hộ
cấm giới
Như trâu mao mến
đuôi
Tối thắng không
ngang sánh
Đến bờ kia trì
giới
Phật dùng sức
nhẫn nhục
Bỏ lìa các đấu
tranh
Chẳng cầu tìm
lỗi người
Đến bờ kia nhẫn
nhục
Phật dùng sức
tinh tiến
Được vô thượng
tịch tĩnh
Cứu cánh thường
an vui
Đến bờ kia tinh
tiến
Phật dùng sức
thiền định
Hay diệt trừ tội
nhơ
Làm Đạo Sư Trời
Người
Đến bờ kia thiền
định
Phật dùng sức
trí huệ
Khéo biết rõ các
pháp
Tự tánh vô sở
hữu
Đến bờ kia Bát
nhã
Phật tại Bồ đề
thọ
Hàng phục các
quân ma
Đầy đủ trí tối
thắng
Thành tựu đạo vô
thượng
Đạo Sư sức vô úy
Nơi nước Ba La
Nại
Chuyển pháp luân
thanh tịnh
Dẹp phá các ngoại
đạo
Trí huệ lớn vô
thượng
Ra khỏi các thế
gian
Hay phóng tịnh
quang minh
Khéo nói các
pháp yếu
Như Lai sắc
thanh tịnh
Trí huệ và công
đức
Vượt quá các thế
gian
Hay đến nơi bờ
kia”.
Trưởng lão A Nan bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Di Lặc Bồ tát nầy rất hi hữu hay thành tựu vô lượng biện tài tùy theo tâm niệm của chúng sanh mà bình đẳng thuyết pháp, nhưng đối với văn tự không có chỗ buộc dính”.
Đức Phật dạy: “Đúng như vậy, đúng như lời ông nói. Nầy A Nan! Di Lặc Bồ tát đâu phải chỉ có hôm nay ở trước ta nói kệ tán thán đức Phật, mà từ quá khứ mười vô số kiếp, thuở ấy có Phật xuất thế hiệu Diệm Quang Du Hí Diệu Âm Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Bấy giờ có một Bà La Môn tên Hiền Thọ thân tướng đầy đủ ai thấy cũng đều vui mừng, từ trong vườn đi ra thấy đức Như Lai đoan chánh thù diệu các căn tịch tĩnh được xa ma tha như ao nước trong sạch không bợn nhơ, có ba mươi hai tướng và tám mươi tùy hảo để tự trang nghiêm, như cây ta la nở hoa, như núi Tu Di cao vọt hơn cả, vẻ mặt tươi vui như trăng tròn, chiếu sáng rực rỡ như mặt nhựt tỏ rạng, thân hình tròn trịa như cây ni câu đà.
Thấy tướng thù thắng của Phật Như Lai, Hiền Thọ sanh lòng tịnh tín suy nghĩ rằng: Hi hữu Thế Tôn hay thành tựu vô lượng công đức trang nghiêm như vậy. Tôi cũng nguyện tương lai cũng thành tựu thân công đức như vậy.
Phát nguyện xong, Hiền Thọ reo mình xuống đất lại tự nghĩ rằng: Nếu đời đương lai tôi sẽ được thân Phật nguyện chưn Như Lai đạp lên mình tôi.
Biết ý nghĩ ấy, đức Phật Như Lai liền lấy chưn mình dẫm lên thân Hiền Thọ. Lúc đức Phật Như Lai hạ chưn xuống, Hiền Thọ được vô sanh pháp nhẫn. Đức Phật Như Lai ngó ngoái lại bảo chúng Tỳ kheo rằng các ông chớ đạp lên mình Hiền Thọ, tại sao, vì đây là đại Bồ tát nay đã chứng vô sanh pháp nhẫn, lại hay thành tựu thiên nhãn thiên nhĩ tha tâm túc thần cảnh trí thông.
Hiền Thọ liền ở trước đức Phật Diệm Quang nói kệ tán thán rằng:
Phật ở mười
phương cõi
Tối tôn tối vô
thượng
Siêu quá các thế
gian
Nay tôi cúi đầu
lạy
Như Lai đại
quang minh
Chói che cả nhựt
nguyệt
Siêu quá các thế
gian
Nay tôi cúi đầu
lạy
Ví như sư tử
hống
Muôn thú điều
kinh sợ
Thế Tôn đại oai
đức
Xô dẹp các ngoại
đạo
Tướng lông trắng
giữa mày
Trong sáng như
pha lê
Chiếu khắp các
thế gian
Siêu quá hơn tất
cả
Thế Tôn không ai
bằng
Lòng chưn thiên
bức luân
Thanh tịnh hóa
thế gian
Hay chấn động
trời đất
Thành tựu đạo
xuất ly
Siêu quá biển
phiền não
Đem các của công
đức
Tùy ý ban tất cả
Như Lai giới
thanh tịnh
Xuất sanh các
công đức
Không có lòng
thương ghét
Dường như cõi
đại địa
Do nơi sức trí
huệ
Biết rõ các pháp
không
Chúng sanh và
tghọ giả
Phân biệt bất
khả đắc
Khéo rành tánh
chúng sanh
Tâm hành và sở
nguyện
Làm đèn sáng cho
đời
Lợi ích tất cả
loài
Thế gian khổ bức
bách
Trôi chìm trong
dòng sâu
Phật thường vì
chúng sanh
Phát sức tinh
tiến lớn
Thế Tôn lìa
phiền não
Sanh lão và bịnh
tử
Ở đời như hư
không
Tất cả không
nhiễm ô
Trí huệ oai
quang lớn
Hay phá tất cả
tối
Lìa hẳn tham sân
si
Nay tôi cúi đầu
lạy.
Hiền Thọ Bồ tát được thần thông đến nay chẳng còn thối thất. Nầy A Nan! Hiền Thọ thuở ấy chính là Di Lặc đại Bồ tát nay ở trong hội nầy vậy.
- Bạch đức Thế tôn! Di Lặc đại Bồ tát từ lâu đã chứng vô sanh pháp nhẫn cớ sao chẳng được Vô thượng Bồ đề?
- Nầy A Nan! Bồ tát có hai thứ trang nghiêm và hai thứ nhiếp thủ. Đó là nhiếp thủ chúng sanh và trang nghiêm chúng sanh, nhiếp thủ Phật quốc và trang nghiêm Phật quốc.
Thuở quá khứ
lúc tu Bồ tát hạnh, Di Lặc Bồ tát thường thích nhiếp thủ và trang nghiêm Phật
quốc, còn ta thì thường ưa nhiếp thủ và trang nghiêm chúng sanh. Di Lặc Bồ tát
tu Bồ tát hạnh trải qua bốn mươi kiếp bấy giờ ta mới phát tâm Vô thượng Bồ đề,
do vì ta có sức dũng mãnh tinh tiến nên siêu việt chín kiếp, ở trong Hiền kiếp
nầy thành Vô thượng Bồ đề.
Nầy A Nan! Ta do
mười pháp mà chứng Bồ đề: Một là hay xả thí vật sở ái, hai là hay thí vợ sở ái,
ba là hay thí con sở ái, bốn là hay thí đầu sở ái, năm la hay thí mắt sở ái, sáu
là hay thí ngôi vua sở ái, bảy là hay thí trân bửu sở ái, tám là hay thí máu thịt
sở ái, chín là hay thí xương tủy sở ái, mười là hay thí thân phần sở ái. Ta
thật hành mười pháp nầy mà được Vô thượng Bồ đề.
Nầy A Nan! Còn có mười pháp hay chứng Bồ đề: Một là hộ giới công đức, hai là thành tựu nhẫn nhục, ba là phát khởi tinh tiến, bốn là được các thiền định, năm là có đại trí huệ, sáu là thường chẳng bỏ lìa các chúng sanh, bảy là khởi tâm bình đẳng đối với chúng sanh, tám là thường tu tập pháp không, chín là khéo hay thành tựu tánh không chơn thiệt, mười là khéo hay thành tựu vô tướng vô nguyện. Ta thật hành mười pháp nầy mà được Vô thượng Bồ đề.
Nầy A Nan! Thuở quá khứ lúc hành đạo Bồ tát, Di Lặc Bồ tát chẳng có thể xả thí tay chưn đầu mắt, chỉ dùng thiện xảo phương tiện đạo hạnh an lạc mà tích tập Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là Di Lặc Bồ tát thuở quá khứ lúc hành đạo Bồ tát chỉ dùng thiện xảo phương tiện đạo hạnh an lạc mà tích tập Vô thượng Bồ đề?
- Nầy A nan! Thuở quá khứ lúc hành đạo Bồ tát, Di Lặc ngày đêm sáu thời trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay đảnh lễ ở trước chư Phật mà nói kệ rằng:
Nay tôi quy
mạng lễ
Tất cả Phật mười
phương
Bồ tát
chúngThanh văn
Đấng đại tiên
thiên nhãn
Cùng lễ tâm Bồ
đề
Lìa xa các ác
đạo
Hay được sanh
lên trời
Nhẫn đến chứng
Niết bàn
Nếu tôi phạm
chút tội
Theo tâm mà sanh
ra
Nay tôi ở trước
Phật
Sám hối cho tiêu
diệt
Nay thân khẩu ý
tôi
Chứa họp các
công đức
Nguyện làm nhơn
Bồ đề
Sẽ thành đạo Vô
thượng
Trong quốc độ
mười phương
Những người cúng
dường Phật
Và Phật vô
thượng trí
Nay tôi đều tùy
hỉ
Có tội đều sám
hối
Phước đức đều
tùy hỉ
Nay tôi lễ chư
Phật
Nguyện thành trí
vô thượng
Chư Bồ tát mười
phương
Chứng được bực
thập địa
Nay tôi cúi đầu
lạy
Nguyện mau chứng
Bồ đề
Được chứng Bồ đề
rồi
Xô dẹp các quân
ma
Chuyển pháp luân
thanh tịnh
Lợi ích loài
chúng sanh
Thường nguyện ở
thế gian
Vô lượng câu chi
kiếp
Gióng trống pháp
lớn lên
Độ thoát khổ
chúng sanh
Tôi bị ngập bùn
dục
Bị dây tham trói
buộc
Nhiều các thứ
triền phược
Nguyện Phật
thương xem xét
Chúng sanh dầu tội
nặng
Chư Phật chẳng
chán bỏ
Nguyện dùng đại
từ bi
Độ thoát biển
sanh tử
Hiện tại chư Thế
tôn
Quá khứ vị lai
Phật
Bồ tát đạo đã
làm
Nay tôi nguyện
tu học
Đầy đủ Ba la mật
Thành tựu sáu
thần thông
Độ thoát các
chúng sanh
Chứng được đạo
vô thượng
Biết rõ các pháp
không
Không trụ không
biểu thị
Chẳng sanh cũng
chẳng diệt
Lại như đấng Đại
Tiên
Khéo rõ pháp vô
ngã
Không bổ đặc già
la
Nhẫn đến không
thọ giả
Nơi các sự bố
thí
Chẳng chấp ngã
ngã sở
Vì an lạc chúng
sanh
Thí cho không
bỏn xẻn
Nguyệt vật tôi
bố thí
Chẳng cần công
dụng sanh
Quan sát biết rõ
không
Đủ Thí ba la
mật
Trì giới không
khuyết giảm
Được Phật tịnh
thi la
Do vì vô sở trụ
Đủ giới Ba la
mật
Nhẫn nhục như tứ
đại
Chẳng sanh tâm
phân biệt
Do vì không sân
khuể
Đủ Nhẫn ba la
mật
Nguyện dùng sức
thân tâm
Phát khởi đại
tinh tiến
Kiên cố không
giải đãi
Đủ Cần ba la mật
Do như huyễn như
hóa
Và dũng mãnh
tinh tiến
Kim cương các
tam muội
Đủ Thiển ba la
mật
Nguyện chứng tam
muội trí
Nhập vào tam
giải thoát
Rõ tam thế bình
đẳng
Đủ Huệ Ba la mật
Chư Phật diệu
sắc thân
Quang minh oai
đức lớn
Bồ tát tinh tiến
hạnh
Nguyện tôi đều
tròn đầy
Di Lặc Bồ tát ấy
Siêng tu hạnh
như vậy
Đủ sáu Ba la mật
An trụ bực thập
địa.
Nầy A Nan! Di Lặc Bồ tát an trụ thiện xảo phương tiện như vậy tích tập Vô thượng bồ đề.
Nầy A Nan! Thuở xưa ta cầu đạo nhận lấy vô lượng khổ mới có thể tích tập Vô thượng Bồ đề.
Thuở xa xưa có Thái tử tên Kiên Nhứt Thiết Nghĩa đoan chánh đẹp lạ có đủ các tướng tốt ai thấy cũng đều vui mừng. Một hôm Thái tử du ngoạn thấy một bịnh nhơn đau khổ nặng, Thái tử xót thương hỏi thăm: Nay bịnh nầy của ngươi há lại không có thuốc để chữa lành sao? Bịnh nhơn nói kệ đáp Thái tử:
Bịnh tôi khó
tìm thuốc
Thế gian chẳng
có được
Huống là kẻ mắc
bịnh
Người giỏi nói y
phương
Thông đạt các
sách vở
Dầu muốn trị
bịnh nầy
Thuốc ấy khó có
được.
Thái tử nói kệ bảo bịnh nhơn:
Vàng bạc châu
ma ni
Nhẫn đến các voi
ngựa
Cần gì xin người
nói
Để trừ khổ cho
người.
Bịnh nhơn lại nói kệ bạch Thái tử:
Nếu uống huyết
Thái tử
Chắc tôi được an
vui
Xin Thái tử vui
lòng
Cho tôi hết đau
khổ.
Thái tử liền nói kệ bảo bịnh nhơn:
Nếu tôi vì
chúng sanh
Mà phải đọa địa
ngục
Nhiều kiếp còn
chịu được
Huống là thân
huyết nầy.
Lúc Thái tử lấy dao bén đâm vào thân chảy máu bảo bịnh nhơn tùy ý uống chẳng hề có một niệm hối hận.
Nầy A Nan! Thái tử Kiến Nhứt Thiết Nghĩa thuở xưa kia chính là thân ta vậy. Nước bốn đại hải còn có thể đong lường, lúc hành đạo Bồ tát ta xả thí máu nơi thân mình chẳng tính kể được.
Nầy A Nan! Thuở xa xưa có Thái tử tên Diệu Hoa đoan chánh đẹp lạ đủ các tướng tốt người thấy vui mừng. Một hôm Thái tử du ngoạn thấy một bịnh nhơn ốm gầy sanh lòng thương hỏi thăm: Nay bịnh của ngươi há lại không có thuốc chữa lành sao?
Bịnh nhơn nói kệ bạch Thái tử:
Thế gian có
lương y
Chẳng chữa được
bịnh
tôi
Xin Ngài rủ lòng
thương
Trừ đau khổ cho
tôi
Thái tử nói kệ bảo bịnh nhơn:
Tất cả đều bố
thí
Thân phần và trân
bửu
Cần gì xin người
nói.
Bịnh nhơn nói kệ bạch Thái tử:
Ví như đại
dược vương
Tùy ý chữa lành
bịnh
Cũng như nhựt
nguyệt sáng
Chiếu khắp các
thế gian
Nếu được tủy
thân Ngài
Thoa khắp thân
thể tôi
Bịnh nầy sẽ tiêu
trừ
Mãi mãi được an
vui.
Thái tử liền nói
kệ bảo bịnh nhơn;
Nếu có các
chúng sanh
Đập thân tôi lấy
tủy
Vì lợi ích thế
gian
Lòng tôi chẳng
ưu não.
Thái tử liền tự đập nát thân lấy tủy cho bịnh nhơn tùy ý dùng không có chút niệm hối hận.
Nầy A Nan! Nên biết thuở xưa Thái tử Diệu Hoa kia chính là thân ta. Nước bốn đại hải có thể đong lường, thuở xưa ta hành đạo Bồ tát xả thí xương tủy nơi thân mình không thể tính kể được.
Nầy A Nan! Thuở xa xưa có Quốc vương tên Nguyệt Quang đoan chánh đẹp lạ đủ tướng tốt người thấy vui mừng, du ngoạn thấy một người mù ăn xin, chạnh lòng thương nhà vua hỏi: Người cần dùng gì ta sẽ cấp cho, hoặc đồ ăn uống y phục đồ trang sức châu ngọc trân bửu, tùy ý người muốn đều sẽ được ban.
Người mù nói kệ bạch Quốc vương:
Đại vương như
nhựt nguyệt
Quang minh soi
thế gian
Đầy đủ thắng
công đức
Chẳng lâu sanh
lên trời
Tất cả màu sắc
đẹp
Nay tôi đều
chẳng thấy
Xin vua đại từ
bi
Ban tôi mắt của
vua.
Quốc vương nói kệ đáp người mù:
Người mau đến
lấy mắt
Cho người được
an vui
Người tôi đến
đời sau
Được mắt Phật
thanh tịnh
Tôi hành đạo Bồ
tát
Tất cả đều xả
thí
Nếu tôi chẳng
cho người
Thì trái với bổn
nguyện.
Vua Nguyệt Quang liền tự móc tròng mắt mình thí cho người mù tùy ý dùng chẳng có một niệm hối hận. Nầy A Nan! Nên biết thuở xưa vua Nguyệt Quang kia chính là thân ta. Núi Tu Di còn có thể đo lường, lúc ta hành đạo Bồ tát bố thí con mắt của mình chẳng thể kể đếm được.
Nầy A Nan! Di Lặc Bồ tát lúc hành đạo Bồ tát có phát nguyện rằng: Nếu các chúng sanh tham sân si mỏng thành tựu thập thiện bấy giờ tôi sẽ thành Vô thượng Bồ đề.
Nầy A Nan! Đời đương lai có thuở các chúng sanh tham sân si mỏng thành tựu thập thiện, bấy giờ Di Lặc Bồ tát sẽ thành Vô thượng Bồ đề. Tại sao, vì do nơi bổn nguyện lực của Bồ tát vậy.
Nầy A Nan! Thuở xưa lúc hành đạo Bồ tát, ta phát lời rằng: Tôi nguyện sẽ ở nơi đời ác ngũ trược các chúng sanh ác tham sân si nặng, họ chẳng hiếu với cha mẹ chẳng kính bực tôn trưởng, nhẫn đến quyến thuộc chẳng hòa thuận nhau, bấy giờ tôi sẽ thành Vô thượng Bồ đề. Do bổn nguyện như vậy nên nay ta vào thành ấp tụ lạc, có nhiều chúng sanh khi mắng ta, họ dùng pháp đoạn pháp thường tụ chúng hội họp. Hoặc lúc ta đi khất thực, họ rải đất bụi, họ trộn thuốc độc cho ta ăn. Hoặc họ dùng nữ nhơn hủy báng ta.
Nầy A Nan! Nay ta do sức bổn nguyện khởi tâm đại bi vì các chúng sanh ấy thuyết pháp”.
Trưởng lão A Nan bạch rằng: Bạch đức Thế Tôn! Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác hay làm việc khó hay nhẫn việc khó, người chẳng điều phục đều khiến điều phục, mang gánh những chúng sanh tội cấu như vậy mà thuyết pháp cho họ”.
Đức Phật dạy: “Đúng như lời ông nói. Tại sao, vì do đại bi của Như Lai nhiếp lấy vậy.
- Bạch đức Thế Tôn! Tôi nghe thệ nguyện vững chắc của đức Như Lai mà toàn thân lông dựng đứng. Bạch đức Thế Tôn! Kinh nầy tên là gì, chúng tôi phải phụng trì thế nào?
- Nầy A
Đức Phật nói kinh nầy rồi, Di Lặc Bồ tát, Tôn giả A Nan, tất cả thế gian Trời, Người, A Tu La v.v... nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
PHÁP HỘI DI
LẶC BỒ TÁT SỞ VẤN
THỨ BỐN MƯƠI
HAI
HẾT