- Lời Nói Đầu Của Dịch Gỉa
- 01. Pháp Hội Tam Tụ Luật Nghi
- 02. Pháp Hội Vô Biên Trang Nghiêm
- 03. Pháp Hội Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ
- 04. Pháp Hội Tịnh Cư Thiên Tử
- 05. Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai
- 06. Pháp Hội Bất Động Như Lai
- 07. Pháp Hội Mặc Giáp Trang Nghiêm
- 08. Pháp Hội Pháp Giới Thể Tánh Vô Phân Biệt
- 09. Pháp Hội Đại Thừa Thập Pháp
- 10. Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Phổ Môn
- 11. Pháp Hội Xuất Hiện Quang Minh
- 12. Pháp Hội Bồ Tát Tạng
- 12.01. Phẩm Khai Hoá Trưởng Giả Thứ Nhất
- 12.02. Phảm Kim Tỳ La Thiên Thọ Ký Thứ Hai
- 12.03. Phẩm Thí Nghiệm Bồ Tát Thứ Ba
- 12.04. Phẩm Như Lai Bất Tư Nghì Tánh Thứ Tư
- 12.05. Phẩm Tứ Vô Lượng Thứ Năm
- 12.06. Phẩm Đàn Na Ba La Mật Đa Thứ Sáu
- 12.07. Phẩm Thi La Ba La Mật Thứ Bẩy
- 12.08. Phẩm Sằn Đề Ba La Mật Thứ Tám
- 12.09. Phẩm Tỳ Lê Gia Ba La Mật Thứ Chín
- 12.10. Phẩm Tĩnh Lự Ba La Mật Thứ Mười
- 12.11. Phẩm Bát Nhã Ba La Mật Thứ Mười Một
- 12.12. Phẩm Đại Tự Tại Thiên Thọ Ký Thứ Mười Hai
- 13. Pháp Hội Phật Thuyết Nhơn Xử Thái
- 14. Pháp Hội Phật Thuyết Nhập Thai Tạng
- 15. Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký
- 16. Pháp Hội Bồ Tát Kiến Thiệt
- 16.01. Phẩm Tự
- 16.02. Phẩm Tịnh Phạn Vương Đến Phật
- 16.03. Phẩm A Tu La Vương Thọ Ký
- 16-04 Phẩm Bổn Sự
- 16-05 Phẩm Ca Lâu La Vương Thọ Ký
- 16-06 Phẩm Long Nữ Thọ Ký
- 16-07 Phẩm Long Vương Thọ Ký
- 16-08 Phẩm Cưu Bàn Trà Thọ Ký
- 16-09 Phẩm Càn Thát Bà Thọ Ký
- 16-10 Phẩm Dạ Xoa Thọ Ký
- 16-11 Phẩm Khẩn Na La Vương Thọ Ký
- 16-12 Phẩm Hư Không Hành Thiên Thọ Ký
- 16-13 Phẩm Tứ Thiên Vương Thọ Ký
- 16-14 Phẩm Tam Thập Tam Thiên Thọ Ký
- 16-15 Phẩm Dạ Ma Thiên Thọ Ký
- 16-16 Phẩm Đâu Xuất Đà Thiên Thọ Ký
- 16-17 Phẩm Hoá Lạc Thiên Thọ Ký
- 16-18 Phẩm Tha Hoá Tự Tại Thiên Thọ Ký
- 16-19 Phẩm Chư Phạm Thiên Thọ Ký
- 16-20 Phẩm Quang Âm Thiên Thọ Ký
- 16-21 Phẩm Biến Tịnh Thiên Thọ Ký
- 16-22 Phẩm Quảng Quả Thiên Thọ Ký
- 16-23 Phẩm Tịnh Cư Thiên Tử Tán Kệ
- 16-24 Phẩm Giá La Ca Ba Lợi Bà La Xà Ca Ngoại Đạo
- 16-25 Phẩm Lục Giới Sai Biệt
- 16-26 Phẩm Tứ Chuyển Luân Vương
- 17. Pháp Hội Phú Lâu Na
- 18. Pháp Hội Hộ Quốc Bồ Tát
- 19. Pháp Hội Úc Già Trưởng Lão
- 20. Pháp Hội Vô Tận Phục Tạng
- 21. Pháp Hội Thọ Ký Ảo Sư Bạt Đà La
- 22. Pháp Hội Đại Thần Biến
- 23. Pháp Hội Ma Ha Ca Diếp
- 24. Pháp Hội Ưu Ba Ly
- 25. Pháp Hội Phát Thắng Chí Nguyện
- 26-pháp Hội Thiện Tý Bồ Tát
- 27-pháp Hội Thiện Thuận Bồ Tát
- 28-pháp Hội Dũng Mãnh Thọ Trưởng Gỉa
- 29-pháp Hội Ưu Đà Diên Vương
- 30-pháp Hội Diệu Huệ Đồng Nữ
- 31-pháp Hội Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di
- 32-pháp Hội Vô Uý Đức Bồ Tát
- 33-pháp Hội Vô Cấu Thí Bồ Tát Ứng Biện
- 34-pháp Hội Công Đức Bửu Hoa Phu Bồ Tát
- 35-pháp Hội Thiện Đức Thiên Tử
- 36-pháp Hội Thiện Trụ Ý Thiên Tử
- 36-01-phẩm Duyên Khởi
- 36-02-phẩm Khai Thiệt Nghĩa
- 36-03-phẩm Văn Thù Thần Biến
- 36-04-phẩm Phá Ma
- 36-05-phẩm Bồ Tát Thân Hành
- 36-06-phẩm Bồ Tát Tướng
- 36-07-phẩm Nhị Thừa Tướng
- 36-08-phẩm Phàm Phu Tướng
- 36-09-phẩm Thần Thông Chứng Thuyết
- 36-10-phẩm Xưng Tán Phó Pháp
- 37-pháp Hội A Xà Thế Vương Tử
- 38-pháp Hội Đại Thừa Phương Tiện
- 39-pháp Hội Hiền Hộ Trưởng Gỉa
- 40-pháp Hội Tịnh Tín Đồng Nữ
- 41. Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Vấn Bát Pháp
- 42. Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Vấn Sở Vấn
- 43. Pháp Hội Phổ Minh Bồ Tát
- 44. Pháp Hội Bửu Lương Tụ:
- 44.01 Phẩm Sa Môn Thứ Nhất
- 44.02 Phẩm Tỳ Kheo Thứ Hai
- 44.03 Phẩm Chiên Đà La Sa Môn Thứ Ba
- 44.04 Phẩm Doanh Sự Tỳ Kheo Thứ Tư
- 44.05 Phẩm A Lan Nhã Tỳ Kheo Thứ Năm
- 44.06 Phẩm Tỳ Kheo Khất Thực Thứ Sáu
- 44.07 Phẩm Phất Tảo y Tỳ Kheo Thứ Bảy
- 45. Pháp Hội Vô Tận Huệ Bồ Tát
- 46. Pháp Hội Văn Thù Thuyết Bát Nhã
- 47. Pháp Hội Bửu Kế Bồ Tát
- 48. Pháp Hội Thắng Man Phu Nhân
- 49. Pháp Hội Quảng Bác Tiên Nhân
- 50. Pháp Hội Nhập Phật Cảnh Giới Trí Quang Minh Trang Nghiêm
- 51. Pháp Hội Tự Tại Vương Bồ Tát
- 52. Pháp Hội Bửu Nữ
- 53. Pháp Hội Bất Thuần Bồ Tát
- 54. Pháp Hội Hải Huệ Bồ Tát
- 55. Pháp Hội Hư Không Tạng Bồ Tát
- 56. Pháp Hội Vô Ngôn Bồ Tát
- 57. Pháp Hội Bất Khả Thuyết Bồ Tát
- 58. Pháp Hội Bửu Tràng
- 59. Pháp Hội Hư Không Mục
- 60. Pháp Hội Nhựt Mật Bồ Tát
- 61. Pháp Hội Vô Tận Ý Bồ Tát
- 62. Pháp Hội Quán Vô Lượng Thọ Phật
- Lời Ghi Nhận Sau Kinh Của Người Dịch
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
LIX
PHÁP HỘI HƯ KHÔNG MỤC
THỨ NĂM MƯƠI CHÍN
(Hán bộ từ
quyển 150 đến quyển 154)
Hán dịch: Bắc
Lương, Tam Tạng Đàm Vô Sấm
Việt dịch: Việt
Tôi nghe như vầy: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác vẫn ở Đại Bửu Phường Đình giữa hai cõi Dục giới và Sắc giới, cùng vô lượng Tỳ Kheo Tăng và chư Đại Bồ Tát câu hội thuyết pháp.
Lúc bấy giờ các Tôn giả Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên v.v… xuất gia chưa bao lâu. Do nhân duyên các Tôn giả ấy mà đức Phật nói pháp Thanh Văn tạp Tứ chơn đế. Trong đại chúng có các hạng người gốc ngoại đạo căn tánh ám độn tự cho mình có trí huệ nên khởi tâm đại kiêu mạn, thắng mạn, phi pháp mạn, chưa được chứng quả thứ hai thứ ba thứ tư, vì vậy mà đức Thế Tôn nói pháp trung đạo để lìa các ác phiền não như vậy.
Lúc đức Như Lai Thế Tôn nói nghĩa trung đạo ấy,
các hạng người như vậy đều luận nói đoạn kiến ngã kiến.
Đức Thế Tôn nghĩ rằng: đáng thương thay cho các
người ấy vì họ gốc ngoại đạo nên dầu nhập vào Phật pháp mà sanh đại mạn, trong
chỗ chưa được mà tưởng mình đã được, trong chỗ chưa biết mà tưởng mình đã biết,
trong như pháp mà chẳng tu hành, dầu thuận Tứ đế mà chẳng có thể được Tứ vô
ngại trí nhẫn đến chẳng được chứng đệ Tứ quả.
Đức Thế Tôn hai tay đưa lên nắm tràng hoa chiêm bà
phát đại thệ nguyện. Do sức thệ nguyện trong tràng hoa xuất sanh bốn báu: một
là Đế Thích bửu, hai là Thiên Quang bửu, ba là Kim Cương Quang bửu và bốn là
Thắng Chư Quang bửu. Trong mỗi một báu đều phát ánh sáng lớn chiếu khắp Ta Bà
thế giới nầy. Bốn báu phát ánh sáng lớn rồi, đức Thế Tôn ném lên hư không.
Trong tràng hoa ấy liền có tiếng nói kệ rằng:
Dầu cạo râu tóc chẳng bỏ kiết
Dầu mặc nhiễm y chẳng lìa nhiễm
Thờ Phật làm thầy chẳng nghe lời
Người như vậy làm nhơ đại chúng
Như Lai lúc tuyên nói chánh pháp
Lại chẳng chí tâm lắng tai nghe
Người ấy chẳng được nghĩa chơn thật
Cũng chẳng lìa được các phiền não
Nếu người thấy được thiệt pháp tánh
Người nầy phá hoại vô minh mạn
Nếu được thân cận thiện tri thức
Người nầy mau được vị cam lộ
Nếu hay quở trách lỗi sanh tử
Người nầy mau được đến bờ kia
Người nầy có đủ giới đa văn
Cũng được đủ thiền định trí huệ
Nếu hay phá được ma phiền não
Xa lìa ấm ma và tử ma
Xô dẹp thiên ma và quyến thuộc
Thường nên gần kề Vô Thượng Tôn.
Trong tràng hoa ở hư không phát tiếng nói kệ ấy
rồi, những đệ tử Thanh Văn có lòng kiêu mạn đều tự nghĩ rằng đức Như Lai biết
ta có tâm ô nhiễm nên vì ta mà hiện thần lực nói kệ như vậy. Suy nghĩ rồi trong
lòng sanh đại tàm quí. Trong tứ thiên hạ các đệ tử Phật cũng sanh lòng đại tàm
quí như vậy, tất cả đều đến tập hội bên đức Phật.
Lúc bấy giờ trăm ngàn vạn ức Thanh Văn đại chúng
đều đến tụ tập. Đức Phật biết chúng hội đã định liền vì đại chúng mà nói tạp Tứ
chơn đế.
Tràng hoa báu ấy đi thẳng qua phương Nam quá chín
vạn hai ngàn hằng hà sa số thế giới chư Phật, nơi đó có thế giới tên là Kim
Cương Quang Tạng, chúng sanh thế giới ấy có đủ ngũ trược, Phật Thế Tôn cõi âý
hiệu là Kim Cương Quang Minh Công Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, cũng vì tứ chúng đại hội mà tuyên nói tạp Tứ chơn đế
pháp. Chư Bồ Tát Thanh Văn tứ chúng trong đại hội ấy thấy tràng hoa báu đại quang
minh trụ trên hư không ngay đỉnh Phật, liền bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tràng
hoa báu như vậy từ đâu bay đến và ai sai sử nó?”.
Đức Phật Kim Cương Quang Minh Công Đức nói: “Nầy
các thiện nam tử! Phương Bắc cách đây chín vạn hai ngàn hằng hà sa số thế giới
chư Phật có thế giới tên là Ta Bà có Phật Thế Tôn hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như
Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn vì đại hội tứ chúng
tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế như thế giới ta đây không khác.
Các thiện nam tử! Thế giới Ta Bà ấy, chúng sanh có
đủ ngũ trược rất là si ám thô lỗ khinh tháo sanh lòng đại kiêu mạn gây nhiều
nghiệp ác khó điều khó giải, vì vậy nên Thích Ca Như Lai làm đại tập hội ở
trong đại chúng Thanh Văn tập hội ấy mà diễn nói chánh pháp để phá hoại những
ác sự lớn như vậy. Chúng sanh ở thế giới ấy nơi chưa được cho mình đã được, nơi
chưa chứng tưởng mình đã chứng, nơi chưa tu tập tưởng mình đã tu tập. Vì cớ ấy
nên Phật Thích Ca Mâu Ni muốn thuyết pháp rộng lớn như pháp tu hành để phá hoại
lòng đại kiêu mạn ấy. Vì muốn đại chúng ấy được tận trí và vô sanh trí nên Phật
ấy muốn tuyên nói pháp hành Hư Không Mục, để được các quả Thanh Văn, quả Duyên
Giác, quả Phật, muốn khai thị Như Lai vô thượng pháp tạng, nên Phật ấy sai
tràng hoa báu nầy đến đây xin dục nơi ta, nay ta giữ dục cho đó và ta muốn đem
Pháp Mục đà la ni tặng cho kia để làm tin, có thể làm vô lượng vi diệu quang
minh, hay làm khô tất cả phiền não, hay thọ trì tất cả pháp được nghe chẳng
quên mất, hay làm sạch tất cả cấu nhơ nơi tâm, hay hộ tất cả thiện cấm giới,
hay nhập tất cả đại trí huệ, hay hộ tất cả tam muội vô thượng, hay hộ tâm mình
sanh lòng vui cho người thọ trì thánh pháp xa lìa các tật bịnh, cầu thiện pháp
gì thì liền được như nguyện, liền được tăng trưởng tất cả đồ cần dùng sanh
sống, cũng hay trưởng dưỡng tất cả thiện căn, hay điều phục ác vương và tứ
tánh, các ác quỉ thần điểu thú độc trùng, hay hộ trì tất cả cội pháp lành, hay
được tất cả pháp Phật nhẫn đến được mười tám pháp bất cộng pháp. Vì vậy nên ta
muốn sai Pháp Mục đà la ni như vậy đến thế giới Ta Bà kia tặng Thích Ca Như
Lai”.
Phật Kim Cương Quang Minh Công Đức bảo đồng tử Kim
Cương Sơn rằng: “Nầy Kim Cương Sơn! Ông nên qua thế giới Ta Bà xưng danh tự ta
mà thăm hỏi Thích Ca Như Lai mà bạch Phật ấy rằng: Kim Cương Quang Minh Công
Đức Như Lai dâng môn Pháp Mục đà la ni nầy xa tặng Thế Tôn”.
Kim Cương Sơn đồng tử bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn!
Lành thay lành thay, tôi cũng muốn đến kính lễ đức Phật ấy và muốn thưa hỏi
pháp chưa từng được nghe là Hư Không Mục pháp môn”.
Còn có sáu vạn ức đại Bồ Tát, tám vạn ức Thanh Văn
đồng thanh bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi cũng muốn đến Ta Bà thế giới
kính lễ Thích Ca Mâu Ni Như Lai và muốn học hỏi pháp môn Hư Không Mục chưa từng
được nghe. Duy nguyện Như Lai gia thần lực cho chúng tôi được qua đến thế giới ấy”.
Phật Kim Cương Quang Minh Công Đức nói: “Lành thay
lành thay! Các thiện nam tử nên biết là phải lúc. Kim Cương Sơn đồng tử có thể
điều phục các người, là thiện tri thức của các người”.
Đức Phật bảo Kim Cương Sơn đồng tử : “Nầy Kim Cương
Sơn! Lắng nghe lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói môn Pháp Mục đà la ni.
Liền nói chú rằng:
A bà, a bà a bà, nang na xà sa tra, ma ha ma khê,
ma ha tha sa bà sa, thọ dụ đê, a tha, na bà na tha nễ, Phật xà la di, an lũ lại
di, xà la ca tha, a na nậu đắc xoa, phạm phục bà, na bà trà bà, lặc xoa lỗ giá
na, sa tra khê bà, đà la ni mậu xà, ba la già trác bà, tỳ na xí, bà na tỳ phu,
a na ca tha, chiên trà mế tu, bà la khê đa, tu lỗ giá na, lỗ giá na bà, lỗ giá
xà nang bà bà tư, sá ha.
Nầy Kim Cương Sơn! Ông nên thọ trì đọc tụng thơ tả
đà la ni ấy, đến Ta Bà thế giới thăm hỏi Thích Ca Như Lai, như lời ta mà bạch
Phật ấy rằng: Tứ bộ đệ tử có thích thọ pháp chăng? Người tứ tánh có hay cúng
dường chăng? Tâm chúng sanh có trược loạn chăng? Họ có thường hay gần kề Như Lai
chăng? Họ có hay tôn trọng tán thán Phật chăng? Chánh pháp Phật có được thêm
rộng lưu bố chăng? Phật Kim Cương Quang Minh Công Đức Như Lai xa tặng Thế Tôn
môn Pháp Mục đà la ni nầy hay làm ánh sáng lớn khô cháy tất cả ác phiền não
nhẫn đến làm cho chúng sanh được Phật thập bát bất cộng pháp”.
Kim Cương Sơn đồng tử tuân Phật dạy thọ trì đọc
tụng thơ tả môn Pháp Mục đà la ni rồi bảo các đại chúng rằng: Nếu muốn đến thế
giới Ta Bà kính lễ Phật Thích Ca Mâu Ni và hỏi học pháp môn Hư Không Mục chưa
từng được nghe ấy thì phải xa lìa tất cả sắc tướng, cũng chớ nhớ tướng phân
biệt, mà phải thường tu tập tướng hư không, xa lìa tất cả tướng thủ xả, buông
bỏ tất cả tướng trần lao, mở các kiết phược, chuyên niệm hư không”.
Đại chúng đồng thanh nói: “Lành thay, lành thay,
thưa đồng tử!”.
Đại chúng liền đến trước Phật đảnh lễ. Lễ Phật rồi
nhiếp niệm quán tướng hư không, trong thời gian một niệm đến Ta Bà thế giới chỗ
Thích Ca Như Lai. Đến rồi kính lễ Phật cúng dường cung kính tôn trọng tán thán
hữu nhiễu ba vòng qua một phía chấp tay mà đứng.
Lúc ấy tràng hoa báu lại đi thẳng qua phương Tây
quá tám vạn ức thế giới chư Phật có thế giới tên là Huệ Ám đủ ngũ trược, có
Phật hiệu Trí Tràng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế
Tôn cũng vì tứ chúng tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế. Chư Bồ Tát, Thanh Văn tứ
chúng thấy tràng hoa báu đại quang minh dừng trên không ngay đỉnh đức Phật liền
bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tràng hoa báu ấy từ đâu đến và ai sai sử nó?”.
Đức Phật Trí Tràng Như Lai nói: “Nầy các thiện nam
tử! Phương Đông cách đây tám vạn ức thế giới chư Phật, có thế giới tên Ta Bà đủ
ngũ trược. Phật Thế Tôn hiệu Thích Ca Mâu Ni Như Lai đủ mười hiệu cũng vì tứ
chúng tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế như ta đây không khác, cho đến vì muốn khai
thị pháp tạng Như Lai nên sai tràng hoa báu nầy đến xin dục nơi ta, ta cho đó
và muốn tặng Phật ấy môn Tịnh Mục đà la ni hay làm ánh sáng lớn khô cháy các ác
phiền não nhẫn đến có thể được Phật thập bát bất cộng pháp”.
Đức Trí Tràng Như Lai bảo Thắng Tràng đồng tử rằng:
“Ông nên đến Ta Bà thế giới xưng danh tự ta mà thăm hỏi đức Phật ấy và đem môn
Tịnh Mục đà la ni xa tặng”.
Lúc ấy có vô lượng Bồ Tát Thanh Văn đồng bạch rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Lành thay, lành thay, chúng tôi cũng muốn đến thế giới Ta Bà
kính lễ Thích Ca Như Lai cùng muốn hỏi học pháp môn Hư Không Mục chưa từng được
nghe”.
Nhẫn đến Phật Trí Tràng liền nói thần chú rằng:
Vật lực ha, vật lực ha, vật lực ha, vật lực ha, a
bà vật lực ha, tát tha vật lực ha, tu bà xa vật lực ha, na bà vật lực ha, tu
phả bà, a năng già, đê tỉ xoa, xà xà tư la, na bà áo nam, khê già bát la, na la
na diêm, túc sa, sí xa tư la, a bà la tư la, ma ha bách kỳ xà na, a na siểm đa
la, a bà khê già, na du đa siểm đà la, sa phả la, a nang già già, na la noa, sa
giá, thủ lưu đa kiệt bà xí na, sá ha.
Nầy Thắng Tràng! Ông nên thọ trì đọc tụng thơ tả đà
la ni ấy. Nhẫn đến qua một phía chắp tay đứng”.
Lúc ấy tràng hoa báu đại quang minh đi thẳng qua
phương Bắc quá chín vạn chín ức thế giới chư Phật, có thế giới tên là Vi Thường
đủ ngũ trược, Phật hiệu là Phát Quang Minh Công Đức Như Lai đủ mười hiệu cũng
vì hàng tứ chúng tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế. Trong pháp hội chư Bồ Tát, chư Thanh
Văn và tứ chúng thấy tràng hoa báu dừng ở hư không ngay đỉnh Phật, liền bạch
hỏi rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tràng hoa báu ấy từ đâu đến và ai sai khiến nó?”.
Đức Phật Phát Quang Minh Công Đức nói: “Nầy các
thiện nam tử! Phương Nam cách đây chín vạn chín ức thế giới chư Phật có thế giới
tên là Ta Bà đủ ngũ trược, Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai đủ mười hiệu vì
hàng tứ chúng tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế như nơi đây không khác, nhẫn đến vì
muốn khai pháp tạng Như Lai nên sai tràng hoa tứ bửu nầy đến xin dục nơi ta.
Nay ta giữ dục cho đó và muốn tặng môn Quang Mục đà la ni có thể làm ánh sáng
lớn khô cháy ác phiền não, nhẫn đến hay được Như Lai thập bát bất cộng pháp”.
Đức Phật bảo Thắng Ý đồng tử rằng: “Nầy Thắng Ý!
Ông nên đến thế giới Ta Bà xưng danh tự của ta thăm hỏi Phật Thích Ca Mâu Ni,
đem môn Quang Mục đà la ni đây xa tặng Như Lai ấy”.
Trong đại chúng còn có vô lượng Bồ Tát, Thanh Văn
đồng bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thiện tai, thiện tai, chúng tôi cũng muốn
đến đó kính lễ Phật Thích Ca và hỏi học pháp môn Hư Không Mục mà chúng tôi chưa
từng được nghe, nhẫn đến Phật Phát Quang Minh Công Đức liền nói chú rằng: “Xà
bà ma, xà bà ma, xà bà ma, a câu lô tra, tỉ bà xà bà, ma ha đà ma khê bà, a ra
xà, san bồ đà, nang khê bà, a ra xà bà bà, ra xà bà bà, xà kỳ xoa xà bà bà, ma
hê xà bà ni bạn đà, tỳ mâu giá bà bà, na ra xà noa bà bà, chước thu bà bà, thâu
lô đa bà bà, thâu lô đa bà bà, già hận noa bà bà, thị chúc bà bà, ca xà bà bà,
chất đa bà bà, sa mậu đà ra bà bà, cực ra noa bà bà, sất na tu lưu kỳ bà bà,
soá ha”.
Nầy Thắng Ý! Ông nên thọ trì đọc tụng thơ tả môn
Quang mục đà la ni ấy đến Ta Bà thế giới, nhẫn đến qua một phía chắp tay đứng”.
Lúc ấy tràng hoa bốn báu đi thẳng qua phương Đông
quá sáu vạn ngàn ức thế giới chư Phật, có thế giới tên là Bửu Đảnh đủ ngũ
trược, Phật hiệu là Bửu Cái Quang Minh Công Đức Như Lai đủ mười hiệu đang vì
hàng tứ chúng tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế. Trong pháp hội các Bồ Tát, Thanh
Văn tứ chúng thấy tràng hoa báu đại quang minh trụ ở hư không ngay đỉnh đức
Phật liền bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tràng hoa tứ bửu ấy từ đâu đến và ai
sai khiến nó?”.
Đức Bửu Cái Quang Minh Công Đức Như Lai nói: “Các
thiện nam tử! Phương Tây cách đây sáu vạn ngàn ức thế giới chư Phật có thế giới
tên là Ta Bà đủ ngũ trược, Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai đủ mười hiệu
đang vì tứ chúng tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế như tại đây không khác, nhẫn đến
vì muốn khai pháp tạng Như Lai nên sai tràng hoa tứ bửu ấy đến xin dục nơi ta.
Nay ta giữ dục cho đó, và muốn tặng cho đó môn Thánh mục đà la ni hay làm ánh
sáng lớn khô cháy ác phiền não nhẫn đến được Như Lai thập bát bất cộng pháp”.
Đức Phật liền bảo Hư không Thanh đồng tử rằng: “Nầy
Hư không Thanh! Ông nên đến thế giới Ta Bà xưng danh tự ta thăm hỏi Phật Thích
Ca Mâu Ni Như Lai và đem dâng môn Thánh mục đà la ni xa tặng”.
Nhẫn đến còn có vô lượng Bồ Tát Thanh Văn đại chúng
đồng thanh bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Lành thay, lành thay, chúng tôi
cũng muốn đến Ta Bà thế giới kính lễ Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai và hỏi học
pháp môn Hư Không Mục mà chúng tôi chưa từng được nghe”.
Đức Phật Bửu Cái Quang Minh Công Đức liền nói chú
rằng: “A la ma, a la ma, a la ma, xà xà ra xà, tự lê xà ra xà, già xà phu, bà
ra xà la, a na giá, a khê sa ra, khê già sa xà na, na ô ha, na ra xà na ô ha,
ma hê thấp ba la giá ma, a ma ni ha, ha xà bà lợi la, chước thu giá ma, chước
thu sa chước thu na, na bà na bà ma xà, a bà khê bà, xa bà na bà, khê già thiền
lũ, sa ra chiên đà ra, ma hê thấp ba la ni la na bà, sa đàn ma xoa xà, sá ha.
Nầy Hư Không Thanh! Ông nên thọ trì đọc tụng thư tả
môn Thánh mục đà la ni ấy qua thế giới Ta Bà, nhẫn đến qua một phía đứng chắp
tay”.
Bấy giờ bốn đồng tử Bồ Tát biến thế giới nầy bằng
phẳng, đầy đủ những hương hoa phan lọng bảy báu cúng dương đức Phật. Tất cả
cung chư Thiên, cung A Tu La đều bị chấn động sáu cách. Chư Thiên vui mừng đều
thọ hỉ lạc đều đem dâng hương hoa phan lọng bảy báu các thứ kỹ nhạc cúng dường Phật.
Bốn đồng tử cúng dường Phật rồi thăng lên hư không
cao bảy cây đa la tay cầm tứ bửu nói kệ tán thán:
Phật là vua sáng lớn thanh tịnh
Vì chúng sanh nói pháp cam lộ
Với chúng sanh lòng Phật như đất
Đại bửu thương chủ thương tất cả
Vì chúng sanh nói pháp thanh tịnh
Khiến lìa các khổ và phiền não
Tâm Phật bình đẳng như hư không
Lời Phật vi diệu biết chơn đạo
Đầy đủ giới cấm và trí huệ
Dứt hẳn phiền não mưa cam lộ
Vì người khát pháp Phật xuất thế
Đuốc huệ sáng lớn phá tối tăm
Dầu kẻ không tu bát thánh đạo
Và người được chứng quả giải thoát
Như Lai bình đẳng thương xót đồng
Ban cho Nhơn Thiên tịnh pháp nhãn
Hay độ chúng sanh khỏi sanh tử
Hay ban vô thượng của bảy báu
Hay khiến chúng sanh nhàm sanh tử
Tu trọn ba mươi bảy đạo phẩm
Pháp đã mất lâu nay Phật dạy
Vì vậy được gọi Vô Thượng Tôn
Chúng sanh bốn phương đã tập hội
Duy nguyện xót thương chuyển pháp luân.
Đại chúng trong pháp hội nầy lòng sanh vui mừng đều
nói rằng: “Vô lượng vô biên đại chúng từ đâu đến, tất cả đều oai nghi thanh
tịnh đủ vô lượng đức, tàm quí trí huệ đều trọn đủ thành tựu, từ trước chúng ta
chưa từng thấy chư Đại Tiên ngũ thông sắc thân vi diệu như vậy”.
Đức Phật bảo Tôn giả Kiều Trần Như: “Nầy Kiều Trần
Như! Bốn phương có vô lượng Bồ Tát đều đến tập hội để được nghe pháp. Nay nên
chí tâm thanh tịnh ý niệm”.
Đức Phật dùng âm thanh vi diệu bảo bốn đồng tử
rằng: “Các thiện nam tử! Các ông đến đây rất tốt. Các ông từ phương nào đến và
đến để làm gì?”.
Bốn đồng tử kính lễ chân Phật đi nhiễu giáp vòng.
Kim Cương Sơn đồng tử bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nam phương cách đây chín
vạn hai ngàn hằng hà sa thế giới chư Phật, có thế giới tên là Kim Cương Quang
Tạng đủ ngũ trược, Phật Thế Tôn hiệu là Kim Cương Quang Minh Công Đức Như Lai
đủ mười hiệu đang vì tứ chúng tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế.
Đức Kim Cương Quang Minh Công Đức Như Lai sai tôi
đến thế giới Ta Bà nầy thăm hỏi đức Thế Tôn và muốn nghe pháp môn Hư Không Mục.
Bạch đức Thế Tôn! Phật Kim Cương Quang Minh Công
Đức trí kính ân cần thăm hỏi Thế Tôn và sai dâng tặng môn Pháp mục đà la ni hay
làm ánh sáng lớn khô cháy ác phiền não, nhẫn đến được Như Lai thập bát bất cộng
pháp”.
Kim Cương Sơn đồng tử liền ở trước Phật nói chú như
vậy. Ba đồng tử đồng tử kia cũng bạch thưa và nói chú như vậy.
Bốn đồng tử nói chú rồi, đại địa chấn động sáu
cách. Tất cả Long Vương đều nói rằng: “Chúng tôi cũng sẽ đồng đến chỗ Phật”.
Phương Đông có hai Long Vương tên là Ngưu Hộ và Bửu
Hộ cùng sáu vạn Long Vương.
Phương Nam có hai Long Vương tên là Vi Nguyệt và Bà
Tụ cùng bảy vạn Long Vương.
Phương Tây và phương Bắc mỗi phương cũng có hai
Long Vương cùng mười vạn Long Vương.
Bốn phương chư Long Vương đến chỗ Phật kính lễ chưn
Phật bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi đều có thể thọ trì đọc tụng thơ tả
các đà la ni như vậy. Nếu có hàng tứ chúng hay thọ trì đọc tụng thơ tả các đà
la ni như vậy chúng tôi sẽ thành tâm thủ hộ”.
Nước Quy Tư có một Long Vương tên là Hải Đức em
trai Long Vương A Na Bà Đạt Đa cùng chín vạn Long Vương.
Nước Vu Điền có một Long Vương tên là Lạc Tạng Bửu
cũng là em trai Long Vương A Na Bà Đạt Đa cùng một vạn tám ngàn Long Vương.
Nước Ba La Việt có một Long Vương tên là Sơn Đức
cũng là em trai Long Vương A Na Bà Đạt Đa cùng hai vạn Long Vương.
Nước Sư Tử có một Long Vương tên là Bửu Tạng cùng
bốn vạn tám ngàn Long Vương.
Nước Tỳ Đồ có một Long Vương tên là Trường Phát
cùng bốn vạn ba ngàn Long Vương.
Núi Niệm Mật Xa có một Long Vương tên là Bà Tu Cát cùng tám ngàn Long Vương.
Nước Ô Trành có một Long Vương tên là A Bát La La
cùng hai vạn năm ngàn Long Vương.
Nước Càn Đà La có một Long Vương tên là Y La Bát Đa
cùng ba vạn Long Vương.
Nước Chơn Đơn có một Long Vương tên là Tam Giác
cùng tám ngàn Long Vương.
Nan Đà Long Vương, Bạt Nan Đà Long Vương cùng vô
lượng Long Vương.
Các Long Vương như vậy đồng đến chỗ Phật kính lễ
bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi có thể thọ trì đọc tụng thơ tả các
môn đà la ni như vậy chẳng quên chẳng mất một chữ”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay! Chư Long Vương
chơn thiệt hay thủ hộ chánh pháp”.
Đức Phật bảo Thiên Nữ Chánh Ngữ rằng: “Nầy Thiên
Nữ! Nhà người có thể thủ hộ chánh pháp Như Lai chăng?”.
Chánh Ngữ Thiên Nữ bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Lúc
Như Lai còn tại thế gian và lúc sau khi Phật diệt độ, xứ nào có các đà la ni
như vậy lưu bố tôi sẽ thủ hộ xứ ấy. Người nào thọ trì, tuỳ chỗ cần dùng tôi đều
cung cấp đủ. Nếu ai muốn thấy thân tôi, tôi sẽ vì họ mà hiện thân.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu hàng tứ chúng có ai muốn thấy
tôi, người ấy nên sạch thân mình trì giới tinh tiến, trong một ngày tắm gội ba
lần, đoạn thực ba ngày ở riêng nơi tịch tĩnh, hoặc bên tượng Phật, hoặc trong
tháp, hoặc ở tĩnh thất, dùng các hương hoa các phan lọng cùng các thứ nước thơm
ngon cúng dường Phật, day mặt về hướng chánh Đông tụng chu như vầy:
Bà tra trí, bà tra trí, hưu lâu, hưu lâu, đồn đậu
lâu, đồn đậu lâu, khê tra, khê tra, tỉ sá ha.
Đã tụng chú như vậy rồi, tôi sẽ đến đó tuỳ chỗ
nguyện cầu của tứ chúng tôi sẽ làm cho được thành tựu tất cả. Nếu tôi không đến
đó, là khi dối thập phương chư Phật, cũng chớ khiến tôi thành Vô thượng Bồ đề”.
Đức Phật bảo La Hầu A Tu La Vương, Tỳ Ma Chất Đa A
Tu La Vương, Tỳ Lâu Giá Na A Tu La Vương rằng: “Nay Phật đem các đà la ni như
vậy phó chúc chư A Tu La Vương, tại sao, vì các ông có đại lực thế, có chúng
sanh nào chẳng tin thì các ông có thể làm họ tin”.
Chư A Tu La Vương bạch rằng: “Lành thay, bạch đức
Thế Tôn! Chúng tôi sẽ hộ trì. Lúc Phật tại thế và lúc sau khi Phật diệt độ, nếu
có hàng tứ chúng hay thọ trì đọc tụng thơ tả các đà la ni như vậy, chúng tôi có
thể sẽ ban cho họ tám sự: một là mạnh mẽ, hai là thích nghe học chánh pháp, ba là
tâm không sợ sệt, bốn là thường sáng không tối, năm là thiện nguyên đầy đủ, sáu
là giải thoát, bảy là biện tài và tám là thiện pháp tăng trưởng. Nếu có A Tu La
nào làm não người ấy chúng tôi liền trừng trị. Nếu ở nơi thế giới nầy mà chẳng
thủ hộ Phật pháp thì là khi dối thập phương chư Phật Thế Tôn vậy”.
Đức Phật quan sát tứ chúng rồi, bảo Kiều Trần Như
Tỳ Kheo rằng: “Nầy Kiều Trần Như! Tất cả đại chúng rất thích nghe pháp. Vô
lượng chúng sanh trong vô lượng thế giới đều vì nghe pháp mà đến đây tập hội,
đều muốn biết pháp hành phương tiện thành đại trí huệ, xa lìa tham dục và tất
cả phiền não, chơn thiệt biết rõ pháp hành phương tiện”.
Tôn giả Kiều Trần Như bạch rằng: “Lành thay đức Thế
Tôn, thiệt đúng như lời Phật dạy. Bốn phương thế giới có vô lượng Bồ Tát đều
đem lời giữ dục của chư Phật đến đây và muốn hỏi học pháp hành Hư Không Mục.
Nay chánh là phải lúc xin Phật thương xót vì chúng sanh mà tuyên nói đó.
Bạch đức Thế Tôn! Được nói là pháp hành, pháp hành
Tỳ Kheo. Thế nào gọi là pháp hành Tỳ Kheo?”.
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Trần Như! Chí tâm lắng
nghe, Phật sẽ vì ông mà giải nói.
Nếu có Tỳ Kheo đọc tụng mười hai bộ kinh Như Lai,
đó là Tu đa la nhẫn đến Ưu bà đề xá, đây gọi là thích đọc chớ chẳng gọi là pháp
hành. Còn có Tỳ Kheo đọc tụng Như Lai mười hai bộ kinh thích vì đại chúng tuyên
dương rộng nói, đây gọi là thích nói chớ chẳng gọi là pháp hành. Còn có Tỳ Kheo
đọc tụng Như Lai mười hai bộ kinh hay rộng giảng nói suy nghĩ ý nghĩa, đây gọi
là tư duy mà chẳng gọi là pháp hành. Còn có Tỳ Kheo thọ trì đọc tụng Như Lai
mười hai bộ kinh giải thuyết tư duy quán nghĩa lý, đây gọi là thích quán mà chẳng
gọi là pháp hành.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo hay quán thân
tâm, lòng chẳng tham trước tất cả tướng ngoài khiêm hư hạ ý chẳng kiêu chẳng mạn,
chẳng dùng nước ái tưới rưới ruộng nghiệp, cũng chẳng ở trong đó gieo giống
thức, dứt diệt giác quán cảnh giới đều dứt, xa lìa phiền não tâm tịch tĩnh. Tỳ
Kheo như vậy, Phật gọi là pháp hành. Tỳ Kheo pháp hành ấy nếu muốn được Thanh
Văn Bồ đề hoặc Duyên Giác Bồ đề hoặc Như Lai Bồ đề thì có thể được cả.
Nầy Kiều Trần Như! Như thợ lò gốm nhồi đất sét
nhuyễn dẻo rồi để trên vòng quay tuỳ ý thành món dùng. Pháp hành Tỳ Kheo cũng
như vậy.
Nếu có Tỳ Kheo tu pháp hành thì nên quán ba sự việc
là thân, thọ và tâm. Quán ba sự ấy rồi được hai thứ trí là tận trí và vô sanh
trí. Thế nào là tận trí và vô sanh trí?
Nầy Kiều Trần Như! Trí hết phiền não gọi là tận
trí, trí hết hữu chi gọi là vô sanh trí.
Còn nữa, trí không có hành nhơn gọi là tận trí, trí
không có hành quả gọi là vô sanh trí.
Còn nữa, trí hết các kiết sử gọi là tận trí, trí
hết phiền não gọi là vô sanh trí.
Còn nữa, trí hết các hành gọi là tận trí, trí hết
tất cả hữu gọi là vô sanh trí.
Còn nữa, phân biệt hết không có vất gọi là tận trí,
biết rõ các hệ phược giải thoát gọi là vô sanh trí.
Còn nữa, biết hết căn giới gọi là tận trí, biết hết
duyên giới gọi là vô sanh trí.
Còn nữa, chẳng giác quán phiền não, gọi là tận trí,
chẳng giác quán quả báo gọi là vô sanh trí.
Còn nữa, trí hết phiền não đệ tam địa gọi là tận
trí, trí hết tất cả phiền não gọi là vô sanh trí.
Còn nữa, sanh của ta đã hết phạm hạnh thanh tịch
gọi là tận trí, không còn thừa thân trong ba cõi gọi là vô sanh trí.
Hai trí như vậy gọi là một trí cũng gọi một hạnh
biết rõ tam đạo. Nếu có Tỳ Kheo dứt được tam đạo thì gọi là pháp hành.
Có thể quán như vậy là quán tâm và thọ.
Thế nào là Tỳ Kheo hay quán sát thân?
Nếu có Tỳ Kheo quán hơi thở vào ra, đây gọi là quán
thân quán thọ quán tâm.
Thế nào là quán hơi thở vào ra?
Hơi thở vào ra gọi là A na ba na. Thở vào là A na,
thở ra là Ba na. Quán hơi ra vào như cửa như ngõ. Nếu có Tỳ Kheo quán như vậy
đây gọi là pháp hành.
Nếu có Tỳ Kheo có thể học có thể đếm theo hơi thở
ra vào lạnh nóng dài vắn. Hoặc khắp đầy thân, hoặc cột tâm nơi đầu mũi, hay
thấy mới cũ, phân biệt rõ các tướng, hay quán sanh diệt cầu xa ma tha khéo vào
trong định, cũng hay quán sát hơi thở thô tế, nhẫn đến quán ở nội thân, thân
tưởng là thân, đây gọi là Tỳ Kheo tu tập pháp hành.
Nầy Kiều Trần Như! Lúc tu sổ tức được hai sự đó là
lìa ác gíac quán và quán tướng mạo của hởi thở. Lúc tu tập tuỳ tức cũng được
hai sự, đó là chuyên niệm niệm tâm và lìa thiện giác quán. Quán hơi lạnh nóng
cũng được hai sự, đó là phân biệt ra vào và quán tướng tâm số. Lúc quán thân
cũng được hai sự, đó là thân khinh và tâm khinh. Chuyển quán sanh diệt cũng
được hai sự, đó là biết tất cả pháp là tướng vô thường và biết tất cả pháp là
tướng vô lạc.
Nầy Kiều Trần Như! Pháp hành Tỳ Kheo niệm xuất nhập
tức cột tâm một chỗ, có số giảm và số tăng.
Thế nào là số giảm? Đó là hai đếm là một, ba đếm là
hai, nhẫn đến mười đếm là chín.
Thế nào là số tăng? Đó là một đếm là hai, nhẫn đến
chín đếm là mười.
Cớ sao lại tu sổ tức, vì phá tất cả giác quán vậy.
Lúc được sơ thiền quán xuất nhập tức và quán tâm tướng. Sơ thiền có năm chi là
giác, quán, hỉ, lạc và định. Lúc đủ năm chi thì lìa tham sân si.
Nếu có Tỳ Kheo đầy đủ năm chi thiền thì gọi là pháp
hành, xa lìa năm sự, thành tựu năm sự, tu tập phạm hạnh thành đại công đức.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo có thể được Nhị
thiền thì gọi là pháp hành. Tỳ Kheo nầy quán tức nhập xuất cột tâm một chỗ xa
lìa giác và quán được đệ Nhị thiền.
Nếu có Tỳ Kheo quán tức nhập xuất cột tâm một chỗ
xa lìa hỉ được đệ Tam thiền.
Nếu có Tỳ Kheo quán tức nhập xuất cột tâm một chỗ
xa lìa hỉ lạc bất khổ bất lạc được đệ Tứ thiền.
Nếu có Tỳ Kheo quán tức nhập xuất thì quán ngũ ấm,
nếu quán ngũ ấm thì gọi là pháp hành.
Nếu Tỳ Kheo thấy tất cả pháp hành sanh diệt nhẫn
đến thấy tất cả phiền não sanh diệt, đây gọi là như pháp nhẫn.
Nếu Tỳ Kheo thấy nhãn rỗng không nhẫn đến thấy ý
thức rỗng không, đây gọi là không nhẫn.
Nếu Tỳ Kheo thấy nhãn không có tướng nhẫn đến thấy
ý thức không có tướng, đây gọi là vô tướng nhẫn.
Nếu Tỳ Kheo chẳng nguyện cầu nơi nhãn nhẫn đến
chẳng nguyện cầu nơi ý thức, đây gọi là vô nguyện nhẫn.
Nếu vì chúng sanh mà đi trong sanh tử, đây gọi là
tuỳ thượng chơn đế nhẫn.
Thế nào là tuỳ căn, tuỳ lực, tuỳ giác quán, nhẫn
đến tuỳ Niết bàn?
Với các pháp nhãn đến ý thức như vậy mà tâm chẳng
thủ trước thì gọi là tín nhẫn, đây là tín chẳng gọi là tín căn. Nếu nhiếp thân
tâm chẳng cho tạo ác thì gọi là tinh tiến chẳng gọi là tiến căn. Nếu hay chuyên
niệm các pháp như vậy thì gọi là niệm chẳng gọi là niệm căn. Tâm và tâm số pháp
có thể cột một cảnh duyên thì gọi là định chẳng gọi là định căn. Nếu có thể
chẳng thấy các tướng như vậy thì gọi là huệ chẳng gọi là huệ căn. Nếu quán
những vô căn như vậy thì gọi là pháp hành.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo quán đảnh pháp,
thế đệ nhứt pháp, quán tam giải thoát: không, vô tướng và vô nguyện; vô thường,
khổ, không, đây gọi là pháp hành, đây gọi là không tam muội. Không tam muội ấy
duyên không có thọ mạng, duyên không có tự tại. Vô tướng tam muội duyên tận
duyên hoại duyên diệt duyên yểm ly. Vô nguyện tam muội duyên cam lộ chẳng phải
cam lộ hành, có cam lộ hành chẳng phải duyên cam lộ. Có không tam muội duyên
cam lộ chẳng phải cam lộ hành, có cam lộ hành chẳng phải duyên cam lộ. Vô tướng
tam muội duyên cam lộ chẳng phải cam lộ hành, có cam lộ hành chẳng phải duyên
cam lộ.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo duyên huệ diệt
trang nghiêm nhập vô nguyện tam muội, đây gọi là duyên cam lộ chẳng phải cam lộ
hành.
Nếu có Tỳ Kheo duyên huệ diệt mà được giải thoát,
đây gọi là cam lộ hành chẳng phải duyên cam lộ.
Như vô nguyện, không và vô tướng cũng vậy.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo có thể quán như
vậy, đây gọi là pháp hành.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo quán thọ quán
tâm, đây gọi là pháp hành. Tại sao, vì có thể phá hoại hai mươi ngã kiến vậy.
Nầy Kiều Trần Như! Đoạn kiến và ngã kiến đều riêng
có năm thứ.
Sắc đoạn nhẫn đến thức đoạn đây gọi là đoạn kiến.
Sắc ngã nhẫn đến thức ngã đây gọi là năm ngã kiến.
Năm đoạn kiến phân biệt thì có bốn mươi bốn thứ, đó
là mười sáu thứ nói tưởng, tám thứ nói vô tưởng, tám thứ nói phi tưởng phi phi
tưởng, sáu thứ nói các loại tưởng và sáu thứ nói đoạn.
Năm ngã kiến phân biệt có mười tám thứ, đó là bốn
thứ định nói ngã, bốn thứ nói biên, bốn thứ nói dị sự và sáu thứ nói vô cầu tam
muội.
Nầy Kiều Trần Như! Đoạn kiến và ngã kiến phân biệt
thành sáu mươi hai kiến.
Hai mươi ngã kiến nhơn duyên có thể sanh bốn trăm lẻ
bốn thứ phiền não. Vì rời lìa các phiền não như vậy mà quán thân tâm đây gọi là
pháp hành. Tỳ Kheo có thể quán thân tâm như vậy.
Nầy Kiều Trần Như! Thế nào là bát nhơn, thế nào là
quyết định?
Nầy Kiều Trần Như! Người đoạn kiến nói rằng một
niệm dứt. Người thường kiến nói rằng bát nhẫn dứt. Hai hạng người ấy đều được
quyết định. Về sau rời lìa phiền não cũng đều không có phòng ngại.
Nầy Kiều Trần Như! Người có thể được bát nhẫn thì
gọi là bát nhơn. Người được mười sáu tâm đây gọi là quyết định, đây gọi là như
pháp.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo thành tựu pháp
quán xuất nhập tức thì được bát nhơn cũng gọi là quyết định.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo thành tựu sổ tức
thì được tín căn nhẫn đến huệ căn. Nếu được ngũ căn thì được thế gian đệ nhứt
pháp. Tỳ Kheo như vậy có thể phá tất cả tâm nghi, đây gọi là chơn thiệt tu tập
thánh hạnh.
Nếu có Tỳ Kheo thành tựu khổ trí thì dứt mười thứ
phiền não, đây gọi là tu tập sơ vô lậu tâm quán. Lúc ấy thứ đệ quán vô nguyện
tam muội. Lúc quán vô nguyện tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, đây gọi là vô lậu
định trí, được khổ pháp nhẫn khổ pháp trí, tập pháp nhẫn tập pháp trí. Bấy giờ
quán Sắc giới ngũ ấm, Vô Sắc giới tứ ấm, như Dục giới khổ, Sắc giới và Vô Sắc
giới khổ cũng như vậy. Quán như vậy rồi dứt Sắc và Vô Sắc mười tám thứ phiền não.
Mười tám thứ đã dứt rồi tư duy như vầy: các khổ ấy từ nơi nào đến và ai tạo ra
nó. Tư duy như vậy biết rõ khổ ấy từ ái nhơn duyên, nếu ta không nhổ rễ ái như vậy
thì sẽ sanh khổ, vì vậy mà quán tập, quán tập như vậy rồi dứt bảy phiền não.
Quán Dục giới tập rồi, quán Sắc giới, Vô Sắc giới tập cũng như vậy. Quán như
vậy rồi được tỉ nhẫn tỉ trí.
Lúc quán như vậy dứt mười ba phiền não.
Nầy Kiều Trần Như! Người đủ bát nhẫn thì gọi là bực
bát nhơn pháp.
Dứt tập tam giới rồi lại quán như vầy: do nhơn
duyên gì mà dứt khổ và tập? Vì an lạc vậy. Đại an lạc tức là diệt đế.
Bấy giờ sơ quán Dục giới diệt đế được diệt pháp
nhẫn dứt bảy phiền não, Sắc và Vô Sắc cũng như vậy, quán như vậy được diệt tỉ
nhẫn dứt mười hai phiền não.
Lại quán như vầy: do nhơn duyên gì được bảy nhẫn,
biết rằng nhơn tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Do sức bát chánh đạo mà biết Dục
giới khổ tập và diệt đế, biết Sắc giới và Vô Sắc giới khổ tập diệt đế. Lúc nầy
kế sanh đạo pháp nhẫn, được rồi có thể dứt tám thứ phiền não. Lại quán Sắc giới
và Vô Sắc giới được đạo tỉ nhẫn dứt mười bốn phiền não.
Do tu tập pháp quán như vậy dứt tám mươi tám thứ
phiền não, đây gọi là quyết định. Được quả Tu Đà Hoàn đây gọi là được mười sáu
tâm, đây gọi là quyết định được Bồ đề, đây gọi là bảy lần qua lại dứt hết tất
cả khổ.
Nầy Kiều Trần Như! Có người từ tín quyết định, có
người từ pháp quyết định. Có người một đời được quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến được
quả A La Hán. Có người nhập tín căn nhẫn đến huệ căn. Có người tu định, có người
tu huệ. Có người được Sơ thiền nhẫn đến Tứ thiền được nhập quyết định, quán tất
cả hành vô thường, thứ đệ sanh diệt xa lìa tất cả pháp phàm phu. Có người quán
tất cả hành vô thường, khổ, không, bất tịnh, chẳng được tự tại, không có tịch
tĩnh, theo duyên mà sanh theo duyên mà diệt, quán như vậy rồi được tịch tĩnh
diệt đế, đây gọi là Tỳ Kheo như pháp mà hành.
Nầy Kiều Trần Như! Như Lai biết rõ tất cả chúng
sanh các căn lợi độn, cũng biết tất cả chúng sanh tâm tánh tất cả phiền não
tánh, vì vậy Như Lai theo chỗ chúng sanh đáng được mà vì họ thuyết pháp, tuỳ
các phiền não tuyên nói đối trị, nên Như Lai được gọi là Nhứt thiết chủng trí.
Nầy Kiều Trần Như! Sau khi Phật Niết bàn, các đệ tử
Phật thọ trì Như Lai mười hai bộ kinh thơ tả đọc tụng, điên đảo giải nghĩa,
điên đảo tuyên nói. Vì điên đảo giải nói nên che ẩn pháp tạng. Vì che pháp nên
gọi là Đàm Ma Cúc Đa.
Nầy Kiều Trần Như! Sau khi Phật Niết bàn, các đệ tử
Phật thọ trì Như Lai mười hai bộ kinh đọc tụng thơ tả, mà lại còn đọc tụng thơ
tả giải nói ngoại điển, thọ trì tam thế và nội ngoại điển phá hoại ngoại đạo,
hay giỏi luận nghĩa, nói rằng tất cả tánh đều được thọ giới, phàm chỗ vấn nạn
thường hay đối đáp, vì vậy nên gọi là Tát Bà Nhã Đế Bà.
Nầy Kiều Trần Như! Sau khi Phật Niết bàn, các đệ tử
Phật thọ trì Như Lai mười hai bộ kinh đọc tụng thơ tả nói rằng không có ngã và
người thọ, chuyển các phiền não dường như tử thi, vì vậy nên gọi là Ca Diếp Tỳ
Bộ.
Nầy Kiều Trần Như! Sau khi Phật Niết bàn, các đệ tử
Phật thọ trì Như Lai mười hai bộ kinh đọc tụng thơ tả, chẳng trụ các tướng địa
thuỷ hoả phong hư không thức, vì vậy nên gọi là Sa Di Tắc Bộ.
Nầy Kiều Trần Như! Sau khi Phật Niết bàn, các đệ tử
Phật thọ trì Như Lai mười hai bộ kinh đọc tụng thơ tả, đều nói rằng có ngã,
chẳng nói tướng không, dường như tiểu nhi, vì vậy nên gọi là Bà Ta Phú La.
Nầy Kiều Trần Như! Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử
Phật thọ trì Như Lai mười hai bộ kinh đọc tụng thơ tả, rộng rãi xem khắp kinh
thơ năm bộ, vì vậy nên gọi là Ma Ha Tăng Kỳ.
Nầy Kiều Trần Như! Năm bộ như vậy dầu đều dị biệt
mà đều chẳng phòng ngại chư Phật pháp giới và đại Niết bàn.
Thế nào gọi là tuỳ tín hành?
Nếu tin Tam bửu có đủ tín căn, từ tín nhơn
duyên nhập vào quyết định được quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quá
Sắc giới, Vô Sắc giới được quả A La Hán. Từ tín được giải thoát nên gọi là tín
giải thoát, cũng gọi là nhứt phần, cũng gọi là thân chứng, cũng gọi là huệ giải
thoát. Đây gọi là tuỳ tín hành.
Thế nào gọi là tuỳ pháp hành?
Nếu có người từ nơi pháp nhập quyết định đầy đủ huệ
căn được quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quá Sắc giới, Vô Sắc giới
được quả A La Hán, đây gọi là kiến đáo nhị phần giải thoát, đây gọi là vô học
giải thoát, đây gọi là pháp hành, đây gọi là thành tựu thân thân quán nhẫn đến
thành tựu pháp pháp quán, đây gọi là thành tựu Tỳ bà xá na và Xa ma tha.
Thế nào là Xa ma tha?
Xa ma tha gọi là diệt. Có thể diệt tâm tham, tâm
sân, tâm tán loạn gọi là Xa ma tha.
Thế nào là tướng Xa ma tha?
Hay diệt tướng tham, tướng sân, tướng si, gọi là
tướng Xa ma tha.
Nếu có thể tuỳ tu Xa ma tha hạnh tôn trọng tán thán
hướng Xa ma tha phương tiện trang nghiêm, đây gọi là Xa ma tha tướng.
Nếu có Tỳ Kheo thâm tự tư duy rằng tham tâm của ta
chỉ quán bất tịnh mới phá hoại được. Sân tâm của ta chỉ quán từ mới phá hoại
được. Tâm si của ta chỉ quán thập nhị nhơn duyên mới phá hoại được. Đây gọi là
Xa ma tha tướng.
Thế nào gọi là Tỳ bà xá na?
Nếu tu thánh huệ hay quán ngũ ấm thứ đệ sanh diệt,
đây gọi là Tỳ bà xá na.
Còn nữa, nếu quán các pháp đều như, pháp tánh,
thiệt tánh, thiệt tướng, chơn thiệt biết rõ, đây gọi là Tỳ bà xá na.
Thế nào gọi là tướng Tỳ bà xá na?
Nếu có thể thành tựu đầy đủ niệm tâm quán tất cả
hành từ duyên mà sanh từ duyên mà diệt, tất cả hành không tự tại, không tác,
không thọ, đây gọi là tướng Tỳ bà xá na.
Thế nào gọi là Tỳ bà xá na nhập quyết định?
Nếu chí tâm Tỳ bà xa na cung kính tôn trọng hướng
trang nghiêm đạo, đây gọi là từ nơi Tỳ bà xá na nhập vào quyết định.
Thế nào gọi là xuất pháp nhiếp tâm chẳng phải diệt
pháp nhiếp tâm?
Nếu Tỳ Kheo có thể quán tâm xuất nhơn duyên nhẫn
đến tất cả hành xuất nhơn duyên, đây gọi là xuất pháp nhiếp tâm chẳng phải diệt
pháp nhiếp tâm.
Thế nào gọi là diệt pháp nhiếp tâm chẳng phải xuất
pháp nhiếp tâm?
Nếu Tỳ Kheo hay thâm quán diệt tâm nhơn duyên nhẫn
đến tất cả hành diệt nhơn duyên, đây gọi là diệt pháp nhiếp tâm chẳng phải xuất
pháp nhiếp tâm.
Thế nào gọi là chẳng phải xuất pháp nhiếp tâm chẳng
phải diệt pháp nhiếp tâm?
Nếu Tỳ Kheo hay quán tâm tánh nhãn tánh nhẫn đến ý
tánh, đây gọi là chẳng phải xuất pháp nhiếp tâm chẳng phải diệt pháp nhiếp tâm.
Thế nào là duyên nhiếp tâm chẳng phải tư duy nhiếp
tâm?
Nếu Tỳ Kheo hay quán xuất tức mà chẳng quán nhập
tức, đây gọi là duyên nhiếp tâm chẳng phải tư duy nhiếp tâm.
Thế nào là tư duy nhiếp tâm chẳng phải duyên nhiếp
tâm?
Nếu Tỳ Kheo hay quán nhập tức chẳng quán xuất tức,
đây gọi là tư duy nhiếp tâm chẳng phải duyên nhiếp tâm.
Thế nào gọi là chẳng phải duyên nhiếp tâm chẳng
phải tư duy nhiếp tâm?
Nếu Tỳ Kheo quán tâm tánh nhãn tánh nhẫn đến ý
tánh, đây gọi là chẳng phải duyên nhiếp tâm chẳng phải tư duy nhiếp tâm.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu Tỳ Kheo hay nhiếp tâm thì
được tám mươi môn tam muội và tu ba môn giải thoát.
Nếu Tỳ Kheo quán quá khứ thân và tu trang nghiêm,
quán thân thấy thân, đây gọi là tu vô nguyện giải thoát môn.
Nếu Tỳ Kheo quán thân quá khứ rồi chỉ thấy tâm mà
chẳng thấy thân và tu trang nghiêm quán thân thấy thân, đây gọi là tu vô tướng
giải thoát môn.
Nếu Tỳ Kheo quán thân quá khứ rồi, chẳng thấy tác
chẳng thấy tác giả. Tác giả không có thân, thân không có tác giả, tu trang nghiêm
đạo quán thân thấy thân, đây gọi là không giải thoát môn.
Quán thọ tâm và pháp cũng như vậy.
Còn nữa, nầy Kiều Trần Như! Ba môn giải thoát tu
quán trang nghiêm, quán tất cả hành bất xuất bất diệt, xuất rồi thì diệt, diệt
không có chỗ đến, chẳng đến chẳng đi chẳng tới, đây gọi là trang nghiêm vô
nguyện giải thoát môn.
Còn nữa, vị lai thế các hành chưa xuất, nếu hành
chưa xuất thì không có diệt, không có xuất không có diệt, đây gọi là trang nghiêm
vô tướng giải thoát môn.
Còn nữa, quán hành tất cánh tận, tất cánh tận thì
không có sanh diệt. Nếu không có sanh diệt thì tất cánh tận. Nếu tất cánh tận
thì tức là không nhơn duyên. Nếu quán tất cánh tận như vậy, đây gọi là trang
nghiêm không giải thoát môn.
Còn nữa, nếu quán hành tất cánh tận thì không có
sanh diệt, nếu không có sanh diệt tức là không có rỗng không. Tại sao, vì trước
có sau không có gọi là rỗng không. Nếu là bổn không có thì không có sau không.
Nếu không có sau không thì thế nào gọi là rỗng không.
Nếu không có hành tức là vô vi. Tất cánh tận ấy
chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi. Rỗng không chẳng phải hành chẳng phải không
có hành. Vì vậy nên tất cánh tận ấy chẳng phải nhiếp thuộc hữu vi chẳng phải
nhiếp thuộc vô vi. Đây gọi là trang nghiêm vô tướng giải thoát môn.
Còn nữa, nếu các hành tất cánh tận ấy thì tức là
Niết bàn, chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, vì vậy nên chẳng phải quá khứ
hành diệt gọi là Niết bàn, cũng chẳng phải vị lai hiện tại hành diệt gọi là
Niết bàn. Người Tu Đà Hoàn thấy Niết bàn ấy nhẫn đến người A La Hán thấy Niết bàn
ấy.
Thế nào gọi là khổ đế?
Quán tất cả hành chẳng thấy Đệ nhứt đế. Quán tất cả
nhơn chẳng thấy Đệ nhị đế. Quán tất cả diệt chẳng thấy Đệ tam đế. Quán tất cả
đạo chẳng thấy Đệ tứ đế.
Thế nào gọi là sanh?
Bổn không có sau mới gọi là sanh.
Thế nào gọi là diệt?
Có rồi hoàn không gọi là diệt.
Không có xuất diệt đây gọi là tận.
Do nhân duyên gì không có xuất diệt gọi đó là đạo?
Đạo có sáu hành đó là tu và chẳng phải tu, hành và
chẳng phải hành, tri và chẳng phải tri.
Nếu có Tỳ Kheo hay thấy các pháp sanh diệt như vậy,
thì hay nhàm tất cả các hành, hay thấy tướng vô thường của tất cả hành.
Thế nào là tướng vô thường chẳng phải pháp vô
thường?
Nếu có tướng tạp với hành sơ vô lậu tướng, nếu có
tướng tạp với hành vô nguyện giải thoát môn, nếu có tướng không rỗng, tướng
khổ, tướng bất tịnh, tướng vô ngã, đây gọi là tướng vô thường chẳng phải pháp vô
thường.
Thế nào là pháp vô thường chẳng phải tướng vô
thường?
Đó là tam giới sắc tướng thanh tướng đến pháp
tướng, đây gọi là điên đảo tướng, gọi là xả tướng chẳng phải vô thường tướng.
Đây gọi là pháp vô thường chẳng phải tướng vô thường.
Thế nào là vô thường tướng cũng vô thường pháp?
Đó là tất cả chúng sanh chưa được quyết định, do
thế tục đạo nhập các tam muội tuỳ pháp tướng nhẫn. Đây gọi là tướng vô thường
cũng là pháp vô thường.
Thế nào là chẳng phải tướng vô thường và chẳng phải
pháp vô thường?
Đó là tướng tịch tĩnh thường và tướng giải thoát
tịnh. Đây gọi là chẳng phải tướng vô thường chẳng phải pháp vô thường.
Thế nào gọi là được Đệ nhứt đế?
Đó là quán sáu căn ngũ ấm dường như tượng trong
gương, đây gọi là được đế thứ nhứt.
Thế nào là nhứt tâm quán Tứ đế?
Nếu quán các hành đều là nhơn khổ. Vì là nhơn khổ
nên thấy được diệt dứt được xa lìa được, như vậy gọi là tâm duyên vô lậu. Vì
vậy nên nhất tâm được tứ đế, gọi là tâm vô lậu được giải thoát.
Nếu có Tỳ Kheo quán tâm số, đây gọi là vô nguyện
giải thoát môn.
Quán tâm số rồi quán mười hai sự:
Mười hai sự là: Nghiệp, hành, khổ, không, hoại,
chẳng tự tại, quá khứ, hiện tại, vị lai, nhơn duyên, vô tác và thọ.
Đây gọi là thấy tâm tâm số gọi là vô nguyện giải
thoát môn.
Nếu có Tỳ Kheo quán sát tâm ấy, không có tâm sanh
không có xuất nhập, không có năng viễn ly, đây gọi là thấy tâm tâm số được
không giải thoát môn.
Nếu Tỳ Kheo quán không có tâm nhập định mà được xa
lìa tất cả phiền não, vì không nhơn duyên nên phiền não chẳng sanh. Đây gọi là
viễn ly phiền não mà thấy tâm tâm số được vô tướng giải thoát môn.
Nếu quán như vậy thì được xa lìa tâm hữu lậu mà
được vô lậu giải thoát.
Nầy Kiều Trần Như! Tất cả các hành hữu vi đều không
có quyết định. Nếu đã bất định thì thế nào được nhập vào định tụ. Nếu nói rằng
quán sát tam thế rồi được nhập định tụ, nghĩa ấy không phải. Tại sao, vì quá
khứ đã hết, vị lai chưa xuất, hiện tại vô thường, tam thế quán sai khác thì thế
nào được nhập định tụ ư! Vì thế nên tất cả dị quán, tánh nó chẳng quyết định.
Như điện đường có bốn bực thang. Nếu nói rằng chẳng
do bực thang thứ nhứt mà đến bực thang thứ tư thì chẳng có lẽ ấy.
Lúc lên bực thang thứ nhứt chẳng được gọi là lên
bực thứ tư. Đã có bốn bực như vậy thì chẳng gọi là một.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu bốn đế ấy là một đế thì mới
có thể nhứt tâm được!
Nầy Kiều Trần Như! Lúc quán khác lúc được cũng
khác.
Lúc quán khác đó là nhơn và quả đều hoại hết.
Lúc được khác đó là khổ trí, tập trí, diệt trí và
đạo trí.
Nếu có Tỳ Kheo quán các hành là vô thường, là khổ,
là vô ngã, là bất tịnh, là vô trụ, là lậu, là kiết duyên, là tất cả hữu, đây
gọi là hệ phược, vì vậy nên chẳng cầu các ấm các hành mà nhàm tất cả hành và
thích cầu Niết bàn, chí tâm tư duy công đức Niết bàn, rất thích tịch tĩnh, chẳng
tiếc thân mạng, tu Xa ma tha và Tỳ bà xá na. Đây gọi là Tỳ Kheo tu tập pháp
hành.
Nầy Kiều Trần Như! Thế nào là Tỳ Kheo tâm có thể
quán sát tâm?
Nếu có Tỳ Kheo có thể quán sát tâm. Tâm vô thường
là pháp sanh diệt, đây gọi là Tỳ Kheo tâm hay quán tâm.
Tỳ Kheo như vậy tu không tam muội.
Thế nào gọi là không?
Đó là ngũ ấm không, thập nhị nhập không, thập bát
giới không, tứ đế không, thiệt không, thập nhị nhơn duyên không, tánh không.
Thế nào là Ngũ ấm không?
Đó là sắc ấm không, không có ngã ngã sở, đến thức
ấm không, không ngã ngã sở. Đây gọi là ngũ ấm không.
Nhập và giới không cũng như vậy.
Thế nào là Tứ đế không?
Đó là khổ đế không có đắc không có xả, đến đạo đế
không có đắc không có xả. Đây gọi là Tứ đế không.
Thế nào gọi là thiệt không?
Trong tất cả pháp không có giác quán không có ngã
ngã sở. Đây gọi là thiệt không.
Thế nào là Thập nhị nhơn duyên không?
Thập nhị nhơn duyên tứ là thập nhị hữu chi, Quán
thập nhị chi không có ngã ngã sở, đây gọi là thập nhị nhơn duyên không.
Thế nào là Tánh không?
Nếu có Tỳ Kheo quán nhãn không, không có ngã ngã
sở, đến quán ý không, không có ngã sở. Đây gọi là Tánh không.
Đây gọi là pháp hành có thể quán tâm tâm số.
Tỳ Kheo như vậy chẳng thấy chúng sanh thọ mạng sĩ
phu. Tỳ Kheo ấy biết tất cả pháp tánh chơn thiệt hiểu biết thế đế vì là lưu bố
vậy. Nói ấm nhập giới, biết tất cả pháp tánh không có xuất diệt.
Tỳ Kheo như vậy có thể qua khỏi sanh tử, có thể
biết Khổ, Tập, Diệt, Đạo, có thể dứt phiền não.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo tu tập pháp hành
biết tất cả pháp từ nhơn duyên sanh từ nhơn duyên diệt. Tỳ Kheo như vậy được ba
giải thoát, biết sắc chơn tướng. Sắc chơn tướng ấy tức là ngại tướng, thọ thọ
tướng, tưởng giác tướng, hành hành tướng, thức tri tướng. Đây gọi là chơn thiệt
biết tất cả pháp tướng, quán như vậy rồi được Không giải thoát môn.
Thấy tất cả pháp không có tác giả thọ giả, không có
thọ mạng tự tại, chỉ thấy vô thường khổ vô ngã bất tịnh, đây gọi là được Vô
nguyện giải thoát môn.
Quán tất cả pháp không có sanh không có diệt, đây
gọi là được Vô tướng giải thoát môn.
Nầy Kiều Trần Như! Pháp hành Tỳ Kheo có thể được
thần thông không có ác giác quán, miệng trọn chẳng nói bốn thứ ác, không có đấu
tranh, không nghe lời ác, lúc bấy giờ xa lìa ngũ cái tăng trưởng năm thiện căn
được Sơ thiền.
Nhập sơ thiền rồi muốn được thần thông, cột tâm đầu
mũi quán hơi thở ra vào sâu thấy chín vàn ngàn lỗ lông, hơi thở ra vào thấy
thân đều rỗng không, đến tứ đại cũng như vậy.
Quán như vậy rồi xa lìa sắc tướng được thần thông,
đến Tứ thiền cũng như vậy.
Thế nào là pháp hành Tỳ Kheo được Nhãn thông?
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo quán hơi thở ra
vào chơn thiệt thấy sắc. Đã thấy sắc rồi tư duy như vầy: như ta được thấy tam
thế các sắc, ý nếu muốn thấy tuỳ ý liền thấy. Đến Tứ thiền cũng như vậy.
Thế nào là pháp hành Tỳ Kheo được Nhĩ thông?
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo lúc được Sơ thiền
quán hơi thở ra vào. Quán hơi thở ra vào rồi thứ đệ quán âm thanh, đến Tứ thiền
cũng như vậy.
Thế nào là pháp hành Tỳ Kheo được Tha tâm trí?
Nếu có Tỳ Kheo lúc được Sơ thiền quán hơi thở ra
vào tu Xa ma tha và Tỳ bà xá na, đây gọi là Tha tâm trí, đến tứ thiền cũng như
vậy.
Thế nào là pháp hành Tỳ Kheo được Túc mạng trí?
Nếu có Tỳ Kheo quán hơi thở ra vào lúc được Sơ
thiền được nhãn thông. Được nhãn thông rồi quán thân ban sơ lúc ca la la nhẫn đến
ngũ ấm sanh diệt, trong vô lượng kiếp ngũ ấm sanh diệt. Đến Tứ thiền cũng như
vậy.
Nói là thiền ấy, cớ sao gọi là Thiền?
Vì mau chóng gọi là Thiền. Mau rất mau, trụ đại
trụ, tĩnh tịch tĩnh, quán diệt viễn ly, đây gọi là Thiền.
Sơ thiền ấy cũng gọi là cụ túc, cũng gọi là viễn
ly.
Thế nào là cụ túc? Thế nào là viễn ly?
Nói viễn ly là xa lìa ngũ cái.
Nói cụ túc là có đủ năm chi, đó là giác, quán, hỉ,
an và định.
Thế nào là giác?
Như tâm giác đại giác, tư duy đại tư duy quán nơi
tâm tánh. Đây gọi là giác.
Thế nào là quán?
Nếu quán tâm hành, đại hành, biến hành, đều tuỳ ý.
Đây gọi là quán.
Thế nào là hỉ?
Như chơn thiệt biết, biết rất rõ, tâm động chí tâm.
Đây gọi là hỉ.
Thế nào là an?
Đó là thân an, tâm an, thọ an, thọ nơi lạc xúc. Đây
gọi là an.
Thế nào là định?
Nếu tâm trụ đại trụ, chẳng loạn nơi cảnh duyên,
chẳng sai lầm, không có điên đảo. Đây gọi là định.
Nhị thiền ấy, đồng xa lìa ngũ cái, có đủ bốn chi là
hỉ, an, nội tịnh và định.
Nhập Tam thiền cũng xa lìa ngũ cái, có đủ năm chi
là niệm, xả, huệ, an và định.
Nhập Tứ thiền cũng lìa ngũ cái, có đủ bốn chi là
niệm, xả, bất khổ bất lạc và định.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo đầy đủ Tứ thiền,
đây gọi là pháp hành.
Nếu có Tỳ Kheo quán thân nhàm sợ, xa lìa thân
tướng, tất cả thân xúc, hỉ xúc, lạc xúc, phân biệt sắc ấm, xa lìa sắc ấm, quán
vô lượng không xứ. Đây gọi là Tỳ Kheo tu tập pháp hành.
Thế nào là Tỳ Kheo được Thức xứ định?
Nếu có Tỳ Kheo tu Xa ma tha, Tỳ bà xá na quán tâm ý
thức, tự biết thân nầy chẳng thọ ba thứ thọ, đã được xa lìa ba thứ thọ ấy, vì
vậy nên gọi là được thức xứ định. Đây gọi là pháp hành.
Thế nào là Tỳ Kheo được Thiểu xứ định?
Nếu có Tỳ Kheo quán tam thế không, biết tất cả hành
cũng sanh cũng diệt, không xứ và thức xứ cũng sanh cũng diệt. Quán như vậy rồi
thứ đệ quán thức: nay ta quán thức cũng chẳng phải thức, chẳng phải chẳng thức.
Nếu chẳng phải thức ấy đây gọi là tịch tĩnh. Nay ta thế nào dứt hẳn thức ấy.
Quán như vậy rồi được ít thức xứ. Đây gọi là Tỳ Kheo được Thiểu xứ định.
Thế nào là Tỳ Kheo được Phi tưởng phi phi tưởng xứ
định?
Nếu Tỳ Kheo có chẳng phải tâm tưởng, suy nghĩ như
vầy: nay tưởng ấy của ta là khổ là thống là nhọt, là ung, là chẳng tịch tĩnh,
nếu ta có thể dứt được chẳng phải tưởng chẳng phải chẳng tưởng ấy, đây gọi là
tịch tĩnh.
Nếu Tỳ Kheo có thể dứt được chẳng phải tưởng chẳng
phải chẳng tưởng ấy, đây gọi là được vô tướng giải thoát môn. Tại sao, pháp
hành Tỳ Kheo suy nghĩ rằng:
Nếu có thọ tưởng, nếu có thức tưởng, nếu có xúc
tưởng, nếu có không, nếu có thức, nếu có phi tưởng phi phi tưởng. Các thứ tưởng
ấy gọi là thô tưởng. Nay nêu ta tu vô tướng tam muội thì có thể dứt được các
tưởng như vậy, vì thế nên thấy phi tưởng phi phi tưởng là tịch tĩnh xứ. Thấy
như vậy rồi nhập phi tưởng phi phi tưởng định.
Nếu được Phi tưởng phi phi tưởng định rồi mà không
ái không ái không tham thì có thể phá vô minh, phá vô minh rồi thì gọi là được quả
A La Hán.
Ba định trước không thức và thiểu xứ hai đạo sở
đoạn. Định thứ tư sau đây trọn chẳng thể dùng thế tục đạo đoạn được. Phàm phu
dù ở nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ không có thô phiền não cũng còn có mười
pháp. Đó là thọ, tưởng, hành, xúc, tư, dục, giải, niệm, định và huệ.
Thọ là thức thọ, tưởng là thức tưởng, hành là pháp
hành, xúc là ý xúc, tư là pháp tư, dục là muốn nhập định muốn xuất định, giải
là pháp giải, niệm là niệm tam muội, định là tâm như pháp trụ, huệ là hụê căn
và huệ lực.
Quán hướng tứ quả hành đến được A La Hán quả, quán
sanh diệt và không tam muội. Quán tứ đại như bốn rắn độc. Mười pháp như vậy,
không xứ thứ tư có đủ cả. Do vì không có thô phiền não nên phàm phu gọi đó là
Niết bàn.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo tu tập thánh đạo
nhàm lìa tứ thiền và tứ không xứ, quán nơi diệt định đạo trang nghiêm tư duy
như vầy: Các hơi thở ra vào đều là vô thường, nếu ta dứt được xuất nhập tức thì
là an lạc. Do đây nên tất cả các hành nhơn duyên đều diệt, thọ diệt, tưởng diệt,
nhẫn đến huệ diệt. Vì giác quán diệt nên ấm nhập giới đều diệt, tham sân si
diệt, tất cả tâm số pháp diệt, tất cả phi tấm số pháp cũng diệt. Đây gọi là
pháp bất cộng với phàm phu, chẳng phải pháp thế gian, là pháp vô học.
Nầy Kiều Trần Như! Bực Tu Đà Hoàn, bực Tư Đà Hàm
trọn chẳng thể được diệt định ấy. Thứ đệ được quả A Na Hàm cũng chẳng thể được.
Nếu người A Na Hàm xả thân nầy rồi được quả A La Hán cũng không thể được diệt
định ấy.
Nếu người được bát giải thoát đầy đủ, người nầy mới
được diệt định ấy.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu giả sử Như Lai cùng kiếp tận
kiếp nói môn Pháp Mục đà la ni ấy mới cùng tận được. Đây gọi là pháp vô ngại
trí.
Nầy Kiều Trần Như! Pháp mục đà la ni như vậy chẳng
thể nghĩ bàn.
Giả sử có người dùng quỷ mao đếm được số giọt nước
biển, nhưng chẳng đếm biết được công đức của Pháp Mục đà la ni. Nếu trừ Như
Lai, có ai nói hết được thì không có lẽ ấy. Nhẫn đến tất cả vi trần trong Ta Bà
thế giới cũng như vậy.
Đức Phật bảo Kim Cương Sơn Đồng tử rằng: “Nầy Kim
Cương Sơn! Pháp Mục đà la ni của ông mang đến đây cùng với chỗ được nói hôm nay
có khác không?”.
Kim Cương Sơn Đồng tử nói: “Bạch đức Thế Tôn! Không
có khác vậy”.
Đức Phật hỏi: “Nầy Kim Cương Sơn! Nói như vậy
chăng?”.
Kim Cương Sơn Đồng tử nói: “Bạch đức Thế Tôn! Thiệt
nói như vậy”.
Đức Phật nói: “Với pháp nầy, nếu có người thọ trì
đọc tụng thơ tả rộng vì người giảng nói. Nên biết rằng người ấy thường được
Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La
Già, tất cả Bát Bộ Thiên Thần thủ hộ. Tất cả tứ ma chẳng được tiện lợi, qua sông
phiền não nhập vào Bát chánh đạo”.
Kim Cương Sơn Đồng tử nói: “Lành thay, bạch đức Thế
Tôn! Thiệt đúng như lời đức Phật dạy”.
Đức Phật bảo Tôn giả Kiều Trần Như: “Nầy Kiều Trần
Như! Nếu có người trong hàng tứ chúng mà tu pháp ấy thì không gì phá hoại được.
Đây gọi là thí quang, hay thanh tịnh tịch tĩnh, không có hành xứ, không trược,
không động, không có sở y, không ít, không nhiều, gọi là chí xứ hành, là tế hành,
là kiên hành, hay phá bốn ma và tứ ma chúng, cùng tất cả tà kiến, qua sông sanh
tử vào biển trí huệ, thường được chư Thánh tán thán, được gần chỗ ngồi của Như Lai,
dầu chưa dứt hết tất cả phiền não, cũng được thượng thân thượng sắc thượng lực
thượng biện thượng niệm thượng huệ thượng xứ. Hoặc được làm Chuyển Luân Vương thống
lãnh bốn ba hai một thiên hạ. Hoặc làm Thiên Đế Thích đến Tha Hoá Tự Tại Thiên
Vương. Hoặc làm Phạm Thiên Vương. Hoặc được toà kim cương dưới cội Bồ đề, phạm âm
thâm viễn, tâm thường bình đẳng, được tâm đại bi, được Xa ma tha phá các phiền
não gọi là Vô Thượng Tôn”.
Lúc Phật nói pháp ấy, Tôn giả Xá Lợi Phất, Tôn giả
Đại Mục Kiền Liên v.v… từ chỗ ngồi được quả A La Hán.
Tất cả chư Thiên và thế nhơn tán thán rằng: “Như
Lai công đức bất khả tư nghị”.
Vô Lượng chúng sanh được quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà
Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán, vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Tứ Thiên Vương và Công Đức Thiên bạch rằng: “Bạch
đức Thế Tôn! Tuỳ xứ nào lưu bố kinh điển nầy, tôi sẽ ủng hộ tứ bộ đệ tử tại xứ
ấy, cũng ủng hộ quốc độ ấy những thành ấp thôn xóm tụ lạc quốc vương và nhơn
dân”.
Lúc bấy giờ Thế Tôn phóng my gian bạch hào tướng
quang chiếu suốt thế giới chư Phật mười phương làm mờ cả những nhựt nguyệt tinh
tú châu lửa đèn đuốc. Những nơi được ánh sáng bạch hào ấy chiếu đến thì tất cả
gai gốc độc không còn hiện. Chúng sanh trong vô lượng hằng hà sa số thế giới
mười phương thấy ánh sáng ấy, họ đều nhiếp niệm tư duy pháp lành.
Chư Phật mười phương thấy ánh sáng ấy đều bảo đại
chúng mình rằng: “Nầy các thiện nam tử! Cách đây vô lượng hằng hà sa số thế
giới có thế giới tên là Ta Bà đủ ngũ trược. Nơi đó hiện có Phật hiệu Thích Ca
Mâu Ni Như Lai đủ mười hiệu. Mười phương có vô lượng Bồ Tát, vô lượng Thanh Văn
đều đến đó tập hội. Phật ấy vì đại chúng tuyên nói pháp hành môn Pháp Mục đà la
ni. Phật ấy vì hàng Thanh Văn nói pháp hành xong phóng đại quang minh, sắp sửa
tuyên nói môn Tịnh Mục đà la ni, để người trung thừa được quả Duyên Giác, để
chư Bồ Tát trang nghiêm thành tựu Vô thượng Bồ đề đầy đủ thập địa mười tám pháp
bất cộng chuyển pháp luân bất thối, phá ba ác thú, khiến tu Bát thánh đạo được
quả Vô thượng”.
Vô lượng đại chúng chư Bồ Tát nghe đức Phật mình
tuyên lời ấy, tất cả đều bạch Phật mình rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay chúng tôi
đều muốn đến Ta Bà thế giới kính lễ Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai và cũng để
nghe học môn Tịnh Mục đà la ni”.
Bấy giờ mười phương vô lượng đại chúng Bồ Tát đến
Ta Bà thế giới chỗ đức Thế Tôn đầu mặt lễ Phật rồi ngồi qua một phía.
Thế giới nầy, vô lượng Phạm Thiên đồng đến chỗ Phật
cúng dường kính lễ rồi ngồi qua một phía.
Trăm ức Ma Thiên, trăm ức Tha Hoá Tự Tại Thiên,
trăm ức Hoá Lạc Thiên, trăm ức Đâu Suất Đà Thiên, trăm ức Dạ Ma Thiên, trăm ức
Đao Lợi Đế Thích Thiên, trăm ức Tứ Thiên Vương Thiên, trăm ức Nhựt Nguyệt
Thiên, trăm ức Diêm La Vương, trăm ức Địa Hành Quỉ, bốn trăm ức A Tu La, bốn
trăm ức Long Vương. Đại chúng như vậy đều đến cúng dường kính lễ Phật rồi ngồi
qua một phía.
Vô lượng Sa Môn, Bà La Môn, những người có thần
thông cũng đến chỗ Phật kính lễ rồi ngồi qua một phía.
Trong thế giới có các ngoại đạo tướng sư thấy quang
minh ấy đều suy nghĩ rằng:
Ánh sáng ấy chẳng phải ánh sáng nhựt nguyệt tinh tú
châu lửa đèn đuốc, ắt là ánh sáng lạ, có thể chẳng bao lâu có bảy mặt nhựt mọc
sẽ đốt cháy hết đại hải, sông núi, cây cỏ, sau đó Dục giới sẽ có thuỷ tai.
Còn có người nói, sau đây chẳng lâu sẽ có mưa độc
giết hại tất cả.
Còn có người nói, sau đây chẳng lâu sẽ có mưa đao
kiếm giết hại người vật. Thời kỳ ác hại sắp đến rồi, ai có thể cứu được.
Có người nói: chỉ có Cù Đàm Sa Môn thương xót tất
cả có lẽ ông ấy sẽ cứu được khỏi chết.
Bấy giờ mọi người chí tâm niệm Phật. Niệm rồi liền
thấy Đại Bửu Phường Đình, do Phật thần lực, họ đến trong phường đình.
Vua Ba Tư Nặc, do Phật thần lực cũng thấy bửu
phường và cũng được đến đó.
Vua Ưu Điền Đà Na, vua Ác Tánh, vua Luân Đầu Đàn,
vua Ma Hê Đà, vua Đầu Đà Xa Na, vua Tần Bà Sa La. Các vua ấy cũng do Phật thần
lực thấy bửu phường đều được đến đó. Các vua đến nơi rồi cúng dường kính lễ
phật rồi ngồi qua một phía.
Các vua ngồi rồi bảo nhau rằng: “Trong đây có đại
tiên nhơn, có Phật Thế Tôn. Vậy nhơn duyên của ánh sáng ấy nên đem hỏi ai?”.
Vua Đầu Đà Xa Na nói: “Tôi có một đại Bà La Môn sư
tên Điện Man, giỏi biết tướng pháp, hay giải hay nói, là người đáng nên hỏi”.
Tướng sư Điện Man nghe rồi liền nói: “Tôi xem rộng
hết tất cả tướng thơ đều không có ghi sự nầy. Thiệt tôi chẳng thể hiểu được
điềm ánh sáng ấy. Chẳng riêng gì tôi, mà cả năm trăm tướng sư trong Diêm Phù Đề
nầy cũng đều chẳng hiểu được”.
Vua Tần Bà Sa La nói: “Nầy các vua! Sao các vua lại
rối vậy. Trong đại chúng nơi bửu phường nầy có Phật Thế Tôn hiệu Thích Ca Mâu
Ni đủ Nhứt thiết trí, giỏi biết tất cả tướng thế gian và xuất thế gian, biết rõ
sách tướng lành mười hai tháng, có lòng đại từ bi thương mến tất cả chúng sanh,
thiệt ngữ chánh ngữ. Chỉ có Phật Thế Tôn đây có thể giải nói điềm ánh sáng ấy.
Chúng ta nên hỏi Phật”.
Các vua và đại chúng đều tôn ngưỡng đồng bạch rằng:
“Ngữa mong Như Lai vì chúng tôi mà nói sách tướng mười hai tháng”.
Đức Phật nói: “Nầy các vua! Nay đại hội nầy chẳng
nên nói sách tướng thế gian”.
Vua Tần Bà Sa La bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Nay
trong đại chúng nầy có những người chẳng tin công đức Như Lai. Họ lại chẳng tin
Thế Tôn là bực Nhứt thiết trí. Nguyện Phật vì phá hoại lòng nghi như vậy mà vì
chúng tôi tuyên nói sách ấy. Những người như vậy được nghe rồi ắt vui mừng sanh
lòng tin. Họ sanh lòng tin rồi mới có thể vì họ nói đạo xuất thế. Những người
nầy cũng thường thích học hỏi để điều phục”.
Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Chí tâm lắng nghe,
Phật sẽ nói đó.
Nầy Đại Vương! Thưở xưa tại Tuyết Sơn có một tiên
nhơn tên Bạt Già Bà. Tiên ấy ăn rau quả rễ củ, tu tập từ tâm, chưa dứt được
phiền não kiết sử, chẳng điều phục được lòng tham dục.
Chỗ tiên nhơn ấy có một cọp cái bèn cùng hành dục.
Cọp cái có thai đủ ngày tháng đến chỗ tiên nhơn đẻ mười hai người con trai. Vì
lòng thương, tiên nhơn tắm rửa các trẻ và mớm nuôi chúng. Cọp mẹ cũng mến yêu
luôn cho chúng bú.
Tiên nhơn đặt tên cho chúng: Thứ nhứt tên Đoan Già,
thứ hai tên Bạt Già Bà, thứ ba tên Hổ, thứ tư tên Sư Tử, thứ năm tên Đảm Trọng,
thứ sáu tên Bà La Đoạ Xà, thứ bảy tên Bộ Hành, thứ tám tên Bà La Nô, thứ chín
tên Kiện Thực, thứ mười tên Ác Tánh, thứ mười một tên Sư Tử Thiềm, thứ mười hai
tên Kiện Hành.
Mười hai đồng tử ấy đều ăn rau quả rễ củ, lúc lên
bảy tuổi thì cả cha và mẹ đều chết. Các trẻ ấy sầu não lo lắng kêu khóc, ngước
mặt lên trời mà nói rằng: Tại sao một lúc không có nơi nương dựa thế nầy.
Có thọ thần nghe lời kêu khóc ấy bảo rằng: Nầy các
đồng tử chớ kêu khóc. Có chỗ dựa nương đó là Phạm Thiên thường thương mên chúng
sanh.
Các ngươi ngày đêm sáu thời nên tự tắm gội, hướng
lên hư không chí tâm lễ lạy cầu khẩn Phạm Thiên.
Phạm Thiên sẽ dùng vô ngại thiên nhĩ nghe tiếng của
các ngươi. Nghe rồi Phạm Thiên sẽ đến chỗ chúng ngươi ở. Đến rồi vì thương xót
Phạm Thiên sẽ phá trừ si ám cho các ngươi mà ban cho ánh sáng trí huệ. Được trí
huệ rồi thì tất cả chư Thiên sẽ cúng dường các ngươi huống là thế nhơn.
Các đồng tử y theo lời thọ thần mà thi hành suốt
mười hai năm Phạm Thiên mới nghe tiếng kêu cầu của họ mà xuống cung Trời Đao
Lợi.
Thiên Đế Thích thấy Phạm Thiên đến liền cung kính
cúng dường rồi hỏi rằng: Đại Sĩ muốn việc gì?
Phạm Thiên nói: Nầy Kiều Thi Ca! Ông chẳng thấy
mười hai tiên nhơn trong Tuyết Sơn kia sao? Nên cùng qua đó.
Thích Đề Hoàn Nhơn cùng vô lượng chư Thiên theo
Phạm Thiên xuống Tuyết Sơn.
Thấy Phạm Thiên đến, mười hai tiên nhơn vui mừng
hớn hở lễ bái cúng dường.
Phạm Thiên Vương hỏi:
Các người cớ chi trong mười hai năm tinh cần khổ
hạnh cúng dường ta muốn cầu sự gì? Vì cầu danh tiếng sắc lực của cải, hay cầu
thánh đạo trí huệ, hay cầu được thân chư Thiên?
Kiệt Già Tiên bạch Phạm Thiên: Thưa Đại Sĩ! Nay tôi
chẳng cầu những sự ấy. Tôi muốn cầu trí huệ để vì chúng sanh. Chúng tôi côi cút
trẻ nít sớm mất cha mẹ tự theo ý mình không có ai dạy bảo.
Duy nguyện Đại Sĩ ban cho chúng tôi trí huệ, cho
chúng tôi biết các nghiệp thiện ác, cũng rõ chúng sanh những nghiệp thiện ác, cũng
biết chúng sanh quốc độ thành ấp Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, nam nữ
đại tiểu các tướng thiện ác các sự khổ vui, các vua tham nước chẳng biết chán
đủ hưng binh đánh nhau các tướng thạnh suy. Nếu tôi được biết rồi sẽ dùng
phương tiện dạy họ dứt diệt tướng xấu ác cho họ được an lạc.
Nầy Đại Vương! Đây là nhơn duyên có sách tướng lành
mười hai tháng, là nhơn sanh diệt thế gian chẳng phải pháp nhơn duyên vượt qua
tam giới lục đạo cũng chẳng phải pháp dứt diệt ba ác đạo khổ”.
Lúc ấy Di Lặc Bồ Tát ở trước Phật tâm niệm nói kệ
hỏi nơi đức Phật Thế Tôn:
Chẳng phải có đướng sá
Mà cũng có luân chuyển
Như Lai cũng chẳng trụ
Tất cả đạo phi đạo
Phi đạo thấy là đạo
Đạo thấy là phi đạo.
Đức Phật nói: “Nầy Di Lặc! Phi đạo là chẳng xuất
chẳng diệt chẳng trụ, chẳng phải trí chẳng phải cảnh giới của trí, chẳng phải
minh ám, chẳng phải thường đoạn, chẳng phải thiện ác, chẳng phải sắc ấm đến
thức ấm. Đây gọi là thiệt tánh, là pháp tánh, là nhứt thiết hành, là chơn thiệt
tiết. Đây gọi là phi đạo.
Trong đạo ấy, chư Phật Như Lai chuyển chánh pháp
luân mà chẳng thủ trước.
Các đạo như vậy, nếu có chúng sanh đạo thấy là phi
đạo, phi đạo thấy là đạo thì chẳng đạt được đạo và phi đạo. Mới biết rằng ba
đạo Như Lai đều hay phân biệt giải nói nhẫn đến chẳng dứt nơi đạo.
Nầy Di Lặc! Như Lai Thế Tôn ở trong không có đạo mà
chuyển pháp luân để phá hoại chúng sanh ba thứ đạo vậy. Những gì là ba thứ đạo?
Đó là phiền não đạo, khổ đạo và nghiệp đạo.
Nghiệp đạo là hành và hữu. Phiền não đạo là vô
minh, ái và thủ. Khổ đạo là thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, sanh và lão tử.
Ba đạo như vậy do nhơn duyên gì mà có. Đó là do xúc
làm duyên mà có.
Nầy Di Lặc! Nhơn nhãn thấy sắc mà sanh ái tâm, ái
tâm ấy là vô minh. Do ái tâm gây tạo nghiệp gọi là hành, chí tâm chuyên niệm gọi
là thức, thức cùng đi chung với sắc gọi là danh sắc, sáu căn sanh tham gọi là
lục nhập, nhơn nhập cầu thọ gọi là xúc, tâm tham trước gọi là ái, cầu lấy các
pháp ấy gọi là thủ, pháp như vậy sanh gọi là hữu, thứ đệ chẳng dứt gọi là sanh,
thứ đệ dứt gọi là tử, sanh tử nhơn duyên các khổ bức bách gọi là não, nhẫn đến
thức nhơn duyên sanh tham cũng như vậy.
Mười hai nhơn duyên ấy, nơi một người trong một
niệm đều có đủ cả.
Xuất có ba thứ, đó là nhơn xuất, vật xuất và đạo
xuất.
Nếu có Tỳ Kheo tu hành pháp hạnh quán sát tướng mạo
ái tâm mà mình có. Tỳ Kheo nên quán sát nếu có ái tâm tức là vô minh.Thể tánh
của vô minh hay xuất ra hai lỗi đó là xuất ra hành và thức. Thức cũng hay xuất
ra hai lỗi đó là xuất ra danh và sắc. Danh sắc xuất ra hai là vô trụ và làm lục
nhập. Lục nhập xuất ra hai là chẳng nhàm dục và xúc. Xúc cũng xuất ra hai là
sanh tâm thọ và cầu thọ. Thọ xuất ra hai là thọ khổ lạc và tâm tham ái. Ái xuất
ra hai là hệ phược bền chắc và cầu lấy tức là thủ. Thủ xuất ra hai là tâm thâm và
cầu có tức hữu. Hữu xuất ra hai là thích ở và nhơn duyên. Duyên xuất ra hai là
sanh già và khổ duyên. Già xuất ra hai là hư hoại sắc trẻ và làm nhơn cho tử.
Tử cũng xuất ra hai là hư hoại thọ mạng và ái biệt ly. Đây gọi là xuất nhơn.
Nếu Tỳ Kheo tu tập pháp hành quán các pháp như vậy
cũng là xuất cũng là diệt thì gọi là vật xuất”.
Đức Thế Tôn lại bảo Tôn giả Kiều Trần Như: “Nầy
Kiều Trần Như! Thế nào là đạo xuất?
Nếu Tỳ Kheo kiến đạo thì có hai hạng là hành hành
và huệ hành. Chừng ông có biết hành hành và huệ hành ấy chăng?”.
Tôn giả Kiều Trần Như nói: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi
chưa biết. Duy nguyện Như Lai vì Tỳ Kheo quán mười hai nhơn duyên được đại trí
huệ phá phiền não kiết sử mà phân biệt giải nói. Tỳ Kheo nghe rồi sẽ thọ trì
đầy đủ”.
Đức Thế Tôn hỏi Bửu Tràng đồng tử rằng: “Nầy Bửu
Tràng! Chừng ông có biết hơi thở ra vào chăng?”.
Bửu Tràng đồng tử bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi
chẳng biết”.
Đức Phật nói: “Nầy thiện nam tử! Pháp hành Tỳ Kheo
trước tiên quán vô minh đến lão tử.
Thế nào gọi là trước quán vô minh?
Trước tiên quán trung ấm nơi cha mẹ sanh tâm tham
ái. Do ái nhơn duyên nên tứ đại hoà hiệp hai giọt tinh huyết hiệp thành một giọt
bằng hột đậu gọi là ca la la. Ca la la ấy có ba sự là mạng căn, thức và hơi
nóng. Nghiệp duyên quả báo trong đời quá khứ không có tác giả và thọ giả. Sơ
tức xuất nhập gọi là vô minh ca la la. Lúc ấy hơi thở ra vào có hai đường đó là
theo hơi thở lên xuống của bà mẹ cứ bảy ngày thì một lần biến đổi. Hơi thở ra
vào gọi là thọ mạng đây gọi là phong đạo. Chẳng thúi chẳng rã đây gọi là noãn
nóng. Tâm ý trong ấy gọi là thức.
Nếu người muốn được quả Bích Chi Phật thì nên quán
mười hai nhơn duyên như vậy.
Lại quán ba thứ thọ, nhơn duyên ngũ ấm, thập nhị
nhập, thập bát giới. Quán thế nào?
Theo nơi niệm tâm quán hơi thở ra vào, quán sát nội
thân da thứa thịt gân xương tuỷ như mây trên không. Gió động trong thân cũng
như vậy. Có gió hay lên, có gió hay xuống, có gió hay đầy, có gió hay cháy, có
gió hay tăng trưởng. Vì vậy nên hơi thở ra vào gọi là thân hành. Vì hơi thở ra
vào theo giác quán mà sanh nên gọi là ý hành. Hoà hiệp phát ra âm thanh nên gọi
là khẩu hành. Do nhơn duyên ba hành ấy nên có thức sanh. Do nhơn duyên thức nên
có bốn ấm và sắc ấm nên gọi là danh sắc. Nhơn duyên ngũ ấm mà thức hiện hành
sáu chỗ gọi là lục nhập. Nhãn và sắc đối nhau đến ý và pháp đối nhau gọi đó là
xúc. Nhơn duyên xúc nên nhớ ghi sắc ấy đến pháp ấy gọi là thọ. Tham trước nơi
sắc đến pháp thì gọi đó là ái. Nhơn duyên ái nên tìm cầu bốn phương đây gọi là
thủ. Do nhơn duyên thủ nên có thân sau đây gọi là hữu. Do nhơn duyên hữu nên có
sanh và lão tử các thứ khổ.
Đây gọi là cội cây lớn mười hai nhơn duyên, ngũ ấm,
thập nhị nhập, thập bát giới vậy.
Vì thế nên duyên nơi xuất nhập tức hay sanh ra tất
cả các khổ phiền não. Phàm phu lúc sanh là phiền não hệ phược, lúc tử cũng
phiền não hệ phược, trọn chẳng được thân tâm tự tại, chẳng được tam muội, chẳng
hết các lậu.
Nếu có Tỳ Kheo quán xuất nhập tức như gió trong hư
không, không có ngã ngã sở, không có tác giả không có thọ giả, nó theo duyên mà
sanh cũng từ nơi duyên mà diệt, không có tướng không có vật không có giác quán.
Gió của chúng sanh cũng như vậy, cùng chung tứ đại
mà hiện hành.
Lúc sanh Ca la la chín lỗ đến chín vạn chín ngàn
lỗ. Các lỗ ra vào không có tác giả không có thọ giả, chỉ là gió ra vào khối thịt
như vậy.
Do nhơn duyên ấy mà có vô minh đến lão tử các khổ
tụ họp.
Nầy thiên nam tử! Ví như hư không không có vật
không có ngã. Cũng vậy, các hơi thở ra vào địa thuỷ hỏa phong thọ mạng noãn ấm thức
tâm vô minh đến sanh lão bịnh tử cũng không có ngã không có vật.
Chúng sanh mê lầm điên đảo ở trong chẳng phải ngã
mà lầm thấy ngã, trong chẳng phải vật mà lầm thấy vật. Nơi những thứ đồng hư
không mà tưởng ấm nhập giới. Do điên đảo mê lầm như vậy mà phàm phu luân chuyển
sanh tử không có cùng tận.
Nếu Tỳ Kheo quán hơi thở ấy lạnh thì cả thân lạnh,
nếu quán hơi thở ấy ấm nóng thì cả thân ấm nóng. Thân thể lúc ấy theo ý theo
hơi gió.
Nếu lúc quán lạnh mà chẳng được thiền định chẳng
vào định tụ, thì người quán ấy đoạ vào lãnh địa ngục.
Nếu lúc quán nóng mà chẳng được thiền định chẳng
vào định tụ, thì người quán ấy đoạ vào nhiệt địa ngục.
Nếu đệ tử Phật tu tập pháp hành lúc quán hơi thở ra
vào lạnh hay nóng thì được chánh đạo.
Pháp hành Tỳ Kheo như thiệt quán sát vô minh đến
sanh lão bịnh tử, tâm chẳng điên đảo thì gọi là Tịnh Mục đà la ni vậy.
Nầy thiện nam tử! Nếu ông có thể học đà la ni ấy,
tức là chơn thiệt quán xuất nhập tức”.
Bửu Tràng Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn!
Cảnh giới chư Phật bất khả tư nghị, chẳng phải Thanh Văn, Duyên Giác đến được”.
Tứ Đại Thiên Vương bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn!
Tuỳ xứ nào có lưu bố kinh điển nầy, chúng tôi cần phải theo hầu thủ hộ, bao
nhiêu ác sự đều làm cho tiêu diệt”.
Vua Tần Bà Sa La bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn!
Nhơn nơi các hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật tu hành pháp hạnh nên khiến Diêm
Phù Đề không có tật dịch đói kém và các ác sự.
Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm,
nếu có tứ tánh chúng sanh cung kính cúng dường thì được bao nhiêu phước đức?”.
Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nếu có Bồ Tát tu Tứ
vô lượng tâm, tuỳ xứ nào có Bồ Tát ấy ở thì xứ ấy có đủ tám sự lành cao thượng.
Một là nhơn dân xứ ấy cúng dường cha mẹ, tăng
trưởng tàm quí, cung kính Sa Môn các Bà La Môn, bực kỳ cựu có đức thọ trì cấm
giới.
Nầy Đại Vương! Xứ nào có Bồ Tát tu bốn tâm vô lượng
thì nhơn dân xứ ấy thành tựu sự lành tốt ban đầu như vậy.
Hai là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn
dân xứ ấy tu tập từ tâm xa lìa sát hại, lòng họ điều nhu không có tham dục sân
hận mà thường bình đẳng không hai.
Ba là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn
dân xứ ấy không tham gian, ưa thích bố thí, quở trách trộm cắp.
Bốn là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn
dân xứ ấy vợ chồng trinh chánh, quở trách gian dâm phi pháp.
Năm là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn
dân xứ ấy chơn ngữ, thiệt ngữ, hoà hiệp ngữ, nhu hoà ngữ, quở trách vọng ngôn,
ác khẩu, lưỡng thiệt, ỷ ngữ.
Sáu là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn
dân xứ ấy không có lòng ganh tỵ ghét ghen ác độc.
Bảy là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn
dân xứ ấy chánh kiến chẳng mê lầm, không có tà kiến.
Tám là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn
dân xứ ấy tất cả cung kính cúng dường Tam bửu xa lìa ác kiến.
Còn nữa, nầy Đại Vương! Nếu Bồ Tát tu bốn tâm vô
lượng ở xứ nào thì xứ ấy không có tám sự bố uý.
Một là không có sự bố uý về binh cách trong nước và
ngoài nước.
Hai là không có bố uý về ác quỉ.
Ba là không có bố uý về ác tinh tú.
Bốn là không có bố uý về ác bịnh.
Năm là không có bố uý về ác thú.
Sáu là không có bố uý về ác tặc.
Bảy là không có bố uý về hạn khô và lụt lũ.
Tám là không có bố uý về thiếu lương thực.
Còn nữa, nầy Đại Vương! Nếu Bồ Tát tu Tứ vô
lượng tâm ở xứ nào thì xứ ấy có tám hạng đại trượng phu:
Một là có các chúng sanh từ quá khứ ở chỗ vô lượng
Phật vun trồng thiện căn thích sanh vào xứ ấy.
Hai là có các chúng sanh từ vô lượng đời quá khứ tu
trì tịnh giới và đa văn thích sanh vào xứ ấy.
Ba là có các chúng sanh từ vô lượng đời quá khứ
hiếu kính cúng dường cha mẹ, Sư trưởng, Hoà thượng kỳ cựu bực có đức thích sanh
vào xứ ấy.
Bốn là có các chúng sanh từ vô lượng đời quá khứ tu
tập nghiệp trời sẽ thọ thân trời mà cố ý chuyển báo trời thích sanh vào xứ ấy.
Năm là có các chúng sanh hay phá trừ ác nghiệp ba
ác thú thích sanh vào xứ ấy.
Sáu là có các chúng sanh đủ pháp Thanh Văn thừa
thích sanh vào xứ ấy.
Bảy là có các chúng sanh đủ pháp Duyên Giác thừa
thích sanh vào xứ ấy.
Tám là có các chúng sanh từ vô lượng đời quá khứ tu
sáu Ba la mật thích sanh vào xứ ấy.
Còn nữa, nầy Đại Vương! Nếu có Bồ Tát tu bốn tâm vô
lượng ở xứ nào thì xứ ấy đất đai mầu mỡ, nước dùng lành tốt, có pháp vị vô
thượng, tất cả nhơn dân cùng mọi loài có lòng thân yêu nhau, xả thân hiện tại
đều được sanh cõi trời được Thiên thân.
Nầy Đại Vương! Như một cái hộp đựng bốn thứ hương
thơm là trầm thuỷ hương, đa già la hương, ngưu đầu chiên đàn hương và đa ma la
diệp hương. Bốn thứ hương ấy hiệp có bốn lượng. Có người trong tứ tánh đem bốn
thứ y phục để vào hộp hương ấy được vài ngày rồi mỗi người mỗi tánh tự cầm y
phục của mình mà đi.
Bốn thứ hương ấy vẫn còn đủ phân lượng, không có
hao tổn, mà trong các y phục ấy đều có mùi thơm của hương.
Nầy Đại Vương! Nếu có Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở
xứ nào thì nhơn dân xứ ấy thành tựu các thứ công đức, mà Bồ Tát ấy không có tổn
giảm”.
Vua Tần Bà Sa La bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Đại
Bồ Tát tứ vô lượng tâm bất khả tư nghị. Tại sao, vì đại Bồ Tát tu bốn tâm vô
lượng mà có thể làm cho vô lượng vô biên chúng sanh được lợi ích lớn”.
Bây giờ trong đại hội có một Bồ Tát tên là Tịnh
Quang nói với Vô Thắng Bồ Tát rằng: “Thưa Đại Sĩ! Nay Ngài đã được lợi ích vô
thượng. Tại sao, vì Ngài thường tu tập tứ vô lượng tâm vậy.
Vô Thắng Bồ Tát nói: “Thưa Đại Sĩ ! Nay tôi thế nào
được đại lợi ích! Vì trong pháp như vậy không có tác không có thọ, không có
giác không có tri không có kiến, không có thử không có bỉ.
Như có người nói tôi có thể đem anh lạc trang
nghiêm khắp hư không. Dầu nói như vậy mà chơn thiệt chẳng thể trang nghiêm hư
không được.
Tất cả các pháp cũng như hư không, không có xuất
không có hoại, không sanh không diệt, không nơi chỗ, không có giác quán, là tịnh
tam muội giải thoát không có tướng không có tác không có nguyện. Pháp giới như
vậy không có chuyển đổi, không có tan rã, không có hiệp tụ, không có chướng
ngại, không có trược, không có biên dường như hư không, không có hòa hiệp,
không có mong muốn, không có tánh, không thấy không nói, pháp tánh không số
không ít không nhiều, không có cảnh giới, không có hai, không thủ trước, không
lượng, không sắc không thanh tịch tĩnh, không biến đổi không biên lượng, dường
như hư không, không sánh, không hơn, không thường không đoạn, khó thấy khó
biết, khó tư duy được, kiên cố không có hành, không có sân hận, nhiếp chư Phật
giới, đây gọi là phạm hạnh, gọi là Tứ vô lượng, Như Lai tu tập tâm không có
nhàm đủ siêng tu tinh tiến, đây gọi là Phật pháp, là đại tín, đại niệm, đại bất
phóng dật, chí tâm chẳng quên.
Nếu đại Bồ Tát tu tập tứ vô lượng tâm như vậy tức
là đại Bồ Tát tu hành thậm thâm pháp giới. Bồ Tát như vậy gần nhập vô sanh pháp
nhẫn hành sáu Ba la mật hộ trì chư Phật pháp. Bôt Tát như vậy đã gần đệ tam như
pháp pháp nhẫn chơn thiệt thấy thân Phật, hay phá ma chúng trừ tà đạo qua sông sanh
tử vào biển đại trí, thông đạt tất cả cảnh giới chư Phật, trang nghiêm tất cả
công đức chư Phật. Bồ Tát như vậy có sắc thân chủng tánh tài vật đều hơn các
chúng sanh. Thứ đệ sẽ ngồi pháp toạ Như Lai, đầy đủ tất cả tam muội tổng trì,
chẳng bị tất cả Thánh nhơn khinh, được hàng Duyên Giác tán thán, thường được
chư Phật hộ niệm, hay hiểu ngữ ngôn của các loài chúng sanh trong tất cả quốc
độ, trong tất cả pháp chẳng thấy người thọ người thí, cũng không thấy có người
nói người nghe pháp, không có tác giả không có thọ giả, dường như hư không”.
Tịnh Quang Bồ Tát nói: “Thưa Đại Sĩ! Vì lẽ như vậy
nên tôi nói Ngài thành tựu vô lượng công đức. Tại sao, vì đã trong vô lượng vô
biên đời siêng tu tinh tiến vậy.
Thưa Đại Sĩ! Nếu đức Phật có được Thập lực, Tứ vô
sở uý, Thập bát bất cộng pháp, xuất gia khổ hạnh ngồi cội Bồ đề thành Chánh
giác chuyển diệu Pháp luân hiện đại thần thông nhập đại Niết bàn, tất cả đều do
tu Tứ vô lượng tâm, như vậy tức là Tứ vô lượng quả.
Vì nghĩa như trên nên các thiện nam tử các thiện nữ
nhơn phải nên tu tập Tứ vô lượng tâm”.
Lúc nói pháp ấy, có hai vạn chúng sanh được tuỳ từ nhẫn, vô lượng chúng sanh đủ tứ vô lượng tâm, tất cả đại chúng hoan hỷ đồng cúng dường Phật.
Lúc bấy giờ có một đồng tử Bồ Tát tên Vô Thắng Ý quỳ dài chắp tay bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Từ vô lượng tâm có những tướng gì? Có những thể gì? Những nhơn duyên gì? Những quả báo gì? Thế nào là đầy đủ?”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay! Vô Thắng Ý có thể hỏi nghĩa thậm thâm như vậy”.
Như Lai liền nhập tam muội. Tam muội ấy tên là
Điều phục chúng sanh vô sở uý cụ.
Nhập tam muội rồi từ nhục kế Phật phóng đại quang
minh. Ánh sáng ấy rất mạnh có các màu sắc chiếu khắp vô lượng vô biên thế giới,
phát ra diệu âm thanh nói kệ rằng:
Trong sình lầy mọc hoa sen đẹp
Cũng còn mọc lên các thứ hoa
Chúng sanh mang lấy cúng dường Phật
Và cùng tất cả chư thiên thần
Tất cả ác quốc cũng như vậy
Sanh các thánh nhơn đại Bồ Tát
Hay điều chúng sanh rất khó điều
Dường như chúng sanh cúng dường hoa
Ta Bà thế giới ngũ trược ác
Trong ấy Thích Ca tuyên nói pháp
Nếu muốn có được vô lượng lợi
Phải nên đến cõi Ta Bà kia.
Các chúng sanh trong vô lượng thế giới nghe tiếng
nói kệ ấy đều cúng dường Phật Thế Tôn ở cõi mình. Cúng dường rồi thừa thần lực
Phật đều đến tập hội tại Ta Bà thế giới, đến chỗ Phật kính lễ rồi ngồi một
phía. Bấy giờ trong Đại Bửu Phường Đình khắp đầy vô lượng chúng sanh.
Các chúng sanh ấy đều riêng tự nghĩ rằng: riêng
mình ta đến đây cúng dường Như Lai, riêng mình ta ở trước Phật thưa hỏi chánh
pháp, đức Như Lai chỉ riêng mình ta mà thuyết pháp.
Bấy giờ Thế Tôn bảo Vô Thắng Ý Bồ Tát rằng: “Nầy
thiện nam tử! Từ có ba thứ. Đó là chúng sanh duyên từ, pháp duyên từ và vô
duyên từ.
Chúng sanh duyên là duyên nơi ngũ hữu.
Nếu pháp hành Bồ Tát muốn được đầy đủ sáu Ba la
mật, đại từ đại bi, Bồ Tát thập địa mau được thành tựu Vô thượng Bồ đề chuyển
chánh pháp luân, điều phục vô lượng vô biên chúng sanh qua khỏi sông lớn sanh
tử không bờ, muốn phá ác ma bạn đảng, nhập đại Niết bàn, thì nên tu tập Tứ vô
lượng tâm.
Phải tu tập thế nào?
Nếu đại Bồ Tát vì hạ phương chúng sanh đến thượng
phương chúng sanh mà tu tập tâm từ nầy, xem chúng sanh như cha, như mẹ, như Sư
trưởng, như Hoà thượng, như Phật Thế Tôn, như Thanh Văn Duyên Giác.
Lúc tu như vậy nên tư duy như vầy: Nếu có chúng
sanh vô cớ với tôi mà khởi sự ác hại, nếu tôi có lòng giận hờn chúng sanh ấy
thì sẽ bị thập phương chư Phật thấy biết sẽ bị quở trách rất đáng hổ thẹn. Chư
Phật sẽ quở tôi rằng: Sao người ấy vì Vô thượng Bồ đề mà chẳng tự điều phục
được tâm mình. Người ấy khác gì người không có chưn cẳng mà muốn đến Bắc Uất
Đơn Việt, như người mù muốn đọc sách, như người không có tay mà muốn cầm nắm,
xa lìa từ tâm mà muốn được Vô thượng Bồ đề cũng như vậy. Nếu chẳng dứt được
lòng sân hận còn chẳng thể được Thanh Văn Bồ đề, huống là Vô thượng Bồ đề. Nếu
ta chẳng điều phục được tự tâm sẽ bị chư Phật, chư Thanh Văn, Duyên Giác, Thiên
Long, Bát Bộ quở trách. Nếu ta chẳng điều phục được tự tâm sẽ mắc đại tội thọ khổ
địa ngục, chẳng được lợi ích hiện tại và vị lai, vì vậy nên phải tu tập từ tâm.
Pháp hành Bồ Tát ấy lại nghĩ rằng: nếu có ai đối
với ta đã làm các sự ác, hoặc đương làm hay muốn làm, hoặc đem sự ác gia nơi
người thân của ta, cũng phải tư duy như trước.
Quán như vậy rồi, Bồ Tát trước tiên đối với chúng
sanh một phương mà tu từ tâm, lần lần đến cả mười phương.
Đây gọi là Bồ Tát tâm từ duyên nơi chúng sanh.
Trong đại hội có một Thiên tử tên là Minh Tinh bạch
Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát sơ tu từ tâm. Tâm từ ấy có những
quả gì? Hiện tại và vị lai thành tựu bao nhiêu phước đức?
Bạch đức Thế Tôn! Bồ Tát tu tập từ tâm như vậy còn
phải đoạ ba ác đạo nữa chăng?”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, nầy thiện nam
tử! Thưở xưa ông đã cung kính cúng dường vô lượng chư Phật nên nay ông có thể
hỏi Phật như vậy. Ông đã vun trồng thiện căn kiên cố, trong vô lượng đời tu tập
tâm từ, chẳng đồng với hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, vì muốn lợi ích vô lượng chúng
sanh nên nay ông có thể hỏi Phật như vậy.
Nầy thiện nam tử! Lắng nghe lắng nghe, nay Phật sẽ
vì ông phân biệt giải nói.
Nếu có Bồ Tát tu tâm từ như trước đây ta đã nói,
người nầy thì được thức ngủ an lành chẳng thấy ác mộng, những vật cần dùng
không thiếu, chư Thiên thủ hộ, Nhơn Thiên đều thích thấy. Người nầy chẳng nghe
tiếng ác, thân chẳng có ác bịnh, thường thích tịch tĩnh siêng tu tinh tiến,
thích học chánh pháp thấy biết vô ngã, thường được Quốc chủ Sa Môn phạm chí nam
nữ lớn nhỏ nhẩn đến điểu thú cúng dường. Người nầy thường thân cận bạn lành đó
là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chư Phật Như Lai. Người nầy thích ban cho,
hay độ chúng sanh, những thiện tâm được có không bị tam độc phá hoại. Danh
tiếng tốt của người nầy lưu bố bốn phương, hay trị lành ác bịnh của chúng sanh,
hay khiến chúng sanh xa lìa các sự khổ, hay giải hệ phược cho chúng sanh, hay
điều phục phiền não cho chúng sanh, hay phá tất cả ác kiến dị kiến, hay ban cho
chúng sanh tín tâm niệm tâm, đại trí huệ tâm, trụ vững Đại thừa không gì lay động
được, chẳng theo lời người, hay trừ thân khẩu ý ác của chúng sanh, hay dứt
chúng sanh ba thứ nghiệp chướng chỉ trừ tội ngũ nghịch, tội phỉ báng chánh pháp
Đại thừa, phỉ báng bực Hiền Thánh, tội trộm cướp tài vật tứ phương Tăng.
Nầy thiện nam tử! Bồ Tát nếu có thể tu tâm từ như
vậy, lúc lâm chung diện kiến thập phương chư Phật Thế Tôn tay xoa đầu, vì tay
Phật chạm nên lòng người nầy vui mừng, vì lòng vui mừng nên được vãng sanh quốc
độ của Phật ấy, cũng nghe những lời thiện diệu như vầy: Chớ có sợ chớ có sợ! Ngươi
là người thuần thiện tu tâm từ quyết định sanh vào Phật độ thanh tịnh, thấy vô
lượng chư Phật Thế Tôn, lìa xa ba ác đạo, cứu cánh nhập Niết bàn. Người nầy
cũng nghe lời thiện diệu nói pháp duyên từ và vô duyên từ, cũng được đầy đủ tứ
vô lượng tâm đến được Vô thượng Bồ đề”.
Thiên Tử Minh Tinh nghe pháp ấy liền được xuất nhập
tự tại các thiền định.
Vô Thắng Ý Bồ Tát hỏi Phật: “Bạch đức Thế Tôn!
Thiên Tử ấy do sức gì mà ở nơi các thiền định nhập mau xuất mau như vậy?”.
Đức Phật nói: “Nầy Vô Thắng Ý! Minh Tinh Thiên Tử
đã ở chỗ vô lượng chư Phật Như Lai trồng các căn lành, đã ở trong vô lượng đời
tu từ tâm pháp duyên. Do bổn nguyện nên sanh cõi Trời Tứ Vương Thiên, cách phía
trước Trời Nhựt Thiên mười ngàn do tuần. Cung điện của trời ấy ngang rộng ba vạn
hai ngàn do tuần, lưu ly làm nền, trước sau tả hữu đầy mười do tuần, có chư
Thiên nam nữ cùng vây quanh. Minh Tinh Thiên Tử ở trong cung ấy xa cách quyến
thuộc ba do tuần, một mình ngồi giường báu xuất nhập thiền định một ngày một
đêm.
Tứ thiên hạ đây có tám mươi xứ trời, sáu mười xứ
rồng, bốn xứ A Tu La, bốn xứ Ca Lâu La, năm mươi hai xứ Khẩn Na La, bốn mươi
sáu xứ Ma Hầu La Già, tám xứ Cưu Bàn Trà, ba mươi xứ Phú Đơn Na, ba mươi xứ Tỳ
Xá Xà. Tất cả xứ ấy, Minh Tinh Thiên Tử đều có thể điều phục cả.
Chúng sanh như vậy do bổn nguyện lực từ xưa đã phát
thệ, Diêm Phù Đề nầy qua canh năm, còn dư một phần đêm, sẽ ở trước mặt nhựt
mười ngàn do tuần, làm tướng sáng phá tối Diêm Phù Đề. Nếu các thiện chúng sanh
ở Diêm Phù Đề muốn khỏi sanh tử mà tu thiền định, thì Thiên Tử Minh Tinh sẽ vì
người ấy mà trừ bỏ ngủ nghỉ ban cho niệm tâm. Nếu muốn thấy thì Thiên Tử ấy sẽ
hiện hình Hoà thượng, Sư trưởng, cha mẹ. Nếu có phàm phu tu tập pháp ngoại tà,
Thiên Tử ấy sẽ phá hoại tà tâm mà chỉ dẫn chánh đạo, nếu có chúng sanh ở nơi
việc thế gian việc xuất thế gian mà giải đãi, Thiên Tử ấy sẽ cho thấy, thấy rồi
từ bỏ giải đãi siêng tu sự nghiệp. Nếu có chúng sanh mê mất chánh lộ lúc được
thấy Thiên Tử ấy thì thấy chánh đạo trở lại. Nếu có chúng sanh thân mắc bịnh
nặng, được thấy Thiên Tử ấy thì bớt hết đau khổ ngủ yên vui vẻ. Nếu có người
già nhiều bịnh hay quên mà được thấy Thiên Tử ấy thì lại được niệm tâm. Lúc
Thiên Tử ấy xuất hiện có thể làm cho chúng sanh nhiếp tâm niệm pháp lành. Nếu
có chúng sanh lúc lâm chung, một niệm sau cùng, Thiên Tử vì người ấy nói kinh
Đại thừa, nghe rồi thấy tượng Phật liền được vãng sanh quốc độ thanh tịnh. Nếu
có người hoặc cầu Thanh Văn hoặc cầu Duyên Giác, Thiên Tử ấy sẽ vì họ mà nói
pháp Thanh Văn hoặc pháp Duyên Giác. Nếu có chúng sanh có ba ác nghiệp nghe
Thiên Tử ấy thuyết pháp thì ác nghiệp liền tiêu. Thiên Tử ấy do bổn nguyện lực
thường tu hành sáu Ba la mật đến thành Vô thượng Bồ đề”.
Minh Tinh Thiên Tử bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế
Tôn! Nay tôi vì muốn lợi ích tất cả chúng sanh mà nói đà la ni”.
Liền nói chú rằng:
Lô giá na, lô giá na, lô giá na, ba la xoa rũ, sa
la xoa rũ, sa la xoa sá, a bà ha ha, a bà trì trà, a bà xà bà, a bà xoa na, a
xoa xoa xoa xoa, phú la bà lã, a bà xoa xoa, a bà xà bà, ma ha ca ba, a bà a bà
ma ha sa ma, tần đậu, sa xà yết ba, a hoa, a hoa, ha ha ni ma, mạt lã sa luật
xà, ca lưu na xà la, sá ha.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà
Tắc, Ưu Bà Di hoặc nam hoặc nữ hoặc lớn hoặc nhỏ, nếu ai chí tâm niệm sự của
tôi, người ấy thì được thanh tịnh các nghiệp, thần thông, thí, giới, nhẫn,
tiến, thiền định, trí huệ và giải thoát cùng Phật độ tứ vô ngại trí. Những
người ấy nếu chẳng thành tựu các sự như vậy, thì là tôi khi dối thập phương chư
Phật, đời vị lai cũng chớ khiến tôi thành Vô thượng Bồ đề”.
Vô Thắng Ý Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế
Tôn! Nhơn dân các Phật thế giới phương khác thường nói rằng Ta Bà thế giới tạp
uế bất tịnh. Nhưng nay tôi thường thấy thanh tịnh”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy, đúng như vậy. Nầy
thiện nam tử! Đúng như lời ông nói.
Trong thế giới nầy có chư Bồ Tát hoặc làm thân Trời
điều phục chúng sanh, hoặc làm thân Rồng, thân Quỉ, hoặc làm thân A Tu La, thân
Ca Lâu La, thân Khẩn Na La, thân Càn Thát Bà, thân Ma Hầu La Già điều phục
chúng sanh. Có Bồ Tát làm thân Dạ Xoa, thân Cưu Bàn Trà, thân Tỳ Xá Xà, thân Lệ
Tiết Đà, thân thú, thân chim đi trong Diêm Phù Đề để giáo hoá các chủng loại
chúng sanh như vậy.
Nầy Vô Thắng Ý! Nếu làm nhơn thiên điều phục chúng
sanh không lấy gì làm khó. Nếu làm súc sanh để điều phục chúng sanh thì rất
khó.
Nầy Vô Thắng Ý! Ngoài Diêm Phù Đề trong biển phía
Đông có núi lưu ly tên là Triều Sơn cao hai mươi do tuần đủ các thứ bửu, núi ấy
có hang tên là Chủng Chủng Sắc, nơi ấy là chỗ ở xưa của Bồ Tát. Hang ấy rộng
một do tuần cao sáu do tuần có một độc xà ở trong ấy tu tâm từ Thanh Văn. Núi
ấy còn có một hang tên là Vô Tử cao rộng cũng như hang trước, cũng là chỗ ở xưa
của Bồ Tát, nơi đây có một con ngựa tu tâm từ Thanh Văn. Còn có một hang tên là
Thiện Trụ Xứ, cao rộng cũng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong ấy có một
con dê tu tâm từ Thanh Văn.
Thọ thần nữ của núi ấy tên là Vô Thắng, có La Sát
nữ tên là Thiện Hành, đều có năm trăm quyến thuộc. Hai nữ nhơn cùng đồng thường
cúng dường ba thứ ấy.
Ngoài Diêm Phù Đề phương Nam trong biển có núi pha
lê cao hai mươi do tuần, có hang tên là Thượng Sắc cao rộng cũng như trước, là
chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong hang ấy có một di hầu tu tâm từ Thanh Văn. Còn có
một hang tên Thệ Nguyện cao rộng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong ấy
có một con gà tu tâm từ Thanh Văn. Còn có một hang tên là Pháp Sàng cao rộng
như trước, cũng là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong ấy có một con chó tu tâm từ
Thanh Văn.
Núi ấy có Hoả Thần nữ và La Sát nữ tên là Nhãn Kiến
đều riêng có năm trăm quyến thuộc. Hai nữ nhơn thường cùng đồng cúng dường hai
thú một chim ấy.
Phương Tây ngoài Diêm Phù Đề, trong biển có núi
bạch ngân tên là Bồ Đề Nguyệt cao hai mươi do tuần. Trong ấy có hang tên là Kim
Cương, cao rộng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong ấy có một con heo tu
tâm từ Thanh Văn. Còn có một hang tên là Hương Công Đức, cao rộng như trước, là
chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong hang ấy có một con chuột tu tâm từ Thanh Văn. Còn
có một hang tên là Cao Công Đức, cao rộng như trước, cũng là chỗ ở xưa của Bồ
Tát, trong ấy có một con bò tu tâm từ Thanh Văn.
Núi ấy có Phong Thần nữ tên là Động Phong và La Sát
nữ tên là Vô Hộ, đều riêng có năm trăm quyến thuộc. Hai nữ nhơn thường cùng
đồng cúng dường ba thú ấy.
Diêm Phù Đề ngoài biển phương Bắc có núi hoàng kim
tên là Công Đức Tướng cao hai mười do tuần. Trong núi có một hang tên là Minh
Tinh, cao rộng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong hang ấy có một sư tử
tu tâm từ Thanh Văn. Còn có một hang tên là Tịnh Đạo ngang rộng cao thấp cũng
như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong ấy có một con thỏ tu tâm từ Thanh
Văn. Còn có một hang tên là Hỉ Lạc ngang rộng cao thấp như trước cũng là chỗ ở
xưa của Bồ Tát, trong hang nầy có một rồng tu tâm từ Thanh Văn. Núi Công Đức
Tướng ấy có một Thuỷ Thần nữ tên là Thuỷ Thiên và có La Sát nữ tên là Tu Tàm
Quí, đều riêng có năm trăm quyến thuộc. Hai nữ nhơn ấy thường cùng đồng cúng
dường ba thú đó. Mười hai thú và chim như vậy ngày đêm thường đi trong Diêm Phù
Đề được nhơn thiên cung kính công đức thành tựu. Các chim thú ấy đã ở chỗ chư
Phật phát thâm trọng nguyện: một ngày một đêm thường khiến một thú du hành giáo
hoá, mười một thú còn lại an trụ tu tâm từ, luân lưu nhau chung nhi phục thỉ.
Tháng bảy ngày một, chuột du hành đem pháp Thanh
Văn thừa giáo hoá tất cả chúng sanh thân chuột khiến lìa ác nghiệp siêng tu
thiện sự. Như vậy đến ngày mười ba đến ngày mười ba thì chuột lại tuần hành:
luân lưu đến hết tháng mười hai, đến mười hai năm cũng như vậy thường để điều
phục các chúng sanh.
Nầy Vô Thắng Ý! Do cớ ấy nên cõi nầy có nhiều công
đức, nhẫn đến các loài thú chim cũng hay diễn nói giáo hoá đạo Vô thượng Bồ đề,
nên chư Bồ Tát phương khác đều nên cung kính thế giới nầy”.
Trong đại hội có một Bồ Tát tên là Tịnh Đức bạch
Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi có thể thấy được mười hai thú ấy chăng?”.
Đức Phật nói: “Nầy Tịnh Đức! Nếu có ai trong hàng
tứ chúng muốn được thấy mười hai thú ấy, muốn được đại trí đại niệm đại thần
thông lực, muốn học tất cả sách vở nói về tứ vô lượng tâm, muốn hành chánh đạo
được Xa ma tha, muốn được tịch tĩnh, muốn tăng trưởng pháp lành, người nầy nên
lấy đất trắng đắp thành núi ngang rộng bảy xích, cao mười hai xích, dùng các
thứ hương làm bùn trét, vàng mỏng thếp bốn phía, giáp vòng hai mười xích rải hoa
chiêm bặc. Dùng đồ đựng bằng đồng đựng các thứ nước uống phi thời để bốn mặt
núi ấy. Người nầy trì giới thanh tịnh, mỗi ngày ba lần tắm gội, kính tin lễ lạy
Tam bửu rồi đứng cách núi ấy ba trượng về phía Đông mà tụng chú nầy:
Chiến a la ha, tu lợi xà tỉ ma, kỳ la phiếm, Phật
dĩ mâu lã, nhã xà mâu lã, ha ha hi, ba ha ra hi, nhã xà ha hi, tát bà phục đa
ha hi, lê tha bà ha hưu, ma sa xa bà mâu lê, ca bà phù, lã xa phù, tu lã xà
mâu, khê ca na, ma hi xoa bà, ca sa ma ha, a xoa tỉ bà lã, đa ba tỉ bà, sa trì
nhơn trì lợi xà tỳ bà, a xà mâu thâu bà, bà lô bà xoa, bàn đà đá, giá la xoa bà
hi, ha ca tỉ mâu, đá tỉ lặc sưu, tán giá lặc sưu, bà bà phù, bà la bà xoa sưu,
Phật dĩ giá, đá sá lại sa, dà xoa lã sa, ba lợi ba giá, tu lã tu, sưu bà sa di,
hi lã, bà la mâu sa la sa, mâu sa lã tư, lã bà lã bà, tần bà tư lã sa, bà lã
sa, đà ma lô giá na lã sa, phú nan toả lan ha la bà, thủ đà lô giá na lã sa, bà
ma ma lã sa, tỉ ma lô giá na khê già, tát điên ma lã sa, a lợi na giá na nhục
nhục, tỉ ma mâu, bà lã ha man bà ha lã tư miễn miễn, a do tỉ mục hê, mâu ni lã
đề trí sa, sá ha.
Đứng ở đó tụng chú mười lăm ngày, thường thấy trên
núi có hình tượng mặt nguyệt lưỡi liềm, lúc ấy biết rằng thấy mười hai thú.
Thấy rồi sở nguyện tuỳ ý liền được.
Nầy Tịnh Đức! Nếu người có thể khổ hạnh tu hành như
vậy thì được mắt thấy mười hai thú ấy”.
Tịnh Đức Ưu Bà Tắc nói với Minh Tinh Thiên Tử rằng:
“Thưa Đại Sĩ! Ngài hay giáo hoá điều phục chúng sanh, điều phục thế nào? Là
dùng thân hay dùng khẩu dùng ý?”.
Thiên Tử đáp: “Ta không dùng thân khẩu mà chỉ dùng
tâm nghiệp”.
Tịnh Đức hỏi: “Nếu Ngài dùng tâm nghiệp, vậy tâm ấy
thuộc quá khứ hay vị lai hay hiện tại?”.
Thiên Tử đáp: “Chẳng phải quá khứ vị lai, chỉ là
hiện tại. Ta chế phục tâm hiện tại chẳng cho làm ác”.
Tịnh Đức nói: “Ngài còn chẳng khiến được tâm hiện
tại được giải thoát thì làm sao điều phục chúng sanh?”.
Minh Tinh Thiên Tử đáp: “Nay ta thọ trì tứ vô ngại
trí, do thế lực của Tịnh Mục đà la ni nên có thể điều phục tất cả chúng sanh”.
Tịnh Đức nói: “Tứ vô ngại trí Tịnh Mục đà la ni ấy
cũng còn chẳng thể điều phục chúng sanh được, tại sao, vì không có giác quán
vậy. Sao lại nói có thể điều phục chúng sanh?”.
Thiên Tử nói: “Nay ta hỏi Ngài, tuỳ ý Ngài đáp cho.
Nhiếp nhập hệ phược, giải thoát, thanh tịnh đạo và
tịch tĩnh, dầu là bình đẳng mà cũng là bất bình đẳng. Bình đẳng và bất bình
đẳng như vậy, do nhơn duyên gì sanh, do nhơn duyên gì xuất, nhơn duyên gì tăng
trưởng. Chẳng biết Ngài có rõ chăng?”.
Tịnh Đức nói: “Các sự như vậy do nơi ngã và ngã sở
mà có sanh xuất và có tăng trưởng”.
Thiên Tử hỏi: “Ngã ngã sở ấy do nhơn duyên gì
sanh?”.
Tịnh Đức nói: “Ngã ngã sở ấy do nhơn duyên phong
sanh”.
Thiên Tử hỏi: “Phong trụ ở chỗ nào?”.
Tịnh Đức đáp: “Phong trụ ở hư không”.
Thiên Tử hỏi: “Hư không trụ ở chỗ nào?”.
Tịnh Đức đáp: “Hư không trụ ở chí xứ”.
Thiên Tử hỏi: “Chí xứ lại trụ ở chỗ nào?”.
Tịnh Đức đáp: “Chí xứ trụ ở chỗ nào không thể tuyên
nói được. Tại sao? Vì xa lìa tất cả xứ sở vậy, vì tất cả nơi chỗ chẳng nhiếp
thuộc vậy, vì chẳng phải đếm chẳng phải cân chẳng phải lường vậy, vì chẳng phải
giác quán chẳng phải hữu vô, chẳng phải hành chẳng phải sanh xuất, chẳng phải
diệt, chẳng phải có tăng trưởng, chẳng phải chữ, chẳng phải niệm, chẳng phải
tác, chẳng phải thọ, chẳng phải minh ám, chẳng phải tăng giảm, chẳng phải trẻ già,
tánh chơn thiệt, là môn tất cả pháp vô quái ngại. Vì vậy nên chí xứ không có
chỗ ở”.
Minh Tịnh Thiên Tử nói: “Như vậy tức là vô ngại trí
Tịnh Mục đà la ni.
Nếu có Bồ Tát tu tập Tịnh Mục đà la ni ấy thì tất
cả phiền não bị hư rã mà nhập vào pháp duyên từ, ở trong tất cả pháp không có
lòng nghi”.
Lúc nói pháp ấy, thập phương thế giới có vô lượng
chúng sanh được pháp duyên từ, vô lượng chúng sanh được gần vô ngại trí Tịnh
Mục đà la ni.
Đức Thế Tôn khen hai người rằng: “Nầy các thiện nam
tử! Các ông có thể như pháp hỏi, có thể như pháp đáp. Do thế lực nhơn duyên
Tịnh Mục đà la ni ấy, nên sau khi Phật diệt độ, Tứ Thiên Vương có thể thủ hộ
chánh pháp”.
Minh Tịnh Thiên Tử bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế
Tôn! Người Thanh Văn hành pháp Thanh Văn thừa, người Bích Chi Phật hành pháp
Bích Chi Phật thừa, hai hạng người ấy tu tâm bi thế nào, tư duy pháp nào, lìa
phiền não nào?”.
Đức Phật nói: “Nầy Thiên Tử! Nếu có thiện nam hay
thiện nữ hành Thanh Văn thừa hay Bích Chi Phật thừa chẳng quán những tướng vui
của chúng sanh, chẳng quán các tướng oán thân cha mẹ, thương xót chúng sanh tu
tập tâm bi, nhẫn đến thập phương chúng sanh cũng như vậy. Họ tư duy thê nầy:
Nếu ta chẳng thể ở nơi ác chúng sanh mà tu tập tâm bi, thì nên quán tám tướng
khổ của chúng sanh ấy, đó là sanh khổ, lão khổ, tử khổ, bịnh khổ, tử khổ, ái
biệt ly khổ, oán tẳng hội ngộ khổ, cầu bất đắc khổ và ngũ ấm xí thạnh khổ. Tại
sao ta ở nơi kẻ khổ não như vậy mà chẳng sanh tâm bi! Họ lại tư duy rằng: chúng
sanh ấy còn có ba thứ đại khổ cũng còn chưa được giải thoát khổ ba ác đạo, tại sao
ta lại chẳng thương xót!
Thế nào gọi là quán sanh khổ?
Từ nghiệp nhơn duyên cha mẹ hoà hiệp thời kỳ ca la
la ban sơ thọ ý thức, thân ấy như hột đình lịch, chưa có hơi thở vào ra, chưa
hay biết khổ và vui chẳng khổ chẳng vui, đã lìa sắc tướng trước mà chưa đủ các
tướng sắc sau, không có sức lực, không có mong muốn, không có tinh tiến, cũng không
có kiêu mạn là thượng sắc thượng tánh thượng tự tại, không có tướng ngũ dục,
các căn chẳng đủ, chúng sanh như vậy tại sao ta lại chẳng thương xót! Chúng
sanh như vậy, quá khứ ái và thủ gọi là vô minh, quá khứ nghiệp hữu gọi là hành,
tâm sơ nhập thai gọi là thức, trong ca la la sắc và bốn ấm ban sơ gọi là danh
sắc, lúc nầy chưa đủ mười hai hữu chi, do vì nhơn duyên sanh nên có thể nói là
có mười hai chi nhơn duyên, chúng sanh như vậy có người trí nào mà chẳng xót
thương!
Ca la la trụ sáu lần bảy ngày thì chuyển thành án
phù đà hình sắc như trái táo nhỏ.
Án phù đà trụ bảy ngày chuyển thành già na hình sắc
như hột hồ đào.
Già na trụ bảy ngày chuyển thành bế thi hình sắc
như trái tần bà la. Lúc nầy trên thân có năm u bóng nổi lên, đó là tượng đầu
hai tay và hai chưn.
Đến mười ba lần bảy ngày mới có tướng bộ tiêu hoá.
Hai mươi lần bảy ngày thì nam căn và nữ căn sai
biệt.
Từ hai mươi mốt lần bảy ngày mới bắt đầu sanh xương
lóng.
Trong ba sáu lần bảy ngày thì thân thể đầy đủ thịt
máu lông và các căn.
Ba mươi tám lần bảy ngày thì tất cả chi phần thân
thể thành tựu trọn vẹn, bốn ngày bốn đêm ở chỗ hôi dơ trong bụng bà mẹ.
Chúng sanh như vậy, tại sao ta lại chẳng xót
thương!
Bấy giờ hành giả lại tư duy nhớ lại sự thọ sanh của
mình ngày trước, rất buồn rầu lo sợ mà tự suy nghĩ rằng ta phải tu pháp lành
nguyện sau nầy chớ còn thọ sanh vào chỗ như vậy nữa, ta phải tinh tiến tu tập
bất phóng dật xa lìa hẳn thọ sanh.
Kế đến tư duy lúc mới xuất thai cả thân chịu khổ
bức bách gió suông và thân cũng rất khổ vừa rơi xuống đất nước rửa chà lau lại
càng khổ hơn, khác gì sự khổ ở địa ngục, lúc nầy lại quên hết sự việc đời
trước. Sanh xong lại còn có các sự khổ lớn những là già bịnh chết cứ theo mãi
chẳng buông bỏ. Còn có phong bịnh, các bịnh bạch thuỷ hoàng thuỷ hoà hiệp. Tứ
đại gây bịnh đều riêng có một trăm lẻ một bịnh cộng thành bốn trăm lẻ bốn bịnh
cội gốc biết bao sự đau đớn khổ sở, nên gọi sanh là đại khổ vậy.
Đã chịu sanh khổ rồi, già nua theo dõi tiếp theo
làm khổ, những là tóc bạc mặt nhăn, mất trí hổ thẹn, lông tóc thưa thớt, vì các
hành đã lâu cũ nên các căn suy yếu dễ hư dễ hoại rã mục mỏng manh, chỉ còn tham
hai vị là mặn và chua. Già nua hay làm hư thân căn mất sự an vui thêm nhiều khổ
não, đây là sông đại khổ, nó hay phá sắc trẻ trung mạnh khoẻ ba đời của chúng
sanh, nó hay quên như trẻ nít, cuồng loạn như bị quỉ nhập. Chúng sanh có đủ sự
xấu khổ như vậy, tại sao ta lại không xót thương!
Kế lại bị tử vong nó xâm bức, mất trí huệ thọ mạng.
Những sở hữu phải lìa bỏ, thân hoại mạng hoại, tứ đại lìa tan. Sự tử vong là
oán thù của tam thế thọ mạng của chúng sanh, tất cả chúng sanh không ai thoát
khỏi. Chúng sanh như vậy, tại sao ta lại không xót thương!
Kế tư duy, các chúng sanh ấy lại còn phải những
người những vật không ưa thích cứ đến gần kề, đó là lạnh, nóng, đói, khát, ác
nhơn, ác thú v.v… Chúng sanh như vậy, tại sao ta lại không xót thương!
Còn có những người và vật yêu thích lại phải xa
lìa, đó là trẻ mạnh, của cải, kho tàng, thọ mạng, cha mẹ vợ con thân thích
quyến thuộc, sáu trần đẹp vui. Sự biệt ly ấy cũng rất buồn khổ. Chúng sanh như
vậy, tại sao ta lại không xót thương!
Hoặc có chúng sanh trong ba đời cầu sáu trần phẩm
thượng mà chẳng được, nên phải chịu các sự khổ não. Chúng sanh như vậy, tại sao
ta lại chẳng thương xót! Nếu ta lại ở nơi các loại chúng sanh ấy mà chẳng
thương thì ta sẽ thế nào được Vô thượng Bồ đề.
Các chúng sanh chịu gánh nặng ngũ ấm, ta cũng vậy,
nếu ta không tu tâm đại bi thì làm sao bỏ được gánh nặng ấy. Tất cả Thánh nhơn
đa xa lìa được gánh nặng ngũ ấm. Nếu chẳng tu hành ba thứ tịnh giới, chẳng tư
duy lành tốt, tâm thường phóng dật chẳng hành chánh đạo chẳng được giải thoát, người
như đây phải chịu cả trăm thứ khổ. Chúng sanh đã chịu cả trăm thứ khổ như vậy,
tại sao ta không tu tâm đại bi!
Nầy Thiên Tử! Nếu có chúng sanh trong một ngày đêm
có thể quán như vậy, người nầy được tâm dường như hư không. Người nầy ở nơi tất
cả chúng sanh có thể tu tập đại bi. Người nầy có thể được thân tâm tịch tĩnh.
Người nầy chẳng xa lìa chánh chơn pháp giới và chơn pháp tánh. Tu tập như vậy
có thể được chúng sanh duyên bi của thừa Thanh Văn và Duyên Giác.
Nếu có Bồ Tát lúc ban sơ tu tập đạo phẩm, tư duy
như vầy: giả sử khiến ta có hằng hà sa số thân lớn như núi Tu Di, sẽ đem những
thân ấy vì một người mà phải chịu khổ nhiều trong vô lượng đời để cho người ấy
được an lạc, ta trọn chẳng hối tiếc cũng chẳng thối thất tâm Bồ đề.
Bồ Tát nầy lại tư duy, giả sử tất cả chúng sanh đều
cầm chuỳ sắt lớn như núi Tu Di đến đập thân thể ta trong vô lượng năm, ta sẽ
nhịn chịu chẳng sanh ác tâm đối với họ dầu chỉ là một niệm.
Bồ Tát nầy lại tư duy, người ấy đã chịu phải trăm
thứ khổ não, tất cả chúng sanh cũng phải khổ như vậy mà họ chẳng biết niệm Vô
thượng Bồ đề, nay ta học tập Vô thượng Bồ đề sao ta chẳng chịu được những đao
kiếm lửa đá làm hại như vậy! Nếu ta ở nơi tất cả chúng sanh mà sanh ác tâm,
chắc sẽ bị sự quở trách của chư Phật, chư Hiền Thánh. Các Ngài sẽ quở ta rằng
người muốn được Vô thượng Bồ đề sao với những sự như vậy mà chẳng nhẫn nhục.
Đại Bồ Tát tu tịnh ý liền được nhẫn nhục. Nhẫn nhục
là anh lạc trang nghiêm, là tinh tiến đạo tánh, là pháp khí, là của báu. Bồ Tát
tu nhẫn như vậy thì có thể thanh tịnh thân tâm, hay tịnh trang nghiêm, hay kiên
cố trang nghiêm, được đại trí huệ chẳng đồng chung với hàng Thanh Văn, hàng
Bích Chi Phật. Là thù thắng nhứt trong tất cả chúng sanh. Tất cả tứ ma chẳng
được tiện lợi, tà ngoại chẳng lay động được, hay phá giảm phiền não, tất cả oán
thù chẳng hại được, ngôn từ nói năng chẳng cùng tận, trí rất sâu rất rộng dường
như đại hải, tinh tiến bền vững như núi Tu Di, bình đẳng với chúng sanh như
nước biển nhứt vị, hay làm lợi ích lớn dường như đại địa, rửa sạch những dơ bẩn
dường như nước trong, hay làm ánh sáng dường như mặt nhựt, ở giữa chúng vô ngại
như gió mạnh, thế pháp không ô nhiễm như hoa sen, nhìn xuống chúng sanh như kim
sí điểu, chúng sanh thích thấy như mây ngày mùa hạ, chúng sanh vui nhận như mưa
mùa hạ, thấy mừng không mong gì khác như gặp lương y, phá hết nghèo cùng như
châu như ý, ban cho chúng sanh thiền định như Phạm Thiên, sanh tử vô ngại như
hư không, hiển thị bình bất bình như đèn sáng, nhơn thiên cung kính như Đế
Thích.
Nếu có Bồ Tát khởi lòng sân hận thì tất cả oán tặc
đều được tiện lợi, hư mất tất cả thiện căn của báu, tất cả ma chúng nắm được
tội lỗi, bị các phiền não ô nhiễm, vào chỗ rất tối tăm, mất tất cả thiện căn,
bị tất cả Thánh nhơn quở trách.
Nếu có Bồ Tát khởi tâm sân hận đến chừng một niệm
thì là hư mất tất cả pháp lành. Phải tư duy như vầy: giả sử ta đều chịu tất cả
vô lượng ức số chúng sanh đánh mắng huỷ nhục ta chẳng nên khởi tâm sân hận dù
chỉ một niệm, tại sao, vì các chúng sanh như vậy chẳng học từ bi, nếu không có
các chúng sanh ấy giận đánh thì ta làm sao tu tập tâm từ bi, vì lẽ như vậy nên
lúc chúng sanh giận đánh ta nên vui mừng, tại sao, vì chính đó là nhơn duyên bi
của ta vậy.
Nếu có thiện nam thiện nữ có thể quán như vậy liền
được chúng sanh duyên bi chẳng cùng đồng với hàng Thanh Văn, hàng Duyên Giác,
cũng có thể mau được Vô thượng Bồ đề.
Nầy Thiên Tử! Còn có người quán chúng sanh ba ác
đạo khổ rồi tu tập tâm bi. Còn có người quán sát các chúng sanh bị khổ trong
tam giới mà tu tập tâm bi. Còn có người quán sát ngũ ấm chúng sanh mà tu tập
tâm bi, quán sát các nhập các giới cũng như vậy.
Do các nghĩa ấy nên đại Bồ Tát muốn được Vô thượng
Bồ đề phải tu tập từ bi. Tại sao, vì tâm từ bi là chủng tử của tất cả thiện
pháp.
Nếu có chúng sanh được thân trời Sắc giới cũng là
do nhơn duyên từ bi”.
Lúc nói pháp ấy Minh Tinh ThiênTử được vô sanh
nhẫn, nhẫn nầy chẳng cùng đồng với hàng Thanh Văn. Còn có tám vạn bốn ngàn
chúng sanh được như pháp nhẫn. Năm vạn năm ngàn na do tha chúng sanh phát tâm
Vô thượng Bồ đề. Mười vạn tám ngàn chúng sanh được tâm bất thối. Hai vạn chúng
sanh thành tựu từ bi. Năm ngàn Tỳ Kheo được quả A La Hán. Năm trăm Tỳ Kheo Ni
được vô lậu. Mười vạn ức chúng sanh phá đại tà kiến được tâm chánh kiến.
Đức Thế Tôn bảo Vô Thắng Ý Bồ Tát rằng: “Nầy Vô
Thắng Ý! Thưở quá khứ có Phật hiệu Phát Công Đức Ý Như Lai cũng nói đại từ đại
bi như vậy”.
Vô Thắng Ý Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nói
rằng như ấy, thế nào gọi là như?”.
Đức Phật nói: “Nầy Vô Thắng Ý! Xa lìa thân tướng
gọi đó là như”.
Vô Thắng Ý Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nói rằng
thân ấy, tức là thiệt tánh, tức là tịch tĩnh, tức là pháp giới, tức là vô lậu,
tức là vô tận”.
Đức Phật nói: “Nầy Vô Thắng Ý! Như thân ấy, tức là
thân tất cả chúng sanh. Như tức là biên tế của quá khứ của vị lai, tức là tịch
tĩnh”.
Vô Thắng Ý Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất
cả chư Phật, như tức là thân”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay! Nầy Vô Thắng Ý!
Pháp giới như vậy không có tăng giảm, tam thế bình đẳng, chẳng sanh chẳng xuất
chẳng diệt dường như hư không. Như thân cũng như vậy”.
Lúc nói pháp ấy, ba vạn chúng sanh được như pháp
nhẫn.
Đức Thế Tôn bảo Minh Tinh Bồ Tát rằng: “Nầy Minh
Tinh! Thiện nam thiện nữ tu tập tâm hỉ như thế nào?
Nầy Minh Tinh! Nếu có Bồ Tát chẳng tu từ bi chẳng
nhớ đến chúng sanh có những tướng vui, nhẫn đến chẳng quán sát tam thú tam giới
có những sự khổ mà cũng quán sát ngũ ấm xuất diệt, quán như vậy rồi sanh tâm
hỉ, chỉ thích quán pháp, quán rồi sanh tâm hỉ. Tâm hỉ như vậy nguyện đến cùng chúng
sanh, đây gọi là hỉ.
Nầy Minh Tinh! Thiện nam thiện nữ tu xã thế nào?
Nếu có Bồ Tát chẳng tu từ tâm nhẫn đến hỉ tâm mà tu
xả niệm xả cha mẹ nhẫn đến Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chư Phật. Lúc tu xả
ấy xa lìa tất cả tâm ái tâm sân. Người nầy tu tập không vô tướng vô nguyện. Đã
tu tập rồi chẳng lâu quyết định sẽ được nhập Niết Bàn.
Nếu người tu tập bốn tâm vô lượng như vậy, người ấy
được thập phương chư Phật Bồ Tát tán thán, tất cả Trời, Rồng, Dạ xoa, Sát Lợi,
Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đều cúng
dường.
Quốc độ nào có hàng tứ chúng tu tập bốn tâm vô
lượng như vậy, cõi nước ấy đã được xa lìa tất cả ác tướng suy hoạ. Chúng sanh
xứ ấy xa lìa ác pháp thích tu thiện pháp.
Nầy Minh Tinh! Tứ vô lượng tâm có đủ vô lượng phước
đức như vậy”.
Vô Thắng Ý Bồ Tát lại bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế
Tôn! Hàng tứ chúng Duyên Giác thừa tu tập từ bi hỉ xả như thế nào?”.
Đức Phật nói nầy Vô Thắng Ý! Trong hàng tứ chúng
Duyên Giác thừa có người tu tập từ bi hỉ xả. Người nầy quán sát chúng sanh an
vui, hiểu chúng sanh an vui mà niệm pháp duyên từ trọn chẳng ức niệm chúng sanh
duyên từ. Như trong tâm mình có sự thích ưa cũng nguyện chúng sanh đồng chung
được đó. Người nầy quán pháp bình đẳng, quán tâm bình đẳng, quán như bình đẳng.
Quán như vậy rồi, người nầy trọn chẳng sanh tâm ác dầu chỉ nơi một chúng sanh. Giả
sử có nhơn duyên sanh tâm ác, thì phải suy nghĩ như vầy: Nay nếu ta nơi kẻ ấy
mà sanh ác tâm thì thế nào sẽ được Vô thượng Bồ đề, đại Bồ Tát thành tựu vô
lượng thuần thiện công đức, nếu ở nơi một người sanh tâm sân ác còn chẳng được
Vô thượng Bồ đề, huống là ta chưa thành các thiện công đức, do cớ ấy nên tu
chúng sanh duyên từ và pháp duyên từ, bi hỉ xả cũng như vậy.
Nầy Vô Thắng Ý! Nếu có người muốn được Duyên Giác
thừa phải tu tập từ bi hỉ xả như vậy”.
Lúc nói pháp ấy, trong đại hội có sáu vạn ức chúng
sanh trụ bực Sơ địa, hoặc Nhị địa, Tam địa, Tứ địa, Ngũ địa, hoặc có chúng sanh
được Vô sanh nhẫn, hoặc có chúng sanh được Bích Chi Phật đạo, được Thanh Văn
đạo. Có vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Bấy giờ trong đại chúng có một đồng tử tên là Hư
Không Thanh bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm
đạo Vô thượng Bồ đề, tu tất cả trí mục phương tiện vô duyên phạm hạnh, tất cả
pháp mục phương tiện vô duyên phạm hạnh, tất cả ấm nhập giới phương tiện, giải
thoát phương tiện, tam muội phương tiện, đà la ni phương tiện, đắc nhẫn phương
tiện, chư địa phương tiện?
Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát tu tất cả
trí mục môn, đồng hư không huệ qua đến bờ kia, vô duyên phạm hạnh vượt qua bốn
dòng dứt bốn ma hệ phược?”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay! Nầy Hư Không
Thanh! Nay ông có thể vào biển tứ vô lượng, muốn độ chúng sanh qua sông sanh tử,
nên ông phát ra lời hỏi như vậy. Ông lại còn muốn chẳng dứt biển Phật đại trí.
Nầy Hư Không Thanh! Thập phương quốc độ nếu có Bồ
Tát cùng ông hành tam muội trí huệ, lúc Phật thuyết pháp, các hạng ấy đều làm
minh chứng. Nếu không có hạng Bồ Tát như vậy làm minh chứng thì ta chẳng tuyên
nói vô duyên pháp hạnh. Tại sao, vì nếu ta tuyên nói pháp ấy, trong đây có
nhiều người sanh lòng nghi. Nếu có người chưa được vô duyên phạm hạnh cũng sanh
lòng nghi. Vì lẽ như vậy nên chẳng nên tuyên nói”.
Đức Thế Tôn liền nhập tam muội. Tam muội ấy tên là
Hư không tràng. Nhập rồi diện môn của Phật phóng quang minh lớn đủ các màu sắc
chiếu khắp đến thập phương thế giới chư Phật làm mờ tất cả ánh sáng nhựt
nguyệt. Trong quang minh ấy phát ra tiếng nói rằng: Thế giới Ta Bà hiện có Phật
Thích Ca Mâu Ni vì các chúng sanh mà tuyên nói phạm hạnh phá các phiền não,
tuyên nói Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa vô duyên phạm hạnh, có vô lượng chúng
sanh vô lượng Bồ Tát thứ đệ ngồi nghe học chánh pháp. Cũng tuyên nói hạnh thanh
tịnh Bồ đề. Vì muốn lợi ích vô lượng chúng sanh nên làm hội đại tập nói các thứ
hạnh. Có vô lượng chúng sanh được Nhứt sanh bổ xứ, hoặc Hậu sanh bổ xứ.
Thập phương chúng sanh nghe lời nói trong quang
minh phát ra như vậy, tất cả đều tập hội Ta Bà thế giới. Hoặc có Bồ Tát hiện thân
chơn kim mưa cát chơn kim, hoặc có Bồ Tát hiện thân bạch ngân mưa cát bạch
ngân, hoặc có Bồ Tát hiện thân lưu ly mưa cát lưu ly, hoặc có Bồ Tát hiện thân
pha lê bửu mưa cát pha lê, hoặc có Bồ Tát hiện thân trầm thuỷ mưa cát trầm
thuỷ, hoặc có Bồ Tát hiện thân chiên đàn mưa cát chiên đàn, hoặc có Bồ Tát hiện
thân đa ma la bạt mưa cát đa ma la bạt để cúng dường đức Phật. Cúng dường xong
đều đầu mặt lễ kính rồi ngồi một phía.
Đức Phật bảo Hư Không Thanh đồng tử rằng: “Nầy Hư
Không Thanh! Ngày nay mười phương chư đại Bồ Tát, trong ấy hoặc có vị được pháp
nhẫn, có vị được vô sanh nhẫn, có vị được nhứt sanh, có vị được hậu sanh đều vì
ta mà chứng minh.
Chư Bồ Tát ấy tu tập tâm từ bi hỉ xả tỏ rõ thông
đạt tánh các pháp, cũng hay xa lìa thân tướng nghiệp tướng. Tâm chư Bồ Tát ấy
chẳng tham trước hữu vi vô vi, cũng chẳng tham trước nhãn nhĩ đến ý, chẳng tham
trước sắc thanh đến pháp. Đều chí tâm tu tập vô duyên phạm hạnh, không có giác quán,
chẳng sanh kiêu mạn, không có chỗ tham trước, biết chơn thiệt tánh, quán tất cả
pháp đều bình đẳng đó là tam thế, tam giới, tam tịnh giới, cũng được tăng
trưởng đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả. Tất cả đều xa lìa ấm giới nhập, xa lìa
tất cả tự tụ danh tụ cú tụ các pháp hữu vi.
Bồ Tát ấy lúc quán như vậy liền được đại từ, đại
bi, đại hỉ, đại xả, tu tập đồng hư không tam muội phạm hạnh sáu ba la mật, được
chư Phật hộ niệm, có thiện phương tiện trụ đệ tam nhẫn quá đạo Thanh Văn, đạo
Bích Chi Phật, xa lìa tất cả nhãn sắc nhơn duyên, nhĩ thanh nhơn duyên đến ý
pháp nhơn duyên, quán pháp giới như tuỳ thuận chẳng điên đảo, được năng lực đại
từ đại bi đại hỉ đại xả, trong tất cả pháp được đại tự tại, mà ở nơi sanh tử
chẳng sanh tâm nhàm hối, có đại lực thế điều phục chúng sanh, ở trong tam thừa
được trí phương tiện, hay mưa pháp vũ, được vô ngại trí, hiểu biết tất cả ngữ
ngôn của các chúng sanh.
Đây gọi là Thánh Mục đà la ni đủ vô ngại trí tu tập
phạm hạnh.
Nầy Hư Không Thanh! Nếu có Bồ Tát tu phạm hạnh nầy,
thì Bồ Tát ấy thường được thấy Phật, hay đủ Phật pháp thanh tịnh Phật độ, Bồ
Tát tánh tịnh, chúng tịnh, hành tịnh, trí tịnh, ý tịnh, cúng dường cũng thanh
tịnh, hay đủ thập địa thứ đệ sẽ ngồi pháp toà Như Lai. Như vậy gọi là thanh
tịnh pháp hành, đây gọi là Như Lai, là Thế Tôn, là quá bốn dòng, là Bồ đề đạo.
Hay được Vô thượng Bồ đề chuyển đại pháp luân.
Thế nào gọi là Nhứt thiết trí?
Nếu trí có thể thấy tất cả pháp bình đẳng, chúng
sanh bình đẳng, tam thế bình đẳng, chẳng điên đảo bình đẳng. Bình đẳng tất cả
pháp như vậy thấy Hư Không mục thấy pháp, Hư Không mục thấy vô hành, Hư Không
mục thấy tánh, Hư Không mục thấy như không, Hư Không mục thấy như nội không, Hư
Không mục thấy như ngoại không, Hư Không mục thấy như nội ngoại không, Hư Không
mục thấy như đại không, Hư Không mục thấy như đệ nhứt nghĩa không, Hư Không mục
thấy như hữu vi không, Hư Không mục thấy như vô vi không, Hư Không mục thấy như
tất cánh không, Hư Không mục thấy như vô thỉ không, Hư Không mục thấy như tánh
không, Hư Không mục thấy như tán không, Hư Không mục thấy như tự tánh không, Hư
Không mục thấy như nhứt thiết pháp không, Hư Không mục thấy như vô sở giác
không, Hư Không mục thấy như vô pháp không, Hư Không mục thấy như hữu pháp
không, Hư Không mục thấy như vô pháp hữu pháp không, Hư Không mục thấy như vô
tánh không, Hư Không mục thấy như thiệt tánh không, Hư Không mục thấy như vô
tướng vô nguyện, Hư Không mục thấy như Nhứt thiết pháp vô biên vô xứ, Hư Không
mục thấy như đại từ đại bi, Hư Không mục thấy Nhứt thiết trí thấy không, Hư Không
mục thấy Nhứt thiết trí. Thấy như vậy rồi chuyển chánh pháp luân. Đây gọi là
bất cộng chúng sanh pháp giới, đây gọi là Nhứt thiết trí, là Phật cảnh giới”.
Lúc nói vô duyên phạm hạnh ấy, có chín vạn hai ngàn
chúng sanh thành tựu pháp ấy. Có hằng hà sa số chúng sanh được như pháp nhẫn,
hằng hà sa số chúng sanh xa trần lìa cấu được pháp nhãn tịnh. Có một ngàn Tỳ
Kheo được quả A La Hán. Vô lượng Nhơn Thiên phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Bấy giờ, chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc đều
dâng diệu hương hoa phan lọng kỹ nhạc cúng dường Phật. Đồng bạch Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Lúc trược Như Lai ở Diêm Phù Đề chuyển chánh pháp luân, hôm
nay ở trong Đại Bửu Phường Đình nầy Như Lai lại chuyển đại pháp luân, đó là vì
Bồ đề hành vậy.
Tất cả đại chúng lại nói như vầy: “Cảnh giới Như
Lai bất khả tư nghị. Tại sao, vì đức Như Lai ở trong Đại Bửu Phường Đình nầy
lúc chuyển pháp luân, trong vô lượng các thế giới mười phương có bao nhiêu Bô
Tát đều tập hội nơi đây để nghe pháp hành Hư Không mục như vậy”.
Lúc ấy Văn Thù Sư Lợi đồng tử, Kim Cương đồng tử,
Kim Cương Sơn đồng tử, Vô Thắng Tràng đồng tử, Vô Thắng Ý đồng tử, Hư Không
Thanh đồng tử, chúng đồng tử như vậy số đến chín vạn hai ngàn ức bạch Phật
rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Duy nguyện Như Lai vì nguyện lực làm cho pháp hành Hư
Không mục ấy được còn lâu ở Ta Bà thế giới nầy và ở mười phương quốc độ không
diệt mất. Tại sao, vì trong pháp ấy nói ba phạm hạnh, nếu Bồ Tát tu ba phạm hạnh
ấy thì được Vô thượng Bồ đề”.
Đức Phật nói: “Nầy các thiện nam tử! Nam phương thế
giới có Phật hiệu Kim Cương Quang Minh Công Đức Như Lai, Tây phương thế giới có
Phật hiệu Trí Tràng Như Lai, Bắc phương thế giới có Phật hiệu Phát Quang Công
Đức Như Lai, Đông phương thế giới có Phật hiệu Bửu Cái Quang Minh Công Đức Như
Lai, bốn Phật Như Lai ấy trước đã có phát nguyện. Do nguyện lực ấy, kinh nầy về
sau sẽ lưu bố mười phương khiến các Bồ Tát đều được tu hành ba phạm hạnh như
vậy.
Nay ta đem chánh pháp nầy phó chúc cho Tứ Đại Thiên
Vương, Công Đức Thiên Nữ, Tứ Đại Long Vương, Thành Thiệt Ngữ Thiên, Tứ A Tu La
Vương, Kiến Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Bát Tý Thiên, Địa Thần Nữ v.v…
Tại sao, hoặc có chúng sanh tánh nó tệ ác có đại
thế lực, tạo nhiều nghiệp trọng tội chẳng học kinh nầy, người ấy chết rồi thọ
thân đại ác quỷ, thân ác long, các ác quỷ, ác long ấy muốn phá hoại Phật pháp
nên tuôn mưa ác gió ác bụi mù để ở nơi các Tỳ Kheo tu hành ba nghiệp gây bịnh nặng,
lấy tay mò bụng lấy tim gan thổi khí độc vào trong món ăn uống, khiến người ăn
vào mắc phải bịnh nặng, thầy thuốc bó tay chẳng trị lành được. Các Tỳ Kheo tu hành
ba nghiệp như vậy do đó đều chết cả, đây gọi là pháp diệt. Các ác quỷ ấy còn
làm cho hàng đệ tử Phật những Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, những đại thần
trưởng giả đều sanh ác tâm, đã sanh ác tâm rồi họ tàn hại nhau. Lúc bấy giờ,
trong Diêm Phù Đề quốc độ thành thị thôn ấy đều hoang trống không người. Nhơn
dân đã không thì còn ai lưu bố kinh điển như vầy. Vì cớ ấy nên nay ta không đêm
kinh nầy phó chúc chư Bồ Tát và hàng tứ chúng, mà đem giao phó cho các Thiên
Vương các Long Thần, Địa Thần. Chư Thiên, chư Thần như vậy chí tâm hộ trì chánh
pháp.
Nếu có hàng vua quan tứ tánh tứ chúng thọ trì đọc
tụng kinh điển như vậy, chư Thiên, chư Thần ấy sẽ chí tâm thủ hộ, khuyến hóa
các đàn việt khiến dâng cúng các món vật dùng như món uống ăn, y phục, thuốc
men, giường nệm, nhà cửa, đèn đuốc. Các đàn việt ấy nếu có ác tướng ác bịnh, do
oai lực chư Thiên, chư Thần đều khiến tiêu trừ cả. Vì vậy mà chánh pháp được
tăng trưởng không diệt mất”.
Chư Thiên, chư Thần tất cả đồng bạch Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Hoặc hiện tại nay, hoặc sau khi Phật diệt độ, chúng tôi cần
phải bỏ lìa công việc mình mà thủ hộ chánh pháp Như Lai. Nếu hàng tứ chúng đệ
tử Phật có người hay thọ trì những kinh điển như vậy siêng tu tinh tiến, mặc
dầu họ còn thọ chứa tám vật bất tịnh, chứa nuôi vợ con vàng bạc ruộng vườn nhà
cửa người ở làm công, chúng tôi vì chánh pháp nên cũng sẽ thủ hộ họ, ngăn các
ác quỷ chẳng cho đến gần nhiễu hại. Xứ nào có kinh điển nầy, chúng tôi làm cho
đất đai mầu mỡ, nhựt nguyệt tinh tú chẳng trái vượt thường độ, oán thù binh
cách đều tiêu phục. Nhơn dân nam nữ lớn nhỏ đều ưa thích thọ trì đọc tụng các
kinh điển nầy, họ trì giới thanh tịnh, siêng tu tinh tiến.
Bạch đức Thế Tôn! Do nhơn duyên ấy nên tất cả chư
Thiên thích ở nhơn gian. Người trì kinh ấy chết liền được sanh cõi Trời, làm
cho chư Thiên tăng trưởng sắc, lực và thọ mạng, những ác tướng diệt hêt không
còn thừa sót. Người không tin tôi có thể khiến họ tin.
Nếu hàng tứ chúng đệ tử phật, với kinh điển như vậy
chẳng thể thọ trì đọc tụng thơ tả, chẳng ưa tịch tĩnh, chẳng thiện tư duy,
thích cầu cúng dường, chẳng trì tịnh giới, lười biếng kiêu mạn, tâm không tàm
quí gần kề hàng bạch y. Tỳ Kheo như vậy dùng sức lực của cải thế tục huỷ báng
đệ tử Phật hoặc đánh hoặc giết, hoặc trói hoặc mắng, đến vua đến quan nói lỗi
xấu. Hàng đệ tử phật nghe sự ấy rồi sanh tâm đại ác. Sanh ác tâm rồi, các thiện
quỉ thần bỏ xứ ấy qua xứ khác, do đây ác quỷ được tiện lợi. Ác quỷ được tiện
lợi rồi, các nước hưng binh đánh lẫn nhau, mưa gió xấu ác làm cho xứ ấy mất mùa
nhơn dân đói kém, cướp giết lẫn nhau”.
Bấy giờ chư Bồ Tát thập phương thế giới bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chư Phật Như Lai vì các chúng sanh ở thế giới ngũ trược như vậy mà chế cấm giới. Duy nguyện Như Lai vì chánh pháp còn lâu mà chế cấm giới, đó là thân giới, khẩu giới, ý giới, chẳng được thọ chứa vật bất tịnh, chẳng được ác tâm đâú tranh, chẳng được gần kề vua quan trưởng giả thọ chứa tất cả vật của người tục, như các Phật độ khác đã chế cấm giới”.
Đức Phật nói: “Thôi thôi, Phật tự biết thời. Nầy các thiện nam tử! Nhơn duyên chưa phát xuất, thì Như Lai chẳng dự chế cấm giới”.
Đức Phật bảo vua Tần Bà Sa La rằng: “Nầy Đại Vương! Quốc pháp của nước vua, thế nào gọi là đại tội, sao gọi là tiểu tội?”.
Vua Tần Bà Sa La nói: “Bạch đức Thế Tôn! Quốc pháp nước tôi có bốn trọng tội:
Một là giết chết người. Hai là trộm đến năm tiền. Ba là dâm phụ nữ khác và bốn là vì năm tiền mà ở bên vua bên đại chúng cố ý nói dối.
Bốn tội như vậy, người phạm bị tử hình”.
Đức Phật nói: “Nay Phật cũng vì đệ tử vị lai mà chế
bốn trọng ấy.
Lại nầy Đại Vương! Vương Tử bao nhiêu tuổi thì
chẳng cho vào nội cung?”.
Vua nói: “Bạch Thế Tôn! Quá hai mười tuổi thì chẳng
cho vào nội cung”.
Đức Phật nói: “ Ta cũng vậy! Sa Di hai mươi tuổi
nhẫn đến đắc đạo chẳng cho nhập chúng”.
Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Như quốc pháp của tôi
có người phạm trọng tội thì quyết định phải chết, hoặc phải tội đánh, hoặc
mắng, hoặc nhốt, hoặc trói, hoặc thâu tài vật, hoặc đuổi ra khỏi nước.
Trong pháp Phật thì thế nào?”.
Đức Phật nói: “Nầy Đai Vương! Trong pháp Phật của
ta cũng như vậy. Nếu có người sai phạm thì hoặc bắt phải làm việc nhọc một
tháng hai tháng, hoặc chẳng cùng nói chuyện, chẳng cùng ngồi chung ăn chung,
hoặc chẳng ở chung, hoặc đuổi đi, hoặc ra một nước, hoặc ra bốn nước. Xứ có
Phật pháp xử trị các ác Tỳ Kheo như vậy rồi, các thiện Tỳ Kheo an lạc học chánh
phá nên làm cho Phật pháp còn lâu chẳng dứt diệt.
Nầy Đại Vương! Đời vị lai nếu có đệ tử Phật giàu sang nhiều của nhiều thế lực được vua quan thân ái, tất cả đại chúng chẳng đuổi trị được thì các vua chúa sẽ trị phạt. Nếu Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà chẳng thể trị được thì hàng tứ tánh như vậy làm dứt chủng tánh Tam bửu của Phật, hay làm tắt đuốc pháp, làm chìm thuyền pháp, cháy cạn pháp vị, cướp mắt chúng sanh. Lúc chánh pháp Phật diệt hoại thì tâm buông bỏ.
Nầy Đại Vương! Ví như một người đoạt tất cả con
mắt của mọi người thì tội ấy có nhiều chăng?”.
Vua nói: “Rất nhiều, bạch đức Thế Tôn! Chẳng thể
cân lường được, chẳng thể tính đếm được”.
Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nếu có hàng tứ tánh
có thế lực lớn thấy Phật pháp diệt bỏ mà chẳng thủ hộ, người nầy mắc tội cũng
như vậy.
Nầy Đại Vương! Nếu có quốc chủ trong vô lượng đời
tu thí giới huệ thấy Phật pháp diệt bỏ mà chẳng thủ hộ, thì vô lượng thiện căn
đã vun trồng thảy đều diệt mất. Xứ ấy sẽ có ba sự bất tường: một là gạo quí,
hai là binh cách và ba là tật dịch. Tất cả thiện thần đều bỏ đi qua xứ khác,
giáo lịnh nước ấy nhơn dân chẳng theo, thường bị lân quốc xâm lăng nhiễu loạn,
lửa dữ ngang nổi dậy, mưa gió xấu ác, lụt lũ tăng trưởng cuốn trội nhơn dân, người
thân tín trong ngoài cùng nhau mưu phản. Vua xứ ấy chẳng lâu sẽ mắc trọng bịnh,
chết sanh vào địa ngục. Nếu phước lành đời trước theo đến được lại sanh trong loài
người, thì nhiều đời thường đui mù, nghèo cùng linh đinh xin ăn để sống thường
sanh ác tâm, do ác tâm ấy nen lại đoạ trong địa ngục. Như vua, phu nhơn, thái
tử, đại thần, chủ thành, chủ thôn, tướng soái, quận thú, tể quan cũng như vậy”.
Vua Tần Bà Sa La tai nghe lời ấy buồn khóc nghẹn
ngào lau lệ bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi được gặp Như Lai mà vẫn
còn chưa trị nước đúng chánh pháp, huống là đời vị lai các vua chúa phóng dật
chẳng thể trì giới tu hành tinh tiến, chẳng trị được ác Tỳ Kheo để hộ trì Phật
pháp, chẳng thể nối thạnh chủng tánh Tam bửu. Các vua chúa như vậy mãi mãi
thường đi trong ba ác đạo”.
Lúc ấy các vua, phu nhơn, thái tử, đại thần, thành
chủ, thôn chủ, tướng soái, quận thú, tể quan đều bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế
Tôn! Nay trong đời hiện tại, chúng tôi cần phải siêng tâm thủ hộ Phật Pháp, cũng
nên cúng dường người thọ trì chánh pháp những món vật cần dùng như y phục, món ăn
uống, giường nệm, thuốc men, chúng tôi phải trị ác Tỳ Kheo, nối thạnh Tam bửu”.
Đức Phật nói: “Nầy đại chúng! Nếu các người có thể
kiến lập sự việc ấy, đó là cúng dường tam thế chư Phật, cũng được vô lượng bất
khả tư nghị các thiện công đức”.
Đức Phật lại bảo chư Thiên rằng: “Nầy chư Thiên Tử!
Hôm nay các Ngài chớ có lòng lo lắng. Nay ta vì các chánh pháp nên sẽ lập
nghiêm cấm chế cho hàng đệ tử Phật ở vị lai, vì để chẳng đoạn tuyệt tánh Tam
bửu, vì muốn tăng trưởng các thiện pháp, vì tăng trưởng đa văn đầy kho pháp
bửu, vì lìa tất cả khổ phiền não, vì thành đạo Vô thượng Bồ đề.
Nầy chư Thiên Tử! Nay chỗ Phật nói tất cả Thanh Văn
đầy đủ thành tựu được Thanh Văn thừa, tất cả Duyên Giác đầy đủ thành tựu được
Duyên Giác thừa, tất cả Bồ Tát thành tựu đầy đủ ba thứ phạm hạnh được trí vô
thượng.
Nầy chư Thiên Tử! Kinh nầy có thể lìa các ác chúng
sanh, hay phá hoại các pháp ác bất thiện của các chúng sanh, hay diệt thân khẩu
ý ba nghiệp bất thiện, hay phá trừ tất cả các quả báo ác.
Nếu có thiện nam thiện nữ cúng dường kinh nầy thì
là cúng dường thập phương chư Phật”.
Lúc bấy giờ Ta Bà thế giới tất cả chúng sanh khác
miệng đồng lời nói rằng: “Lành thay lành thay, bạch đức Thế Tôn! Tôi trước chưa
nghe pháp tụ lớn nầy nay được nghe đó. Tôi có thể thọ trì thủ hộ pháp ấy, vì cớ
hộ pháp tôi chẳng tiếc thân mạng. Nếu có hàng tứ chúng đệ tử Phật thọ trì pháp
ấy, tôi sẽ cúng dường tuỳ chỗ cần dùng đều cung cấp cho họ. Nếu còn có người hay
cúng dường những người thọ trì kinh nầy, chúng tôi cũng sẽ siêng thủ hộ người
ấy, khiến nội ngoại của cải vàng ngọc chẳng bị tổn hao. Xứ nào có kinh nầy lưu
bố, tôi cũng thủ hộ xứ ấy khiến không có các sự ác”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, nầy thiện nam
tử! Người có thể thủ hộ chánh pháp như vậy đó là cúng dường tam thế chư Phật.
Nầy thiện nam tử! Nếu các chúng sanh có tâm hộ pháp
hoặc sanh nhơn thiên được đại tự tại, nhẫn đến sanh trong loài chim thú cũng có
đại lực, người nể trọng chẳng bị các sự khốn khổ.
Nầy thiện nam tử! Người hộ pháp ấy, ác chẳng hại
được, lòng không sợ sệt, không ai phá hoại được, các ma phiền não chẳng được
tiện lợi, quyến thuộc đông nhiều, trí huệ đầy đủ. Phàm có nói ra không bị
chướng ngại, thích làm thập thiện tu tập chánh định. Cha mẹ các vua quan thấy
thì cung kính, hay thăng pháp toà chuyển chánh pháp luân, pháp đã được nghe
trọn chẳng quên mất”.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai
ngồi trên toà sư tử phóng đại quang minh dường như nhựt nguyệt, được đại tự tại
như Phạm Vương, Đế Thích, công đức cao hiển như núi Tu Di, pháp giới thậm thâm
dường như đại hải. Đức Thế Tôn ở trong đại chúng diễn nói chánh pháp sơ trung
hậu thiện, tự nghĩa chơn chánh, đầy đủ thanh tịnh ban tuyên phạm hạnh, vì chư
Bồ Tát mà thanh tịnh pháp ấn, khiến chư Bồ Tát nghe rồi tinh cần tu tập.
Đông phương quá chín vạn hai ngàn thế giới chư
Phật, có thế giới tên là Thiện Hoa, có Phật hiệu Tịnh Trụ Như Lai, Ứng Cúng, Chánh
Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn tuyên nói chánh pháp để giáo hoá chúng
sanh. Có một Bồ Tát tên là Bửu Kế cùng tám ngàn Bồ Tát rời thế giới ấy muốn đến
cõi nầy mang theo lọng báu vi diệu muốn dâng lên Phật. Lọng báu ấy che khắp
nhứt thiên Tiểu Thiên thế giới. Cũng còn mang theo hương hoa muốn cúng dường
Phật. Dùng âm thanh vi diệu nói kệ tán thán Như Lai:
Nếu hàng nhơn thiên được thấy Phật
Thì tức là được lợi ích lớn
Như Lai trước thọ khổ vô lượng
Vì siêng tinh tiến được Bồ đề
Thưở trước tinh tiến được Bồ đề
Vượt hơn tất cả chư Bồ Tát
Vì khiến chúng sanh được lợi ích
Nên chuyển vô thượng chánh pháp luân
Như Lai như vậy khó được thấy
Chánh pháp Phật nói khó được nghe
Được thân loài người cũng là khó
Các căn đầy đủ cũng như vậy
Nếu các chúng sanh làm nghiệp ác
Cũng chẳng làm được ba nghiệp thiện
Nếu người muốn được đại lợi ích
Phải nên gặp thấy Thích Thế Tôn
Nếu muốn nghe học pháp vô thượng
Cùng thấy mười phương chư Bồ Tát
Đầy đủ ba mươi hai diệu tướng
Phải nên mau đến Đại Bửu Phường
Nay nếu chẳng trồng các thiện căn
Sau ắt chẳng được đại Niết bàn
Nếu muốn đầy đủ được thân người
Phải nên mau đến cõi Ta Bà
Nếu muốn phá hoại ba ác đạo
Muốn thọ nhơn thiên vi diệu lạc
Muốn được vô thượng vô tỉ lạc
Phải nên mau đến cõi Ta Bà
Y Vương nay ban vị cam lộ
Trừ diệt chúng sanh các phiền não
Như Lai Đạo Sư Đại Pháp Vương
Ngày nay nói pháp giới vô thượng.
Lúc Bửu Kế Bồ Tát nói kệ tán thán Phật, âm thanh ấy
vang khắp Đại Thiên thế giới.
Tôn giả Xá Lợi Phất nghe tiếng kệ ấy bạch Phật
rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tiếng nói kệ ấy diễn tại xứ nào?”.
Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Đông phương quá
chín vạn hai ngàn thế giới chư Phật, có thế giới tên là Thiện Hoa, có Phật hiệu
là Tịnh Trụ Như Lai, có Bồ Tát tên là Bửu Kế cùng tám ngàn Bồ Tát đều muốn đến
đây. Tiếng nói kệ ấy là của Bửu Kế Bồ Tát ấy nói vang khắp Đại Thiên thế giới
đồng được nghe để khuyên các chúng sanh tu tập thiện pháp”.
Bửu Kế Bồ Tát và tám ngàn Bồ Tát cùng vô lượng nhơn
thiên đến chỗ Phật đầu mặt lễ lạy bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thiện Hoa
thế giới Tịnh Trụ Như Lai kính lời thăm hỏi Thế Tôn đi đứng nhẹ nhanh khí lực
an lành chăng, đại chúng có thích học chánh pháp chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Tôi từ thế giới kia đến đây để
nghe Bồ Tát tịnh hạnh pháp ấn. Duy nguyên Như Lai đại từ thương xót vì tất cả
đại chúng mà phân biệt giải nói. Khiên chư Bồ Tát nghe rồi tu tập, phá hoại tất
cả phiền não tập khí, tu Bồ Tát hạnh biết rõ tất cả tâm chúng sanh, có thể tu
tất cả hành tướng của Bồ Tát, hay hiểu rõ được trí huệ hành, hay biết tất cả
phiền não hành, hay tu pháp hành của Bồ Tát tu, hay quán sát sâu tất cả tội
lỗi, thân được vô ngại, được thấy tất cả Phật”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, nầy Bửu Kế!
Lắng nghe lắng nghe, nay phật sẽ nói một phần mười tịnh hạnh như vậy.
Nầy Bửu Kế! Đại Bồ Tát có bốn hạnh, đó là Ba la mật
hạnh, trợ Bồ đề hạnh, thần thông hạnh và điều phục chúng sanh hạnh.
Ba la mật hạnh là nguyện phương tiện. Trợ Bồ đề
hạnh là tu tập đạo phương tiện. Thần thông hạnh là điều tâm phương tiện. Điều
phục chúng sanh hạnh là Bồ đề tâm kiên cố phương tiện.
Nầy Bửu Kế! Thế nào gọi là Đàn Ba la mật? Đàn Ba la
mật tức là tịnh hạnh, hay phá hoại si tâm, hay tu xả tâm, tu xả tâm rồi hay bố
thí tất cả. Nếu Bồ Tát hay bố thí tất cả thì được bốn thứ vô phân biệt tâm, đó
là chẳng phân biệt chúng sanh, chẳng phân biệt pháp, chẳng phân biệt tâm và
chẳng phân biệt nguyện cầu.
Chẳng phân biệt chúng sanh là chẳng phân biệt kẻ
đáng cho kẻ chẳng đáng cho, kẻ nầy cho nhiều kẻ kia cho ít, đây cho phần thượng
đây cho phần hạ, đây kính cho kia khinh cho, đây cho trọn kia cho một phần, đây
trì giới kia phá giới, đây phước điền kia chẳng phước điền, đây được báo lớn
kia chẳng báo lớn, đây chánh kiến kia tà kiến, đây hành chánh tụ kia hành tà tụ
v.v…
Lúc bố thí không tâm kiêu mạn, không có tâm thượng
hạ, không có tâm chướng ngại, là tâm bình đẳng, là tâm chơn chánh, bình đẳng
thí giới, bình đẳng từ bi, tâm không có phân biệt dường như hư không. Đây gọi
là chẳng phân biệt chúng sanh.
Chẳng phân biệt pháp là chẳng phân biệt người học
thì dạy người chẳng học thì chẳng dạy, với người học pháp thì cho vật cần dùng,
trọn chẳng quán sát với kẻ phàm phu thì chẳng nên ban cho với bực Hiền Thánh
thì nên ban cho. Đây gọi là chẳng phân biệt pháp.
Chẳng phân biệt tâm là quán sát các chúng sanh tâm
Bồ Tát đều bình đẳng, chẳng vì báo đáp mà bố thí, chẳng tham nội ngoại vật mà
bố thí, chẳng phải vì danh mà bố thí, chẳng cầu quả báo mà bố thí, vật được mến
thích đem bố thí rồi thì chẳng hối tiếc, vì nhiếp chúng sanh nên làm việc bố thí.
Đây gọi là chẳng phân biệt tâm.
Chẳng phân biệt nguyện cầu là lúc bố thí chẳng vì
cầu được thân Đế Thích, thân Phạm Vương, thân Ma Vương, thân Chuyển Luân Vương,
thân Trưởng Giả, thân Đại Thần, lại cũng chẳng vì cầu được đại tự tại, được đại
quyến thuộc, được cõi trên, cũng chẳng vì cầu Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật
thừa nhẫn đến chẳng vì cầu Vô thượng Bồ đề mà bố thí. Đây gọi là bất phân biệt
nguyện vậy.
Nầy Bửu Kế! Lúc Bồ Tát tu bố thí đầy đủ thành tựu
bốn sự như vậy thì được xa lìa tám bất chánh kiến, đó là ngã kiến, thường kiến,
đoạn kiến, thọ mạng kiến, sĩ phu kiến, thường kiến, đoạn kiến, hữu kiến, vô
kiến. Lại còn xa lìa bốn thứ công đức hạ liệt, đó là phàm phu công đức, Thanh
Văn công đức, Duyên Giác công đức và những công đức tu tập khác. Lại còn chẳng
quán sát bốn tướng, đó là tướng thường, tướng lạc, tướng ngã và tướng tịnh. Lại
còn hay tịnh bốn pháp, đó là tịnh thân, tịnh khẩu, tịnh tâm và tịnh nguyện. Lại
còn xa lìa ba chướng ngại, đó là quả báo ngại, Thanh Văn ngại và hối tâm ngại. Lại
còn được xa lìa ba sự bố uý, đó là kiêu mạn uý, thượng mạn uý và ma nghiệp uý.
Lại còn có đủ bốn thứ pháp ấn, chúng sanh ấn và Bồ đề không ấn. Lại còn đủ bốn
thứ tinh tiến, đó là vì đầy đủ cho chúng sanh nên tinh tiến, vì thủ hộ Phật
pháp nên tinh tiến và vì tịnh Phật độ nên tinh tiến. Lại còn được đủ bốn niệm, đó
là niệm Bồ đề tâm, niệm muốn thấy Phật, tâm thường niệm từ và niệm rời lìa
phiền não. Còn được tịnh ba sự, đó là tịnh tự thân, tịnh tha thân và tịnh Bồ
đề. Còn tịnh bốn trí, đó là tịnh giới trí, tịnh chúng sanh mãn túc trí, tịnh
nguyện trí và tịnh trợ Bồ đề trí.
Bồ Tát nếu có thể hành các pháp như vậy thì có thể
tịnh được Đàn Ba la mật.
Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh Thi Ba la mật?”.
Có một thứ tịnh, đó là Bồ Tát thương xót tất cả thế
gian chúng sanh hơn hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật, lòng từ có thể phá hoại ma
nghiệp điều phục các chúng sanh đầy đủ vô lượng công đức bửu tụ không có phóng
dật.
Còn có hai thứ, đó là nơi các chúng sanh chẳng có
ác tâm và điều phục chúng sanh khiến họ hướng đến Bồ đề.
Còn có ba thứ, đó là tịnh thân vì xa lìa tất cả ác
nghiệp nơi thân vậy. Tịnh khẩu vì xa lìa tất cả ác nghiệp nơi khẩu vậy. Tịnh ý
vì xa lìa tất cả tham sân và tà kiến vậy.
Còn có bốn thứ, đó là khuyên các chúng sanh khiến
họ thọ trì giới cấm. Khuyên các chúng sanh khiến họ trì tịnh giới. Có thể điều
các người phá giới. Thấy người trì giới thì cúng dường cung kính tôn trọng tán
thán.
Còn có năm thứ, đó là trì giới rồi chẳng sanh kiêu
mạn. Thấy người phạm giới chẳng sanh khinh mạn. Thấy người trì giới tâm không
ganh ghét. Trọn chẳng cầu Thanh Văn thưa. Chẳng niệm Bích Chi Phật thừa.
Còn có sáu thứ, đó là niệm Phật vì siêu quá giới
vậy. Niệm Pháp vì siêu quá giới rồi tâm không hối. Niệm Tăng vì đầy đủ Như Lai
giới vậy. Niệm giới vì chẳng cầu các quả báo trong tam giới. Niệm thí vì có thể
tất cả đều thí cho. Niệm thiên vì muốn đầy đủ tất cả thiện pháp.
Còn có bảy thứ, đó là thâm tín tất cả Phật pháp.
Siêng tu tinh tiến để được Phật pháp. Đủ trí để biết tất cả Phật pháp. Nghe rồi
có thể nói tất cả Phật pháp. Hay cúng dường cha mẹ, Sư trưởng, Hoà thượng. Sợ
các ác nghiệp hiện tại và vị lai. Có tâm tàm quí.
Còn có tám thứ, đó là chẳng vì lợi dưỡng mà hiển dị
hoặc chúng. Chẳng nói sự của mình vì rời lìa tất cả vậy. Chẳng tán thán cúng
dường vì tâm tri túc vậy. Tu thánh chủng tánh vì thích thiện pháp vậy. Tu pháp
đầu đà vì chẳng tiếc thân mạng vậy. Thích tịch tĩnh vì lìa nói thế sự vậy. Thâm
tâm thích chánh pháp vì nhàm tam giới vậy. Chí tâm hộ pháp chẳng tiếc thân
mạng.
Còn có chín thứ, đó là lìa chín ác tâm vì vượt quá
chỗ ở của chín chúng sanh vậy. Niệm tịnh. Niệm tu. Tăng trưởng thiện pháp. Tâm
thích tịch tĩnh. Lìa phiền não nhiệt. Trang nghiêm Xa ma tha. Siêng tu tinh
tiến. Chẳng khi chúng sanh.
Còn có mười thứ, đó là tịnh thân ba nghiệp. Tịnh
khẩu bốn nghiệp. Tịnh ý ba nghiệp. Xa lìa tật đố. Lìa tâm siểm khúc. Chí tâm
niệm giới. Vì trì giới nên siêng tu tinh tiến. Lời dịu dàng để điều chúng sanh.
Thọ thân để chịu sự sai sử của chúng sanh. Nơi các phước điền chẳng khinh mạn.
Nầy Bửu Kế! Bồ Tát tu Thi la Ba la mật có hai thứ
tịnh hạnh: Một là có tâm có tướng và trang nghiêm, thà bỏ thân mạng trọn chẳng
phá giới. Hai là vô tâm vô tướng và không có trang nghiêm, nơi tất cả pháp tâm
không chỗ thủ trước.
Còn có hai thứ: Một là thường nguyện tâm Bồ đề. Hai
là chẳng quán bổn hướng Bồ đề giới tướng.
Nầy Bửu Kế! Thế nào là đại Bồ Tát tịnh Sằn đề Ba la
mật hạnh? Đại Bồ Tát bị mắng chẳng báo vì khẩu nghiệp tịnh vậy. Bị đánh chẳng
báo vì thân nghiệp tịnh vậy. Bị sân chẳng báo vì ý nghiệp tịnh vậy.
Đại Bồ Tát dầu bị mạ nhục mà chẳng báo vì thủ hộ
chúng sanh vậy. Bị các đau khổ mà chẳng báo vì thủ hộ đời sau vậy. Bị chặt tay
chưn mà từ tâm chẳng sân vì thủ hộ Bồ đề vậy. Thấy có người cầu xin lòng chẳng
sân hận vì tứ nhiếp pháp vậy, vì sanh tâm từ vậy, vì tăng Bồ đề đạo vậy, vì phá
xan tham vậy, vì phá ma nghiệp vậy.
Đại Bồ Tát niệm Phật rồi tu nhẫn nhục thọ tất cả sự
khổ để được thân Phật.
Còn có Bồ Tát tu nhẫn nhục vì muốn được đầy đủ mười
lực vậy.
Còn có Bồ Tát tu nhẫn nhục vì muốn thành đại sư tử
hống vậy.
Còn có Bồ Tát tu nhẫn nhục vì để biết tam thế không
chướng ngại vậy.
Còn có Bồ Tát tu nhẫn nhục để được sức đại từ đại
bi vậy.
Còn có Bồ Tát tu nhẫn nhục để được đầy đủ Nhứt
thiết trí vậy.
Đại Bồ Tát thành tựu hai lực thì được thành tựu hai
nhẫn. Đó là trí lực và tu lực. Do trí lực quán sát thân tâm nên thành tựu nhẫn.
Do tu lực nên chẳng thủ trước các pháp mà thành nhẫn.
Còn nữa, nầy Bửu Kế! Tịnh nhẫn Bồ Tát có thể quán
sát trong tất cả pháp không có chúng sanh nên tu nhẫn nhục. Vì tất cả pháp tánh
nó giải thoát nên Bồ Tát quán tất cả pháp không nhẫn không sân, nơi tất cả pháp
tâm không có chỗ thủ trước đây gọi là nhẫn.
Bồ Tát có hai nhẫn, đó là quán như pháp thân và
quán như pháp giới. Đại Bồ Tát nếu có thể quán hai pháp như vậy thì gọi là Bồ
Tát tịnh Sằn đề Ba la mật hạnh.
Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh Tỳ lê gia Ba la
mật? Nếu đại Bồ Tát nơi các hạnh tu tập chẳng nghỉ dứt chẳng hối, nơi các thiện
pháp tâm không nhàm đủ, cũng thích tu hành năm Ba la mật thường cầu trang nghiêm
tất cả thiện pháp, ủng hộ chánh pháp thích tuyên nói chánh pháp, điều phục chúng
sanh lòng không thôi nghỉ, quá Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa, ủng hộ tất
cả chư Phật chánh pháp, tu các khổ hạnh lòng không hối, trọn chẳng hư mất căn
lành xưa trước, rộng tu đa văn lòng không nhàm mỏi, vì chúng mà chạy lo công
việc lòng chẳng buồn hối, đây gọi là tinh tiến.
Tinh tiến như vậy thế nào gọi là tịnh?
Nếu Bồ Tát có thể quán thân như tượng như bóng,
quán khẩu không ngôn thuyết, quán tâm rốt ráo thanh tịnh. Dùng tận trí quán các
pháp. Dùng vô sanh trí biết các hữu đều tận. Lúc quán như vậy thì có thể trang
nghiêm ba thứ tinh tiến: một là thể trang nghiêm, hai là giác trang nghiêm và
ba là phân biệt trang nghiêm.
Còn có ba thứ bất trước tinh tiến: một là chẳng
trước nhãn, hai là chẳng trước sắc và ba là chẳng trước nhãn thức. Nhẫn đến
chẳng trước ý pháp và ý thức cũng như vậy.
Đây gọi là chẳng thủ chẳng xả tinh tiến đầy đủ.
Siêng tinh tiến như vậy rồi, chẳng thủ bố thí chẳng
xả xan tham, chẳng thủ trì giới chẳng xả huỷ giới, chẳng thủ nhẫn nhục chẳng xả
sân hận, chẳng thủ tinh tiến chẳng xả giải đãi, chẳng thủ thiền định chẳng xả
loạn tâm, chẳng thủ trí huệ chẳng xả ngu si, chẳng thủ thiện pháp chẳng xả ác
pháp, chẳng thủ Phật đạo chẳng xả Nhị thừa. Đây gọi là hai thứ cần tinh tiến
vậy. Hai tinh tiến ấy có thể thành tựu đủ Phật pháp.
Còn có hai thứ tinh tiến, đó là nội tinh tiến và
ngoại tinh tiến vậy.
Đây gọi là tịnh Tỳ lê gia Ba la mật hạnh.
Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh Thiền Ba la mật
hạnh?
Nếu có đại Bồ Tát thủ các thiền chi, quán các thiền
chi. Quán rồi nhập định. Đã nhập định rồi chẳng tham trước sắc, thọ, tưởng,
hành, thức. Đây gọi là thiền là chẳng phải trước nhãn thiền nhẫn đến ý thiền.
Đây gọi là thiền là chẳng phải trước sắc thiền nhẫn đến pháp thiền. Đây gọi là
thiền chẳng phải trước địa, thuỷ, hỏa, phong, không thiền. Đây gọi là thiền là
chẳng phải trước nhựt, nguyệt, Thích, Phạm, Tự Tại Thiên Thiền. Đây gọi là
thiền là chẳng phải trước Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới thiền. Đây gọi là
thiền là chẳng phải trước thử bỉ thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải quán
thân tâm thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải trước thượng hạ thiền. Đây gọi
là thiền là chẳng phải trước tứ thủ thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải trước
ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng tướng thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải
trước thường kiến, đoạn kiến, hữu kiến, vô kiến thiền. Đây gọi là thiền là
chẳng phải cứu cánh lậu tận thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải nhập định tụ
thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải được Sa Môn quả thiền.
Thiền như vậy đó chẳng phải cứu cánh hành thiền.
Gọi là không điều phục thiền chẳng phải chơn không thiền. Gọi là vô tướng điều
phục thiền chẳng phải chơn vô tướng thiền. Gọi là vô nguyện điều phục thiền
chẳng phải chơn vô nguyện thiền. Đây gọi là Bồ Tát đầy đủ thành tựu đại từ đại
bi nhứt thiết không hành thiền.
Thế nào gọi là đủ nhứt thiết không?
Nếu Bồ Tát có thể chẳng quán bồ thí, trì giới, nhẫn
nhục, tinh tiến, thiền định, trí huệ, phương tiện, từ bi, hỉ xả, tứ đế, Bồ đề,
trí huệ, phương tiện, từ bi, hỉ xả, tứ đế, Bồ đề, trí huệ, thệ nguyện, trang
nghiêm, xa ma tha, tỳ bà xá na, giải thoát, tàm quý, đây gọi là chư Phật phương
tiện tam muội thần thông vô ngại trí, nhiếp thủ thập lực, tứ vô sở uý và thập
bát bất cộng pháp, chẳng bị nhị thừa nhiễm ô, đoạn các tập khí, đầy đủ vô lượng
đại thần thông trí, được các chúng sanh quy y, trang nghiêm thế pháp và xuất
thế pháp, hay khéo điều phục tất cả chúng sanh qua khỏi bốn dòng và biển lớn
sanh tử, hay dứt tất cả hệ phược, tịnh các pháp tánh, đây gọi là tánh tịch tĩnh
chẳng phải là hướng pháp tịch tĩnh, cũng lấy hướng pháp xả tánh, thấy rõ hướng
pháp manh tánh, nghe rõ hướng pháp lung tánh, siêng điều phục hướng pháp đình
trụ, tiêu diệt tịch tĩnh, điều phục xí nhiên. Đây gọi là Nhứt thiết hành không.
Nầy Bửu Kế! Ví như tam thiên Đại thiên thế giới tất
cả chúng sanh đều giỏi biết hoạ. Trong ấy hoặc có kẻ giỏi đắp tô, hoặc giỏi mài
cho màu, hoặc biết hoạ thân chẳng hiểu hoạ tay chưn, hoặc hiểu hoạ tay chưn mà
chẳng hiểu hoạ mắt.
Có quốc vương trao chúng ấy một trương lụa mà bảo
rằng: Người nào có khả năng hoạ thì đến tụ họp tại đây hoạ hình thân ta trên
trương lụa nầy. Chúng ấy đều đến tụ họp tuỳ khả năng mình mà cùng chung làm. Có
một hoạ sư vì duyên sự riêng nên không đến họp được, Chúng ấy họa xong đồng đem
bức hoạ dâng cho quốc vương.
Nầy Bửu Kế! Như vậy có thể gọi là mọi người đều tụ
họp tất cả chăng?”.
Bửu Kế Bồ Tát nói: “Không, bạch đức Thế Tôn!”.
Đức Phật nói: “Nầy Bửu Kế! Ta nói ví dụ ấy nghĩa
của nó chưa tỏ. Vì còn một người chưa đến nên chẳng được gọi là tất cả đều họp
lại làm, cũng chẳng được nói hình tượng thành tựu.
Phật pháp hành cũng như vậy. Nếu còn có một hành
chẳng thành tựu thì chẳng gọi là đầy đủ Như Lai chánh pháp. Vì vậy cần phải đầy
đủ các hành mới gọi là thành tựu Vô thượng Bồ đề”.
Lúc nói pháp ấy, có sáu vạn Bồ Tát nơi tất cả hành
được đầy đủ không.
“Nầy Bửu Kế! Thế nào gọi là Bồ Tát tịnh Bát Nhã Ba
la mật hạnh?
Đại Bồ Tát đủ mười hai huệ:
Một là biết quá khứ vô ngại, hai là biết vị lai vô
ngại, ba là biết hiện tại vô ngại, bốn là biết hữu vi vô ngại, năm là biết vô
vi vô ngại, sáu là biết tất cả thế tác vô ngại, bảy là biết xuất thế tác vô
ngại, tám là biện tài vô ngại, chín là biết thiệt vô ngại, mười là biết thế đế
vô ngại, mười một là biết đệ nhứt nghĩa vô ngại, mười hai là biết các chúng
sanh lợi độn vô ngại. Đây gọi là huệ.
Huệ nầy, với khó phá thì hay phá được, với khó thấy
thì hay thấy được, với khó hiểu thì hay hiểu được. Ví như kim cương không gì
trở hoại được. Đây gọi là huệ xuất thế, là cứu cánh huệ, là Nhứt thiết chúng
sanh chơn giải tâm huệ, khó hành khó vào, thậm thâm khó thấy, khó tập học được,
là chánh kiến chánh tụ xa lìa các kiến và tập khí, tự biết tỏ rõ, thấy biết tâm
tất cả chúng sanh, là pháp trí nghĩa trí không có tham trước, là quang minh
rộng lớn không tranh không gần, khéo biết thời tiết vượt quá thời tiết, là
chánh tụ thủ hộ chánh tụ, là cứu cánh giác chánh giác thiệt giác, xa lìa cấu
uế, chẳng bị tất cả Thánh nhơn quở trách, là nhứt hành vô hành, là tất cả chúng
sanh hành, là hành không có dấu chưn, dầu rời lìa tất cả thế gian hành mà cũng
chẳng xa lìa tất cả thế gian hành, dầu lìa thế giới mà chẳng rời Phật độ, dầu
lìa tất cả các hành trang nghiêm mà chẳng rời xa điều phục chúng sanh, dầu rời
các hành mà chẳng lìa thiện hành, dầu rời chúng sanh tâm hành nhơn duyên mà
chẳng rời thấy biết tâm hành tất cả chúng sanh, dầu rời thế hành mà chẳng lìa
thế pháp, dầu lìa các thân chúng sanh mà cũng nhập vào tâm chúng sanh. Đây gọi
là huệ.
Trí huệ như vậy rất là khó được.
Nếu chẳng phải thiện căn thuần thục thì trọn chẳng
thể được. Người chẳng thường tu hành thiện pháp luôn thì cũng chẳng thể được
trí huệ như vậy. Người ngồi toà kim cương dưới Bồ đề thọ mới được đó. Là chơn
như pháp tánh được chư Phật hộ niệm, đã qua đến bờ kia, biết tất cả pháp ban bố
vị cam lộ, vì vậy nên gọi là Bát Nhã Ba la mật.
Nầy Bửu Kế! Trí huệ như vậy cứu cánh biết rõ tất cả
duyên, tất cả tướng, tất cả tâm hành của tất cả chúng sanh, vì vậy nên gọi là
trí huệ.
Trí huệ như vậy có hai tịch tĩnh: một là biết tướng
ngại tịch tĩnh và hai là biết tướng vô ngại tịch tĩnh.
Còn có hai thứ: một là vô giác tịnh và hai là lìa
các kiến tịnh.
Trí huệ như vậy, Bồ Tát thường dạo đi trong căn lợi
độn của chúng sanh, trong tâm chúng sanh, trong tất cả pháp, quán các phiền não
tức là trí huệ. Bồ Tát dầu trụ các cõi mà phần nhiều trụ cõi Phật. Hay khéo xem
thấy thập phương thế giới, lìa tất cả cái chướng, đều là tất cả Phật pháp căn
bổn, đầy đủ tất cả vô thượng Phật pháp, chẳng học các pháp chẳng rời các pháp,
chẳng hoại một pháp chẳng thành một pháp.
Bồ Tát thành tựu trí huệ như vậy có thể làm công
đức, hay đọc tụng hay tuyên thuyết tất cả Phật pháp, tất cả phước đức đều có
thể được, đều có thể tu thành tất cả thiện pháp. Đây gọi là Bồ Tát tịnh Bát Nhã
Ba la mật hạnh”.
Lúc nói pháp ấy, có hai vạn hai ngàn chúng sanh
phát tâm Vô thượng Bồ đề, tám ngàn Bồ Tát được vô sanh nhẫn, năm trăm Tỳ Kheo
lậu tận ý giải, mười ngàn Thiên Nhơn được quả Tu Đà Hoàn.
Tất cả hàng Nhơn Thiên đồng nói rằng: “Bạch đức Thế
Tôn! Nếu người có thể tin pháp nầy thì nên biết người ấy được chư Phật hộ niệm,
huống là người có thể thọ trì đọc tụng thơ tả cúng dường!”.
Đức Phật lại bảo Bửu Kế Bồ Tát: “Nầy Bửu Kế! Thế
nào là đại Bồ Tát tịnh trợ Bồ đề hạnh?
Đại Bồ Tát thân niệm xứ có hai thứ hạnh: Một là bất
tịnh hạnh, hai là tịnh hạnh.
Thân bất tịnh hạnh là quán thân bất tịnh hôi dơ đầy
dẫy, vô thường vô trụ nó dội phỉnh phàm phu.
Thân tịnh hạnh là tư duy như vầy: Nay ta nhơn nơi
thân bất tịnh nầy mà được tịnh Phật thân, được tịnh pháp thân, được tịnh công
đức thân, được thân mà tất cả chúng sanh thích thấy.
Còn nữa, nầy Bửu Kế! Bồ Tát quán thân rồi có thể
tịnh hai hạnh: Một là vô thường, hai là thường.
Bồ Tát quán thân vô thường tất định sẽ chết. Quán
như vậy rồi chẳng vì thân mà gây kiết sử tạo ác nghiệp, chẳng tà mạng tự sống,
tu ba kiên pháp: Đó là thân kiên, mạng kiên và tài kiên. Quán như vậy rồi, Bồ
Tát có thể vì chúng sanh mà làm cấp sử liền được xa lìa thân khẩu ý siểm khúc.
Bồ Tát quán thân vô thường được vô lượng công đức như vậy.
Thế nào là thường?
Bồ Tát quán thân vô thường rồi thì được thường
thân, nhơn quán vô thường mà được công đức thân, nhơn nơi vô thường mà chẳng
dứt Phật chủng, Pháp chủng và Tăng chủng.
Lại nầy Bửu Kế! Thường ấy tức là vô tận, vô tận ấy
tức là vô vi, vô vi ấy là chỗ sở hành của Nhứt thiết trí, sở hành của Nhứt
thiết trí ấy tức là không, vô tướng vô nguyện.
Lại thường ấy tức là hư không. Đại Bồ Tát quán tất
cả pháp dường như hư không. Đây gọi là đại Bồ Tát thường hạnh.
Nầy Bửu Kế! Còn có Bồ Tát tu thân niệm xứ, quán sát
thân tất cả chúng sanh rốt ráo sẽ là thân Phật Như Lai. Như Phật thân, pháp
thân cũng vậy. Hai thân như vậy thân ta cũng vậy. Đây gọi là Bồ Tát quán vô lậu
thân. Bấy giờ những thiện pháp mà Bồ Tát đã được hoặc nhiều hay ít tất cả đều vô
lậu. Đem pháp như vậy phát nguyện hồi hướng Nhứt thiết chủng trí. Đã được vô
lậu thì trọn chẳng còn khởi hữu lậu. Nói là lậu ấy có ba thứ là Dục giới lậu,
Sắc, Vô Sắc giới lậu cũng gọi là hữu lậu và vô minh lậu.
Bồ Tát biết rõ ba lậu rồi, vì chúng sanh mà thọ
sanh Dục giới cũng chẳng bị dục lậu làm ô nhiễm, thọ sanh Sắc giới và Vô Sắc
giới cũng vậy.
Vô minh lậu ấy đã nhỗ gốc rễ nó. Tại sao, vì nhổ vô
minh thì không có kiến lậu.
Bồ Tát tu thân niệm xứ rồi, ở trong thân chẳng thấy
có ngã ngã sở, chẳng sanh kiêu mạn, vì đã lìa ngã ngã sở nên chẳng cầu chẳng
lấy tất cả tài vật. Vì chẳng cầu lấy nên ở nơi tài vật không tranh. Vì không
tranh nên là tịch tĩnh. Luận về tịch tĩnh ấy tức là nhẫn nhục. Trụ nơi nhẫn nhục
chẳng thượng chẳng hạ tức là như pháp trụ. Như pháp trụ thì chẳng hành thiện
pháp chẳng hành ác pháp.
Chẳng thượng chẳng hạ rồi thì được thiện hữu. Được
thiện hữu rồi thì được gặp thiện tri thức. Vì được gặp thiện tri thức nên được
nghe chánh pháp. Vì nghe chánh pháp nên chẳng dùng tâm hữu lậu hướng pháp hữu
lậu. Đây gọi là vượt quá cảnh giới các lậu. Quá cảnh giới các lậu rồi sẽ nhập
thiền định. Đã nhập định rồi nhẫn đến nơi một pháp cũng chẳng sanh giác quán.
Vì không có giác quán nên chẳng làm một pháp chẳng biến một pháp. Đây gọi là như
pháp. Đây gọi là tất cả pháp bình đẳng. Nếu được tất cả pháp bình đẳng như vậy
thì gọi là Nhứt thiết trí.
Đại Bồ Tát nếu có thể quán thân niệm xứ như vậy đây
gọi là quán thân niệm.
Nầy Bửu Kế! Bồ Tát ấy kế đến quán thọ niệm xứ. Đối
với kẻ có thọ Bồ Tát sanh tâm từ bi hướng đến các chúng sanh mà bảo rằng: cứu
cánh lạc ấy dứt tất cả thọ. Nếu người có thể dứt tất cả thọ tức là thường lạc.
Lúc bấy giờ Bồ Tát tuỳ sở thọ sanh tâm từ bi hoặc tự hoặc tha lúc thọ lạc thọ
xa lìa tâm ái trước mà sanh tâm từ, lúc thọ khổ thọ xa lìa tâm sân mà sanh tâm
bi, lúc thọ khổ bất lạc thọ thì xa lìa tâm vô minh mà sanh xả tâm.
Vì vậy nên Bồ Tát lúc thọ lạc chẳng sanh tham
trước, lúc thọ khổ chẳng sanh sân hận, lúc thọ chẳng khổ chẳng lạc chẳng sanh
vô minh. Bồ Tát lúc nầy quán tất cả thọ là vô thường khổ không vô ngã. Thấy
người thọ lạc liền biết là khổ, thấy người thọ khổ như nhọt như ghẻ, thấy thọ
chẳng khổ chẳng lạc là tịch tĩnh. Quán lạc thọ là vô thường, quán khổ thọ là
rỗng không, bất khổ bất lạc thọ là vô ngã. Lúc quán như vậy rồi, Bồ Tát thấy
các thọ tức là không có thọ, thấy tất cả thọ là hữu vi. Nếu là hữu vi tức là
sanh diệt tán lậu vô trụ. Quán như vậy chẳng thấy có ngã, chẳng thấy người thọ,
đây gọi là Bồ Tat đại trí phương tiện.
Nhơn phương tiện ấy, Bồ Tát thấy tất cả thọ vô
thường sanh diệt, quán tất cả pháp thảy đều không vô, không có thọ không có thọ
giả, không có tác không có tác giả, theo duyên mà sanh theo duyên mà diệt,
không có thuộc không nhiếp thủ, nơi các nhơn duyên chẳng sanh giác quán. Nhơn
vì không có giác quán nên nói như vầy: Các pháp nhơn duyên thảy đều là rỗng
không.
Lúc quán như vậy, đại Bồ Tát thành tựu thọ niệm xứ
có thể làm cho thân tâm thảy đều tịch tĩnh biết tất cả hành, đây gọi là nhứt
thiết trí. Đây gọi là tu thọ thọ niệm xứ.
Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tu tâm niệm xứ?
Đại Bồ Tát trụ tâm Bồ đề, quán sát tâm tánh ấy,
chẳng thấy nội nhập tâm, chẳng thấy ngoại nhập tâm, chẳng thấy nội ngoại nhập
tâm, chẳng thấy tâm ở trong ngũ ấm, chẳng thấy tâm ở trong thập bát giới. Đã
chẳng thấy tâm rồi, Bồ Tát suy nghĩ rằng: Tâm duyên như vậy là dị biệt hay
chẳng dị biệt. Nếu tâm khác với duyên thì lẽ ra trong nhứt thời có hai tâm, nếu
tâm là duyên thì chẳng nên tâm lại hay quán tự tâm, như đầu ngón tay chẳng nên
có tự chạm lấy nó. Quán vậy rồi, Bồ Tát thấy tâm vô trụ vô thường biến dị, chỗ
sở duyên diệt thì biết là tâm, chẳng phải tâm duyên sanh, chẳng phải chẳng
duyên sanh, chẳng phải thường chẳng phải đoạn, chẳng phải nội, chẳng phải
ngoại, chẳng phải hữu, chẳng phải vô. Bồ Tát quán tâm như vậy chẳng ngại pháp
như, biết tâm tịch tĩnh. Đây gọi là Bồ Tát tu tâm tâm niệm xứ.
Còn nữa, nầy Bửu Kế! Đại Bồ Tát quán tâm chẳng phải
sắc chẳng thể nhìn thấy được, chẳng phải giác quán. Đây gọi là Bồ Tát tu tâm
tâm niệm xứ.
Như tâm, các tâm số cũng vậy. Như tâm số, các tâm
hành cũng vậy. Như tâm hành, các pháp sở cầu của tâm cũng vậy. Như pháp sở cầu,
Bồ đề cũng vậy. Như Bồ đề, tất cả thiện pháp cũng vậy.
Bồ Tát nếu quán tâm như di hầu, vẽ nước, sương mai,
ong chúa, ngư mẫu, như sông, như lửa, như tưởng sự xa, như độc hành không thân,
thường chuyển không dừng, tham trước các giới, thứ đệ sanh diệt, Bồ Tát có thể
tư duy nhiếp vô lượng tâm như vậy, khiến trụ một chỗ chẳng động chẳng chuyển chẳng
lậu chẳng lầm chẳng loạn chẳng tan. Đây gọi là Xa ma tha.
Bồ Tát nếu có thể quán như vậy, đây gọi là thành tựu
quán tâm tâm niệm xứ. Đây gọi là biết tâm cảnh giới, là biết tâm pháp giới, là
biết tâm chơn thiệt tướng, là biết tâm chơn thiệt tánh, tức là quảng tri, tức
là tịnh tri, liễu tri, chơn tri, thiệt tri như huyễn ảo, đây gọi là tri pháp, tri
tâm tánh, tri tâm tận, gọi là vô thủ tri, vô quái ngại tri.
Đại Bồ Tát quán như vậy rồi, khéo biết tất cả chúng
sanh tâm tánh. Biết rồi Bồ Tát như chỗ đáng nên mà vì họ thuyết pháp.
Như biết tâm tánh ấy, biết tất cả chúng sanh tâm
tánh cũng như vậy.
Như biết tự tâm tướng, biết tất cả chúng sanh tâm
tướng cũng như vậy.
Như biết tự tâm không, biết tất cả chúng sanh tâm
không cũng như vậy.
Như quán tự tâm bình đẳng, quán tất cả chúng sanh
tâm bình đẳng cũng như vậy.
Quán như vậy rồi, chẳng động pháp giới. Đây gọi là Bồ
Tát tu tâm tâm niệm xứ.
Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tu pháp niệm xứ?
Đại Bồ Tát quán sát như vầy: pháp xuất pháp diệt
không có ngã, chúng sanh, thọ mạng, sĩ phu, không sanh, không diệt, không một,
không xuất, đây gọi là pháp tánh. Nếu hay cầu pháp đây gọi là xuất pháp, nếu
chẳng cầu pháp đây gọi là diệt pháp.
Các pháp hoặc thiện hay bất thiện, pháp xuất theo
duyên, pháp diệt theo duyên.
Lúc quán như vậy, Bồ Tát quán nơi ba hành là ác
hành, thiện hành và bất động hành.
Trong ba hành ấy, ta nên thường hành cực thiện hành
là thập thiện pháp. Thập thiện pháp ấy là tịnh thân nghiệp để cầu Như Lai ba
mươi hai tướng tám mưới hình hảo người khác chẳng hại được. Thập thiện pháp ấy
là tịnh khẩu nghiệp, phàm có lời nói ra mọi người thích nghe học. Thập thiện pháp
ấy là tịnh tâm nghiệp, với các chúng sanh tâm thường bình đẳng, thường nhập
thiền định tịnh tứ vô ngại trí. Vì tịnh tâm bi nên trong vô lượng đời vì chúng
sanh thọ khổ mà tâm chẳng hối. Tịnh thập lực để biết chúng sanh các căn lợi
độn. Tịnh tứ vô uý để biết chúng sanh chướng không chướng. Tịnh thập bát bất
cộng pháp để biết tam thế vô ngại. Tịnh tất cả Phật pháp vì tất cả chúng sanh
không ai hơn được vậy.
Đại Bồ Tát hay quán như vậy thì ở nơi các thiện
pháp và các công đức tâm không nhàm đủ, gần kề thiện hành xa lìa ác hành và
phiền não tập khí, chơn thiệt biết rõ bất động hành. Dầu biết chẳng tham mà tâm
được tự tại tuỳ nguyện vãng sanh chẳng phải kiết nghiệp sanh, Bồ Tát sanh vào
dục giới là vì chúng sanh vậy.
Nầy Bửu Kế! Đại Bồ Tát được thiện phương tiện quán
pháp niệm xứ tu tập trang nghiêm pháp trợ Bồ đề, xa lìa tất cả cấu chướng Bồ
đề. Được công đức ấy, Bồ Tát chẳng trước thường kiến chẳng trước đoạn kiến, lìa
hai kiến ấy hành nơi trung đạo.
Luận về trung đạo có hai pháp: Một là niệm bất
thiện và hai là vô minh. Trong hai pháp ấy tâm chẳng phóng dật đây gọi là trung
đạo.
Còn có hai pháp: Một là hành, hai là thức.
Còn có hai pháp: Một là danh sắc, hai là lục nhập.
Còn có hai pháp: Một là xúc, hai là thọ.
Còn có hai pháp: Một là ái, hai là thủ.
Còn có hai pháp: Một là hữu, hai là sanh.
Còn có hai pháp: Một là lão, hai là tử.
Trong những hai pháp ấy tâm chẳng phóng dật đây gọi
là trung đạo.
Trung đạo như vậy, trí huệ thế gian chẳng thể thấy
được, chẳng tuyên nói được, chẳng hiển thị được, không có tướng mạo, không sắc,
không xứ, không thủ, không xả, là thanh tịnh là tịch tĩnh.
Nầy Bửu Kế! Về trung đạo ấy, chẳng thể nhãn thấy
được nhẫn đến chẳng thể thân xúc được, cũng không chỗ đến, cũng thế cũng xuất
thế, chẳng tuyên nói được, chẳng phải nhiều chẳng phải ít, nên gọi là trung
đạo.
Nầy Bửu Kế! ngã cùng vô ngã gọi là nhị biên.
Nếu có Bồ Tát nói rằng: Chẳng thường chẳng đoạn,
chẳng mạng căn chẳng sĩ phu, chẳng tưởng chẳng chẳng tưởng, chẳng giác chẳng
chẳng giác, chẳng thiệt chẳng hư, chẳng thử chẳng bỉ, chẳng hữu chẳng vô, chẳng
hữu vi chẳng vô vi, chẳng hành chẳng hành chẳng chẳng hành, chẳng sanh tử chẳng
Niết bàn. Đây gọi là trung đạo.
Còn nữa, nầy Bửu Kế! Đại Bồ Tát quán pháp pháp niệm
xứ chẳng phân biệt pháp giới. Như pháp giới, chúng sanh giới cũng vậy. Hai giới
như vậy gọi là hư không giới. Pháp giới ấy tức là chúng sanh giới. Chúng sanh
giới ấy tức là vô phân biệt. Đây gọi là quán sát tất cả pháp bình đẳng, thấy
tất cả giới tức là pháp giới. Dầu thấy rành rõ mà tâm chẳng thủ trước, vì không
trước thì không phân biệt.
Đại Bồ Tát chẳng dùng nhục nhãn, thiên nhãn, huệ
nhãn quán pháp niệm xứ, tại sao, vì ba nhãn như vậy không có tướng mạo. Vì thế
nên quán pháp, Bồ Tát dùng pháp nhãn. Dầu tỏ rõ biết mà Bồ Tát tâm chẳng trước.
Dầu chẳng trước mà chẳng mất pháp giới, đây gọi là phật trí. Có thể biết thậm
thâm pháp giới như vậy mà chẳng mất nơi Nhứt thiết trí niệm. Đây gọi là Bồ Tát
tu pháp pháp niệm xứ.
Nầy Bửu Kế! Đại Bồ Tát cớ chi tu tập bốn niệm xứ
ấy, vì muốn xa lìa bốn điên đảo vậy. Tu thân niệm xứ để lìa tịnh đảo. Tu thọ
niệm xứ để lìa lạc đảo. Tu tâm niệm xứ để lìa thường đảo. Tu pháp niệm xứ để
lìa ngã đảo.
Còn lìa bốn thứ thực: tu thân niệm xứ để lìa đoàn
thực, tu thọ niệm xứ để lìa xúc thực, tu tâm niệm xứ để lìa thức thực, tu pháp
niệm xứ để lìa tư thực.
Còn xa lìa bốn trụ xứ của thức. Tu thân niệm xứ xa
lìa trụ sắc xứ. Tu thọ niệm xứ lìa trụ niệm xứ. Tu tâm niệm xứ lìa trụ tưởng
xứ. Tu pháp niệm xứ lìa trụ hành xứ.
Vì lìa ngũ ấm mà tu Tứ niệm xứ. Tu thân niệm xứ, để
lìa sắc ấm. Tu thọ niệm xứ, để lìa thọ ấm. Tu tâm niệm xứ, để lìa thức ấm. Tu
pháp niệm xứ, để lìa tưởng hành ấm.
Đây gọi là Bồ Tát tịnh Tứ niệm xứ hành.
Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh Tứ chánh cần
hành?
Đại Bồ Tát thường thích tu tập tất cả thiện pháp.
Ác pháp chưa sanh vì chẳng sanh mà siêng tu tinh
tiến. Ác pháp đã sanh vì xa lìa mà siêng tu tinh tiến. Thiện pháp chưa sanh vì
sanh mà siêng tu tinh tiến. Thiện pháp đã sanh vì trụ vững chẳng mất mà siêng
tu tinh tiến.
Đại Bồ Tát nơi vô lượng đời tu tập thiện hành vì
vậy nên tánh thiện chẳng dùng phương tiện khiến ác chẳng sanh. Nếu Bồ Tát tu Tứ
chánh cần thì tâm được tự tại.
Chánh cần ấy, Bồ Tát lúc ấy tâm và tâm số cùng đại
từ đại bi hoà hiệp cộng hành, đây gọi là chánh cần.
Bồ Tát lúc bấy giờ kế thứ tu Tứ như ý túc là dục,
tâm, tiến và huệ.
Chuyên niệm chí tâm niệm nơi Bồ đề đây gọi là dục.
Vì tu đại bi nên giác tâm nhẹ nhàng tiện lợi đây
gọi là tâm.
Xa lìa ác pháp đây gọi là tinh tiến.
Vì được phương tiện nên gọi là huệ.
Bồ Tát tu Tứ như ý túc rồi được bốn tự tại. Một là
thọ mạng tự tại. Do tự tại nên dầu sanh đoản thọ mà tự được trường thọ để điều
phục chúng sanh cùng kẻ trường thọ, nên diễn nói chánh pháp. Ở trong trường thọ
có thể hiện đoản thọ. Tuỳ xứ nào Bồ Tát thọ sanh hoặc Trời hoặc loài người, Bồ
Tát đều được thọ mạng tự tại.
Hai là thân được tự tại. Do tự tại nên tuỳ tâm mà
làm thân, tuỳ tâm mà làm sắc, thị hiện oai nghi vì chúng sanh vậy. Bồ Tát nếu
muốn thân mình cùng thân chúng sanh đồng cao lớn nhỏ bé đều có thể tuỳ tâm làm
được cả.
Ba là được pháp tự tại. Vì tự tại nên có thể biết
tất cả pháp thế gian tất cả pháp xuất thế. Chỉ dạy các chúng sanh tất cả thế
sự, nơi xuất thế hành tâm cũng chẳng thối thất, biết rõ thậm thâm thập nhị nhân
duyên được vô ngại trí có thể vì chúng sanh nói các pháp. Vô lượng chúng sanh
nghe pháp ấy rồi phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Bốn là nguyện được tự tại. Do tự tại nên có thể
khiến bốn đại hải hiệp làm một mà chẳng lai chẳng khứ, không có động chuyển như
cũ không khác. Cũng có thể khiến tất cả Tu Di sơn trong tam thiên Đại Thiên thế
giới hiệp làm một mà chẳng lai chẳng khứ không có động chuyển như cũ không khác,
với Tứ Vương Thiên Đao Lợi Thiên không có phòng ngại. Nếu muốn khiến tam thiên
Đại Thiên thế giới đều làm kim bửu, thất bửu, chiên đàn, anh lạc, hương hoa, hư
không, thuỷ, hỏa đều tuỳ ý thành cả. Đây gọi là Bồ Tát được tứ tự tại.
Nầy Bửu Kế! Bồ Tát được Tứ như ý túc thì được diện kiến thập phương chư Phật cùng nói năng đi đứng một chỗ. Cũng diện kiến tất cả Phạm Vương, Đế Thích, Tứ Thiên Vương cùng Thiên, Long, Dạ Xoa, Bát Bộ Thần đồng nói năng đi đứng một chỗ.
Thế nào là trang nghiêm Tứ như ý túc?
Nầy Bửu Kế! Nếu Bồ Tát có thể cúng dường cha mẹ,
Hoà thượng, Sư trưởng kỳ cựu có đức, thấy các chúng sanh tiên ý thăm hỏi, dịu
dàng nói năng như lời mà làm, xem các chúng sanh tâm mình bình đẳng, thiện tâm,
chánh tâm, cung kính tâm, tàm quí tâm, xa lìa tham dục sân khuể ngu si, không
khi, không kiêu, không đố kỵ, không xan tham, kinh doanh sự nghiệp người như làm
cho mình, người không có thế lực giúp họ thế lực, đường bùn lầy lấy đất đá lấp,
nơi sông rạch bắc cầu làm đò, hoặc dùng thân mang gánh, hoặc cho thuyền chở,
thường thí cho chúng sanh vật cần dùng, miệng chẳng nói sự suy não của người,
cũng chẳng chê chọc người phạm tội, người có phạm tội hay như pháp trừ, ngăn
các phiền não chẳng cho sanh khởi, vật mình trọng thích có thể đem cho, đã cho rồi
tâm không hối, vì các chúng sanh mà phát nguyện hồi hướng, tín tâm dùng thiện
pháp khuyên các chúng sanh chẳng tiếc thân mạng, thiểu dục tri túc nơi lợi
dưỡng của người lòng không hi vọng, thường niệm xuất gia cũng khuyên người, niệm
thiện tri thức lòng không xa rời, trong oán thân bình đẳng không hai, đem các
thứ xe cho người đi đường, với người ốm thiếu thí cho giường nệm, kẻ bị khủng
bố có thể cứu hộ, xem các chúng sanh như cha mẹ, chẳng khi người huỷ giới, đem
tài vật cho kẻ nghèo, người bịnh gầy cho thuốc men, thi ơn nơi người chẳng tự
kể nhắc, trọn chẳng đoạn tuyệt Tam bửu chủng tánh, thường niệm vô vi xa lìa thế
sự tất cả các pháp ác bất thiện, chẳng bị thế pháp nhiễm ô, chẳng mất niệm Bồ
đề chí tâm.
Đây gọi là Bồ Tát trang nghiêm tịnh Tứ như ý túc
hành.
Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh Ngũ căn hành?
Bồ Tát tín tâm chẳng thể động chuyển gọi là tín
căn. Chẳng do người dạy bảo mà tự hành tinh tiến gọi là tinh tiến căn. Thường
niệm Bồ đề không quên gọi là niệm căn. Thường tu đại bi gọi là định căn. Nhiếp
thủ thiện pháp gọi là huệ căn.
Còn nữa, tin các Phật pháp không động chuyển gọi là
tín căn. Tự cầu các Phật pháp gọi là tinh tiến căn. Thường niệm các Phật pháp
gọi là niệm căn. Được phật tam muội gọi là định căn. Dứt các lưới nghi gọi là
huệ căn.
Còn nữa, tâm hướng Bồ đề không nghi gọi là tín căn.
Tăng trưởng thiện pháp gọi là tinh tiến căn. Cầu thiện phương tiện gọi là niệm
căn. Xem các chúng sanh lòng bình đẳng gọi là định căn. Quán thấy chúng sanh
thượng trung hạ căn gọi là huệ căn.
Còn nữa, tâm thanh tịnh không trược cấu gọi là tín
căn. Phá các tâm trược cấu gọi là tinh tiến căn. Thường niệm pháp thanh tịnh
gọi là niệm căn. Quán tâm tánh thanh tịnh gọi là định căn. Hay khiến chúng sanh
trụ pháp thanh tịnh gọi là huệ căn.
Còn nữa, xa lìa tất cả pháp tệ ác gọi là tín căn.
Cầu các thiện pháp gọi là tinh tiến căn. Được thiện pháp rồi chẳng mất gọi là
niệm căn. Đã được thiện pháp như thiện pháp mà trụ gọi là định căn. Tư duy các
pháp thiện bất thiện và vô ký gọi là huệ căn.
Còn nữa, tín căn là tâm bố thí. Tinh tiến căn tức
là ưa thí không thôi nghỉ. Niệm căn là sau khi thí chẳng cầu quả báo. Định căn
là bình đẳng thí không có phân biệt. Hụê căn là chẳng quán sát phước điền và
chẳng phước điền.
Còn nữa, tín căn là tâm sơ nhập thiện pháp. Tinh
tiến căn là hay phá kiêu mạn. Niệm căn là rời ngã ngã sở. Định căn là xa lìa
tất cả sáu mươi hai kiến. Huệ căn là xa lìa tất cả ác phiền não.
Đây gọi là Bồ Tát tịnh Ngũ căn hành.
Thế nào là Bồ Tát tịnh Ngũ lực hành?
Nầy Bửu kế! Đại Bồ Tát có đủ Ngũ căn ấy không bị
các chúng ma phá hoại thì gọi là Ngũ lực.
Tất cả Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa không bằng
được, tất cả chúng sanh chẳng thể khiến thối thất Đại thừa tâm được, tất cả
phiền não chẳng thể phá hoại được, hay khiến có tâm thiểu dục tri túc thân được
đại lực, khéo che các căn được thân kim cương, đây gọi là lực.
Nầy Bửu Kế! đại Bồ Tát lúc trụ tín lực trọn chẳng
tạo tác tất cả các ác. Lúc trụ tinh tiến lực hay tạo tất cả thiện pháp. Lúc trụ
niệm lực chẳng mất thiện pháp. Lúc trụ định lực chẳng bị ngũ dục làm hư. Lúc
trụ huệ lực xa lìa tất cả kiết phiền não.
Còn nữa, đại Bồ Tát lúc trụ tín lực chẳng theo lời
người. Lúc trụ tinh tiến lực cầu thiện pháp chẳng dứt. Trụ niệm lực được đà la
ni. Trụ định lực thuyết pháp bình đẳng. Lúc trụ huệ lực hay phá tâm nghi tất cả
chúng sanh.
Còn nữa, đại Bồ Tát lúc trụ tín lực thấy tội lỗi
xan tham. Lúc trụ tinh tiến lực xa lìa xan tham. Lúc trụ niệm lực đem thiện
pháp đã tu hồi hướng Bồ đề. Lúc trụ định lực tâm bình đẳng. Lúc trụ huệ lực
trọn chẳng cầu quả báo do bố thí, trì giới, thiền định.
Còn nữa, đại Bồ Tát lúc trụ tín lực hay lìa tất cả
trược cấu phá giới. Lúc trụ tinh tiến lực chí tâm đủ tịnh giới. Lúc trụ niệm
lực đem trì tịnh giới ấy phát nguyện hồi hướng Bồ đề. Lúc trụ định lực đủ thanh
tịnh địa. Lúc trụ huệ lực xa lìa tác giới.
Còn nữa, đại Bồ Tát lúc trụ tín lực xa lìa tâm sân
hận. Lúc trụ tinh tiến lực tu tập nhẫn nhục. Lúc trụ niệm lực đem nhẫn nhục đã
tu nguyện hồi hướng Bồ đề. Lúc trụ định lực thủ hộ các chúng sanh. Lúc trụ huệ
lực chẳng quán chúng sanh sĩ phu thọ mạng.
Còn nữa, đại Bồ Tát lúc trụ tín lực xa lìa giải đãi.
Lúc trụ tinh tiến lực các thiện pháp đã tu đều đến bờ cứu cánh. Lúc trụ niệm
lực đem tinh tiến đã tu nguyện hướng Bồ đề. Lúc trụ định lực thân tâm tịch
tĩnh. Lúc trụ huệ lực chẳng làm thiện ác.
Còn nữa, đại Bồ Tát lúc trụ tín lực xa lìa tất cả
sự vội gấp. Lúc trụ tinh tiến lực siêng cầu thiền chi. Lúc trụ niệm lực đem
định đã tu nguyện hướng Bồ đề. Lúc trụ định lực tâm thường định. Lúc trụ huệ
lực chẳng trước các định.
Còn nữa, đại Bồ Tát lúc trụ tín lực xa lìa vô minh.
Lúc trụ tinh tiến lực siêng cầu các thiện pháp. Lúc trụ niệm lực đem trí đã tu
nguyện hướng Bồ đề. Lúc trụ định lực tu thiện tư duy. Lúc trụ huệ lực như pháp
mà trụ.
Còn nữa, đại Bồ Tát lúc trụ tín lực có đủ bảy lực.
Lúc trụ tinh tiến lực được trụ thất giác chi. Lúc trụ niệm lực được bát niệm
xứ. Lúc trụ định lực được thất thức xứ. Lúc trụ huệ lực lìa bát tà chi.
Còn nữa, đại Bồ Tát tâm ở nơi Bồ đề không có thối
chuyển gọi là tín lực tịnh tín lực hành. Chẳng thủ chẳng xả gọi là tinh tiến
lực tịnh tinh tiến lực hành. Tu tứ niệm xứ gọi là niệm lực tịnh niệm lực hành.
Điều phục tâm gọi là định lực tịnh định lực hành. Xa lìa các kiến biết thiện
phương tiện gọi là hụê lực tịnh huệ lực hành.
Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh thất giác chi
hành?
Đại Bồ Tát nếu trọn chẳng mất pháp trợ Bồ đề đây
gọi là niệm giác phần. Chẳng thủ chẳng xả Xa ma tha đây gọi là trạch pháp giác
phần. Lìa tất cả ác đây gọi là tinh tiến giác phần. Lìa các sầu não đây gọi là
hỉ giác phần. Thân tâm tịch tĩnh đây gọi là trừ giác phần. Được vị giải thoát
đây gọi là định giác phần. Sở tác đã xong đây gọi là xả giác phần.
Còn nữa, chẳng bỏ Bồ đề tâm đây gọi là niệm giác
phần. Chí tâm hộ pháp đây gọi là trạch giác phần. Điều các chúng sanh chẳng
thôi nghỉ gọi là tinh tiến giác phần. Đầy đủ thiện pháp gọi là hỉ giác phần.
Lìa các phiền não gọi là trừ giác phần. Hay khiến các chúng sanh trụ trong tam
muội gọi là định giác phần. Khiến các chúng sanh đều biết pháp tướng gọi là xả
giác phần.
Còn nữa, đại Bồ Tát chẳng niệm Thanh Văn thừa, Bích
Chi Phật thừa gọi là niệm giác phần. Phân biệt tất cả pháp tự cú nghĩa gọi là
trạch giác phần. Lúc cầu thiện pháp ba nghiệp không thôi nghỉ gọi là tinh tiến
giác phần. Lìa tâm oán thân gọi là hỉ giác phần. Như pháp mà trụ gọi là trừ
giác phần. Tuỳ các thế gian mà hay điều phục gọi là định giác phần. Chẳng quán
hai pháp gọi là xả giác phần.
Nầy Bửu Kế! Trợ Bồ đề ấy giác tất cả pháp, biết tất
cả pháp, phân biệt các pháp, tính lường các pháp, biết các chúng sanh tâm tánh
tâm hành, đây gọi là Bồ đề phần cũng gọi là thánh hành.
Thánh hành như vậy chẳng phải sở hành của tất cả
phàm phu chúng ma tà kiến, chẳng phải sở hành sắc, thanh, hương, vị, xúc, chẳng
phải tất cả pháp hành tất cả tướng, tất cả thọ, các tâm ý thức kiến văn giác
tri, hữu tưởng, vô tưởng, nên gọi là thánh hành.
Thánh hành ấy chẳng phải giác chẳng phải chẳng
giác, cũng chẳng phải đại giác, mà có thể đối trị tất cả pháp, nhưng lại chẳng
tranh tụng với các pháp, đây gọi là thánh hành. Thánh hành ấy tức là tá trợ Bồ
đề.
Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh bát đạo hành?
Bát đạo là chánh kiến. Thế nào là chánh kiến?
Chánh kiến là thấy tất cả pháp thảy đều bình đẳng.
Chánh kiến như vậy chẳng gọi là không kiến, tại sao, vì tự có chánh kiến chẳng
phải là không kiến. Hai kiến như vậy cũng gọi là đồng kiến. Còn có ngã kiến,
chúng sanh kiến, không kiến, chẳng gọi là chánh kiến. Ba kiến như vậy cũng lại
đồng kiến. Lại có chúng sanh kiến, thọ mạng kiến, không kiến, chẳng gọi là
chánh kiến. Ba kiến như vậy cũng lại đồng kiến. Còn có ngã kiến, đoạn kiến,
không kiến, chẳng gọi là chánh kiến. Ba kiến như vậy cũng lại đồng kiến. Còn có
hữu kiến, vô kiến, không kiến, chẳng gọi là chánh kiến. Ba kiến như vậy cũng
lại đồng kiến.
Còn có bốn kiến: Phật kiến, Pháp kiến, Tăng kiến và
không kiến, đây gọi là chánh kiến. Bốn kiến như vậy chẳng gọi là không kiến.
Nầy Bửu Kế! Nếu có người trước các kiến như vậy thì
chẳng gọi là chánh kiến. Tại sao vậy?
Luận về chánh kiến ấy là vô phân biệt, là bình đẳng
không có hai. Sao gọi là bình đẳng kiến?
Nếu suy nghĩ rằng: Phàm phu pháp là hạ, học pháp là
thượng, như vậy gọi là chẳng phải bình đẳng kiến.
Nếu suy nghĩ rằng: Phàm phu pháp là lậu, học pháp
là vô lậu; phàm phu pháp có thực, Duyên Giác pháp không thực; phàm phu pháp cấu
uế, Bồ Tát pháp thanh tịnh; phàm phu hữu vi, Phật vô vi, các kiến như vậy chẳng
phải bình đẳng kiến.
Nếu có thể quán sát phàm phu pháp đến Phật pháp
không có sai biệt mới gọi là bình đẳng kiến.
Nếu có thể quán phàm phu pháp không đến Phật pháp
không, đây gọi là chánh kiến.
Nếu quán phàm phu pháp từ nhơn duyên sanh, Duyên
Giác pháp cũng theo nhơn duyên sanh, đây mới gọi là chánh kiến.
Nếu quán phàm phu pháp tịch tĩnh, Bồ Tát pháp tịch
tĩnh, đây gọi là chánh kiến.
Nếu quán phàm phu pháp chẳng cụ túc, nhẫn đến Phật
pháp cũng chẳng cụ túc, đây gọi là chánh kiến.
Nếu quán ngã cùng vô ngã không có sai biệt, vô sai
biệt kiến mới gọi là chánh kiến.
Nếu là kiến như vậy thì chẳng thấy pháp thượng
trung hạ, nơi tất cả pháp cũng không có giác quán, đây gọi là chánh kiến.
Chánh kiến ấy gọi là vô sở kiến. Vô sở kiến ấy tức
là chánh kiến.
Nếu là kiến như vậy, người ấy nhẫn đến chẳng thấy
một pháp, một pháp tướng mạo, một pháp quang minh.
Nầy Bửu Kế! Kiến như vậy gọi là chánh kiến của Phật
pháp vậy”.
Lúc nói pháp ấy, có năm trăm Tỳ Kheo được quả A La
Hán.
Đức Phật phán tiếp: “Nầy Bửu Kế! Thế nào là chánh
giác?
Chánh giác ấy lìa tất cả giác. Giác ấy gọi là trí
huệ phương tiện quán pháp biết pháp, đây gọi là chánh kiến.
Quán sát các pháp: gì là cấu gì là tịnh, quán như
vậy rồi đều chẳng giác tri bình đẳng cùng bất bình đẳng, rời lìa tất cả giác,
đây gọi là chánh giác.
Thế nào là chánh ngữ?
Khẩu phát ra lời chẳng tự đốt não cũng chẳng não
người, chẳng tự ô nhục cũng chẳng nhục người, chẳng tự sanh mạn chẳng sanh kiêu
mạn cho người, chẳng tự dối phỉnh chẳng dối phỉnh người, đây gọi là chánh ngữ.
Còn nữa, chánh ngữ là phàm có nói thì nói tất cả
pháp thảy đều bình đẳng, khéo có thể phân biệt tướng hữu vi, đây gọi là chánh
ngữ.
Còn nữa, nói tất cả pháp không, vô tướng, vô
nguyện, vô sanh, vô diệt, vô xuất, vô một, đây gọi là chánh ngữ.
Còn nữa, nói hữu vi là khổ vô thường vô ngã, Niết
bàn tịch tĩnh, đây gọi là chánh ngữ.
Còn nữa, nếu nói tất cả chúng sanh đều không có thọ
mạng sĩ phu, tất cả các pháp theo nhơn duyên sanh theo nhơn duyên diệt, dường
như hột trái, đây gọi là chánh ngữ.
Tịnh chánh ngữ ấy tức là Phật ngữ. Đây gọi là tịnh
chánh ngữ hành.
Thế nào là chánh nghiệp?
Nếu nghiệp dầu có thể hoại tất cả nghiệp cũng chẳng
gọi là chánh nghiệp.
Nếu nghiệp có thể làm nhơn tịch tĩnh bất tăng bất
giảm, có thể hoại phiền não chẳng cho tăng trưởng, đây gọi là chánh nghiệp.
Dầu biết nghiệp như vậy mà vẫn làm thiện nghiệp,
cũng quán các nghiệp thảy đều không tịch không có chắc thiệt là khổ không lạc,
đây gọi là chánh nghiệp.
Thế nào là chánh mạng?
Nếu mạng chẳng phòng ngại tự thân tha thân, chẳng
tăng tất cả các ác phiền não, chẳng phải ác nghiệp để sống, đây gọi là chánh
mạng.
Đại Bồ Tát nơi các chúng sanh tịnh nơi chánh mạng,
đem chánh mạng ấy nguyện hướng Bồ đề, đây gọi là chánh mạng.
Chánh mạng như vậy hay tự lợi lợi tha.
Thế nào là chánh tinh tiến?
Siêng làm phương tiện cầu các thiện pháp, dục tâm
chẳng dứt không có nhàm hối, đây gọi là chánh tinh tiến.
Suy cầu tánh bình đẳng của các pháp, cũng chẳng
quán các pháp bình đẳng cùng bất bình đẳng, chẳng làm chẳng phải chẳng làm,
biết rõ nơi như, pháp tánh và thiệt tánh, đây gọi là chánh tinh tiến.
Tuyên nói các pháp khiến các chúng sanh lìa tà tinh
tiến, cũng biết hạnh được tu hành của chúng sanh, đây gọi là chánh tinh tiến.
Thế nào là chánh niệm?
Nếu niệm thí giới nhẫn tinh tiến thiền định trí huệ
tứ vô lượng tâm, đây gọi là chánh niệm.
Còn có chánh niệm nhiếp thủ phiền não chẳng cho
vọng khởi, chẳng gần tất cả ác ma nghiệp, chẳng đoạ ác đạo chẳng khởi ác tâm,
thường tu tất cả pháp chánh thiện, xa lìa tất cả pháp tà ác, đây gọi là chánh
niệm.
Bồ Tát trụ trong chánh niệm ấy được chánh tụ Sa Môn
chánh quả. Đây gọi là chánh niệm.
Thế nào là chánh định?
Tu hành thánh hạnh, biết khổ lìa tập chứng diệt
hành đạo, đây gọi là chánh định.
Còn có chánh định quán tất cả pháp thảy đều bình
đẳng, nếu quán ngã tịnh thì tất cả cũng tịnh, nếu quán ngã không thì tất cả
cũng không, dầu quán như vậy mà chẳng nhập chánh vị, đây gọi là Bồ Tát chánh
định vậy.
Đại Bồ Tát trụ trong định ấy, khoảng một niệm được
Nhứt thiết trí, đây gọi là chánh định”.
Lúc nói pháp ấy, có một vạn hai ngàn Thiên và Nhơn
phát tâm Vô thượng Bồ đề.
“Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh thần thông
hạnh?
Thiên nhãn năm thứ đều hay nhìn thấy thập phương
thế giới, thấy thập phương thế giới chư Phật, thấy các chúng sanh xuất sanh
thối một, thấy tất cả mười phương không có chướng ngại hơn cả Thanh Văn, Duyên
Giác và hàng Thiên Nhơn. Bồ Tát có đủ năm sự như vậy thì có thể tỏ rõ thấy tất cả
pháp. Đây gọi là Bồ Tát tịnh thiên nhãn hành.
Đại Bồ Tát được thiên nhĩ thông nghe năm thứ tiếng:
Tiếng loài người, tiếng hàng phi nhơn, tiếng địa ngục, tiếng thuyết pháp của
thập phương chư Phật, tiếng ngữ ngôn của tất cả chúng sanh. Đây gọi là Bồ Tát
tịnh thiên nhĩ hành.
Thế nào là Bồ Tát tịnh tha tâm trí hành?
Tri tha tâm trí cũng có năm thứ: đều biết tất cả
tâm của tất cả Nhơn Thiên, biết rõ tâm của tất cả chúng sanh, địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh, biết tâm quá khứ, biết tâm vị lai, biết tâm hiện tại. Đây gọi là
Bồ Tát tịnh tha tâm trí hành.
Còn có tha tâm trí biết chúng sanh ấy là chánh định
tụ, là tà định tụ, là bất định tụ, biết chúng sanh ấy có tham, có sân hay có
si, đã biết rõ rồi tuỳ chỗ nên đáng mà thuyết pháp, chúng sanh nghe pháp rồi
được hoại phiền não. Đây gọi là Bồ Tát tịnh tha tâm trí hành.
Thế nào là Bồ Tát tịnh túc mạng trí hành?
Bồ Tát biết rõ thân ấy từ tham sân si nhơn duyên mà
sanh, biết rõ thân ấy từ thí giới nhẫn tiến định huệ từ bi hỉ xả nhơn duyên mà
sanh, biết rõ thân ấy cụ túc chẳng cụ túc, biết rõ thân ấy từ vô minh ái và bốn
điên đảo sanh, biết rõ thân ấy do thí nhơn duyên nên có đủ tài vật và các quyến
thuộc. Các trí như vậy gọi là Bồ Tát tịnh túc mạng trí hành.
Thế nào là Bồ Tát tịnh thần túc hành?
Thần túc hành ấy cũng có năm thứ:
Một là hiển thị hình sắc. Hai là hiểu các thứ ngôn
ngữ của chúng sanh mà vì họ thuyết pháp. Ba là khéo biết rõ tâm ý thức v.v… Bốn
là hay biết rõ tất cả pháp. Năm là hay diễn nói tất cả pháp. Đây gọi là Bồ Tát
tịnh thần túc hành.
Nầy Bửu Kế! Ngũ thần thông như vậy để vì lậu tận,
Bồ Tát tu tập ngũ thông mà chẳng tận lậu vì muốn biết rõ tất cả pháp. Tại sao,
vì để điều phục chúng sanh vậy.
Nầy Bửu Kế! Ví như một thành ngang rộng một do tuần
có nhiều cửa ngõ đường hiểm trở tối đen nên rất kinh sợ, người nào vào thành
được thì hưởng nhiều an lạc. Có một người có một con trai rất quý trọng mến
yêu. Người ấy nghe thành kia nhiều an lạc như vậy liên bỏ con trai lại để đi
đến thành. Người ấy phương tiện qua được đường hiểm ác đến cửa thành, một chưn
vào thành chưa cất chưn kia liền nhớ con trai mình tự nghĩ rằng: Ta chỉ có một
đứa con, lúc đến thành sao chẳng cùng chung vào. Ai có thể nuôi giữ nó cho nó
khỏi khổ. Nghĩ vậy rồi người ấy bỏ thành trở lại chỗ đứa con để dắt nó đi.
Cũng như vậy, đại Bồ Tát thương xót chúng sanh như
con một, tu tập ngũ thần thông. Đã tu tập rồi sắp được tận lậu mà chẳng thủ
chứng. Tại sao, vì thương chúng sanh nên bỏ lậu tận thông nhẫn đến đi trong
phàm phu địa.
Nầy Bửu Kế! Thành kia là dụ Đại bát Niết bàn. Có
nhiều cửa là dụ tám vạn các môn tam muội. Đường hiểm ác là dụ các ma nghiệp.
Đến cửa thành là dụ năm thần thông. Một chưn bước vào là dụ trí huệ. Một chưn
chưa bước vào là dụ Bồ Tát chưa chứng giải thoát. Nói một con trai là dụ tất cả
chúng sanh ngũ đạo. Nhớ lại con trai là dụ tâm đại bi. Trở lại chỗ con trai là
du điều chúng sanh. Có thể được giải thoát mà chẳng chứng tức là phương tiện
vậy.
Nầy Bửu Kế! Đại Bồ Tát đại từ đại bi bất khả tư
nghị”.
Bửu Kế Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Như lời Phật
nói đại từ đại bi bất khả tư nghị. Như thánh giáo thì chẳng những từ bi bất khả
tư nghị, mà phương tiện và lực cũng bất khả tư nghị. Đại Bồ Tát tỏ rõ tự biết
sẽ được Vô thượng Bồ đề mà chẳng chứng đó. Vì chúng sanh nên đại Bồ Tát hành
nơi sanh tử chẳng bị sanh tử nhiễm ô.
Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát có đủ pháp gì mà ở
trong sanh tử tâm chẳng nhàm hối?”.
Đức Phật nói: “Nầy Bửu Kế! Đại Bồ Tát có hai mười
mốt pháp ở trong sanh tử tâm chẳng hối.
Một là thiện pháp được tu cùng chung với từ hành.
Hai là tâm từ được tu cùng chung với đại bi hành. Ba là đại bi được tu cùng
chung với điều chúng sanh hành. Bốn là điều phục chúng sanh cùng chung với tinh
tiến hành. Năm là tinh tiến được tu cùng chung với thiện tâm chung hành. Sáu là
thiện tâm được tu cùng chung với phương tiện chung hành. Bảy là phương tiện được
tu cùng với hụê chung hành. Tám là huệ được tu tập cùng với thiền định chung
hành. Chín là thiền định được tu tập cùng với thần thông chung hành. Mười là
thần thông được tu cùng với trí chung hành. Mười một là trí được tu tập cùng
với dục chung hành. Mười hai là dục được tu cùng với niệm chung hành. Mười ba
là niệm được tu tập cùng với Bồ đề tâm chung hành. Mười bốn là tâm Bồ đề được
tu tập cùng với tứ nhiếp pháp chung hành. Mười lăm là tứ nhiếp được tu tập cùng
với cấm giới chung hành. Mười sáu là cấm giới được tu tập cùng với đa văn chung
hành. Mười bảy là đa văn được tu tập cùng với như pháp trụ chung hành. Mười tám
là như pháp trụ được tu cùng với đà la ni chung hành. Mười chín là đà la ni
được tu tập cùng với vô ngại trí chung hành. Hai mươi là vô ngại trí được tu
cùng vơi trang nghiêm công đức chung hành. Hai mười mốt là công đức được tu tập
cùng với trí huệ trang nghiêm chung hành.
Đây gọi là Bồ Tát hai mười mốt pháp ở tại sanh tử
tâm chẳng nhàm hối”.
Bửu Kế Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ
Tát trang nghiêm tự thân cũng khiến chúng sanh được đại lợi ích?”.
Đức Phật nói: “Nầy Bửu Kế! Đại Bồ Tát nếu có đủ đa
văn thì gọi là tự trang nghiêm, vì chúng sanh diễn nói thì gọi là đại lợi ích.
Còn nữa, đại Bồ Tát được đại tổng trì gọi là tự
trang nghiêm, vì chúng sanh diễn nói gọi là đại lợi ích.
Còn nữa, đại Bồ Tát không có phóng dật gọi là tự
trang nghiêm, điều phục chúng sanh gọi là đại lợi ích.
Còn nữa, đại Bồ Tát có ba mươi hai tướng là tự
trang nghiêm, có đại trí huệ gọi là đại lợi ích.
Còn nữa, đại Bồ Tát nhu nhuyến ngữ là tự trang
nghiêm, nói rồi như lời nói mà làm gọi là đại lợi ích.
Còn nữa, đại Bồ Tát hay tất cả bố thí là tự trang
nghiêm, chẳng cầu quả báo gọi là đại lợi ích.
Đây gọi là đại Bồ Tát trang nghiêm tự thân cũng làm
cho chúng sanh được đại lợi ích.
Nầy Bửu Kế! Thưở quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp,
kiếp ấy tên là Lạc Hỷ, trong kiếp ấy có Phật hiệu Nhứt Thiết Chúng Sanh Lạc
Niệm Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Thế giới của
Phật Nhứt Thiết Chúng Sanh Lạc Niệm ấy tên là Thiên Quán.
Nầy Bửu Kế! Tại sao kiếp ấy tên là Lạc Hỷ?
Trong đại kiếp ấy có sáu vạn chư Phật xuất thế. Lúc
kiếp sơ ấy, Trời Thủ Đà Bà Thiên xướng rằng: Kiếp này sẽ có sáu vạn đức Phật
Như Lai xuất thế.
Chúng sanh nghe rồi thảy đều lạc hỷ, nên kiếp ấy có
tên là Lạc Hỷ.
Nầy Bửu Kế! Thế giới Thiên Quán ấy trang nghiêm vi
diệu không có hạn lượng, khoái lạc diệu hảo như cung trời không khác, vì vậy mà
thế giới ấy tên là Thiên Quán.
Cõi ấy tất cả đều là chiên đàn làm đất không có đất
cát bụi bặm. Hơi thơm cõi ấy xông khăp vô lượng thế giới chư Phật. Khắp mọi nơi
trong cõi ấy sản xuất liên hoa, mỗi hoa có đại quang minh chiếu khắp cõi ấy.
Chúng sanh cõi ấy đều có thần thông chưn không đạp đất, không có thai sanh, tất
cả đều hoá sanh, không có sanh tử nữ nhơn, cũng không có danh từ ba ác đạo. Tất
cả chúng sanh đều dùng thiền hỷ làm thực. Cõi ấy không có danh từ Nhị thừa. Tất
cả chúng sanh cõi ấy đều dùng chơn kim anh lạc thiên quan châu báu trang nghiêm
thân mình. Dầu không cạo râu tóc mặc y ca sa mà cũng được gọi là người xuất
gia. Tại sao, Vì đối với tất cả vật, chúng sanh cõi ấy xả bỏ mà chẳng tham vậy.
Phật Như Lai cõi ấy, hình sắc như Phạm Thiên. Phật
ấy hiện thân Phạm Thiên vì chư Bồ Tát nói pháp yếu.
Nếu các thế giới khác chư Bồ Tát thấy Phật ấy rồi
liền thọ đại hoan hỷ.
Nầy Bửu Kế! Đức Phật ấy lúc muốn tuyên nói chánh
pháp giáo hoá thì thăng đại pháp toà ở phía trên đại chúng cao bằng bảy cây đa
la, thường lược thuyết pháp.
Tại sao lược nói? Vì tất cả chúng sanh cõi ấy căn
tánh mãnh lợi vậy. Phật ấy nói pháp chỉ một câu mà các chúng sanh hiểu trăm
ngàn câu.
Đức Phật ấy thường nói bốn tịnh pháp. Đó là Ba la
mật tịnh, trợ Bồ đề tịnh, thần thông tịnh và điều chúng sanh tịnh.
Lúc ấy có Bồ Tát tên là Bửu Tụ bạch rằng: “Bạch đức
Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm tự thân cũng làm cho chúng sanh được
đại lợi ích?”.
Đức Nhứt Thiết Chúng Sanh Lạc Niệm Như Lai ấy dạy
rằng: “Nầy Bửu Tụ! Nếu Bồ Tát có đủ vô ngại trí thì gọi là trang nghiêm, hay
làm trí minh thì gọi là đại lợi ích.
Lúc Phật ấy nói như vậy rồi có sáu ngàn Bồ Tát được
Vô sanh nhẫn”..
Bửu Tụ Bồ Tát lại bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thế
nào là Bồ Tát trang nghiêm Bồ đề thọ?”.
Đức Phật ấy nói: “Nầy Bửu Tụ! Nếu Bồ Tát có thể tu
bất phóng dật, đây gọi là trang nghiêm Bồ đề thọ.
Bất phóng dật ấy là như pháp trụ. Như pháp trụ là
như thuyết mà trụ.
Còn nữa, bất phóng dật ấy gọi là vô lượng trang
nghiêm, vô lượng bố thí, vô lượng trì giới, vô lượng nhẫn nhục, vô lượng tinh
tiến, vô lượng thiền định, vô lượng trí huệ, vô lượng Phật pháp, vô lượng điều
phục, vô lượng công đức trí huệ trang nghiêm, cúng dường vô lượng chư Phật Thế
Tôn vì đủ trí huệ vậy, vô lượng đa văn vì tăng trí huệ vậy, vô lượng xa ma tha
tỳ bà xá na. Thành tựu các pháp như vậy gọi là trang nghiêm Bồ đề thọ, cũng hay
mau được Vô thượng Bồ đề.
Nầy Bửu Tụ! Tất cả pháp tá trợ Bồ đề do bất phóng
dật mà làm căn bổn, đủ đại trang nghiêm tất cả trí huệ, chẳng mất tất cả thiện
pháp, xa lìa tất cả phiền não, nhiếp thủ tất cả các pháp, nơi tất cả pháp không
có chướng ngại, điều phục các căn, thủ hộ các thiện pháp không cho thối thất,
biết thời phi thời, đầy đủ thập lực tứ vô uý Phật bất cộng pháp đảnh pháp. Đây
gọi là bất phóng dật”.
Lúc Phật ấy nói pháp rồi, có vạn hai ngàn Bồ Tát
được Vô sanh nhẫn.
Bửu Tụ Bồ Tát thưở xa xưa ấy, nay chính là thân
ông, Bồ Tát Bửu Kế vậy.
Nầy Bửu Kế! Nay ông nên biết đủ bất phóng dật đại
Bồ Tát liền có thể trang nghiêm Bồ đề thọ.
Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh điều phục?
Chúng sanh hành vô lượng vô biên bất khả tư nghị,
điều phục cũng vô lượng vô biên bất khả tư nghị, Bồ Tát hành cũng vô lượng vô
biên bất khả tư nghị. Đại Bồ Tát nhứt tâm chí tâm điều phục chúng sanh.
Nầy Bửu Kế! Có các chúng sanh nghe nói huệ thí thì
có thể điều phục. Hoặc có chúng sanh nghe nói trì giới mà được điều phục. Hoặc
có chúng sanh nghe nói thí và giới mà được điều phục. Hoặc có chúng sanh do
nhuyến ngữ mà được điều phục. Hoặc có chúng sanh do sân ngữ mà được điều phục.
Hoặc có chúng sanh đủ hai thứ ngữ mà được điều phục. Hoặc có chúng sanh nghe
nói thân nghiệp mà được điều phục. Hoặc có chúng sanh nghe nói xả thân mà được
điều phục. Hoặc có chúng sanh dùng thắng mà điều phục. Hoặc có chúng sanh dùng
cương điều phục. Hoặc có chúng sanh nghe lời quở trách được điều phục. Hoặc có
chúng sanh lúc bố thí điều phục. Hoặc có chúng sanh lúc bị cướp điều phục. Hoặc
có chúng sanh thấy diệu sắc được điều phục. Thanh, hương, vị, xúc cũng như vậy.
Hoặc có chúng sanh thường gần gũi điều phục. Hoặc có chúng sanh ở xa thì được
điều phục. Hoặc có chúng sanh thấy Phật được điều phục. Hoặc có chúng sanh nghe
pháp được điều phục. Hoặc có chúng sanh nghe pháp vô thường mà được điều phục.
Khổ, không, vô ngã cũng như vậy. Hoặc có chúng sanh nghe tiếng bố thí được điều
phục. Tiếng giới, tiếng nhẫn, tiếng cần, tiếng định, tiếng huệ cũng như vậy.
Hoặc có chúng sanh nghe nói tất cả hữu vi vô thường mà được điều phục. Hoặc có chúng
sanh nghe tán thán Nhơn Thiên mà được điều phục. Hoặc có chúng sanh nghe Thanh
Văn thừa mà được điều phục. Hoặc có chúng sanh nghe Bích Chi Phật thừa mà được
điều phục. Hoặc có chúng sanh nghe Phật thừa mà được điều phục. Hoặc dùng Tứ
nhiếp mà được điều phục. Hoặc dùng tam, nhị hoặc dùng một nhiếp mà được điều
phục. Hoặc chẳng dùng Tứ nhiếp mà được điều phục. Hoặc do nội thí, hoặc do
ngoại thí, hoặc do nội ngoại thí mà được điều phục. Hoặc có chúng sanh nghe nói
sự khổ địa ngục, hoặc khổ ngạ quỷ, súc sanh hoặc sự khổ loài người, loài trời
mà được điều phục. Hoặc nghe thuần lạc, hoặc nghe thuần khổ mà được điều phục.
Hoặc nghe cả khổ lạc mà được điều phục. Hoặc thấy hình tượng Tỳ Kheo, hoặc Tỳ
Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di hình tượng mà được điều phục. Hoặc do làm các thứ
kỹ nhạc mà được điều phục.
Nầy Bửu Kế! Bồ Tát có thể biết những pháp điều phục
chúng sanh hành như vậy. Đây gọi là Bồ Tát có thể hành lục Ba la mật, đầy đủ
pháp tá trợ Bồ đề, đầy đủ thần thông điều phục chúng sanh.
Nầy Bửu Kế! Nếu Bồ Tát có đủ bốn pháp thì hay điều
phục chúng sanh. Đó là tâm chẳng nhàm hối, chẳng tham những sự vui, biết thời
phi thời và biết rõ các tâm.
Còn có bốn pháp là chánh ngữ, ái ngữ, tịnh ngữ và
như pháp ngữ.
Còn có bốn pháp là với các chúng sanh tâm không
chướng ngại, tâm bi, tâm lợi ích và từ điều các căn.
Còn có bốn pháp là thanh tịnh tự tâm, thương mến
tâm người, siêng làm tinh tiến và xa lìa thọ lạc.
Vì vậy nên đại Bồ Tát điều phục hành vô lượng vô
biên bất khả tư nghị.
Nầy Bửu Kế! Thưở quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp,
có kiếp tên là Ái, Phật hiệu Quảng Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến
Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Thế giới Phật ấy tên là Tịch Tĩnh.
Đức Phật ấy có đại chúng Thanh Văn chín vạn sáu
ngàn ức người. Tám vạn bốn ngàn chư Bồ Tát đại chúng.
Nhơn dân cõi ấy thọ mười bảy vạn hai ngàn tuổi.
Lúc ấy có một đại Vương Tử tên là Tài Công Đức,
dòng Bà La Môn, diện mạo đoan chánh mọi người thích thấy. Năm mười sáu tuổi,
Vương Tử ấy tự thị đoan chánh nên sanh kiêu mạn ban sơ chẳng chịu hướng Phật
cung kính lễ bái.
Đức Quảng Quang Minh Như Lai nghĩ rằng: Vương Tử ấy
nay sắp thối Vô thượng Bồ đề, thiện căn chẳng thành thục. Nếu có được thiện hữu
thì Vương Tử ấy đến chỗ Phật nghe pháp thọ trì.
Đức Như Lai ấy liền ở trong đại chúng tám vạn bốn
ngàn Bồ Tát hành trù mà bảo rằng:
Trong đại chúng Bồ Tát có ai hay điều phục con trai
Bà La Môn ấy, ai có thể trong tám vạn bốn ngàn năm thường qua lài nhà Vương Tử
ấy, hoặc bị các sự khổ như mắng đánh mà chẳng hối. Trong số tám vạn bốn ngàn Bồ
Tát ấy không có một người nào lấy thẻ. Đức Phật ấy xướng lần thứ hai, xướng lần
thứ ba cũng như vậy.
Khi lời Phật xướng gọi lần thứ ba xong, có một Bồ
Tát hiệu là Tịnh Tinh Tiến từ chỗ ngồi dậy trịch y vai hữu chấm đất chắp tay
bạch rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi có thể đến nhà Vương Tử
ấy cam tâm chịu khổ”.
Lúc nói lời ấy, cả tam thiên Đại Thiên thế giới đại
chấn động. Tất cả nhơn thiên đồng thanh xướng rằng:
“Lành thay lành thay, thưa Đại Sĩ!”.
Lúc ấy Bồ Tát Tịnh Tinh Tiến liền qua đứng nơi cổng
nhà Vương Tử Tài Công Đức.
Vương Tử thấy, dùng lời ác mắng nhiếc, dùng đất ném
lấm mặt, dùng dao gậy ngói đá chém đập thân thể, mà Bồ Tát không giận cũng
không bỏ đi tâm chẳng mỏi nhàm. Trải qua một ngàn năm bị khổ như vậy. Quá hai
vạn năm mới được đến cổng thứ hai, quá tám vạn bốn ngàn năm còn thiếu bảy ngày mới
đến đứng được dưới cổng thứ bảy.
Lúc bấy giờ Vương Tử Tài Công Đức thấy Bồ Tát mới
hỏi rằng:
“Nầy Đạo Sĩ! Nay ông đến đây cầu sự gì?”.
Nói xong, Vương Tử đối với Bồ Tát liền sanh tâm bất
tư nghị: Tại sao người nầy trải qua bao thời gian chịu nhiều sự khổ mà lòng
không mỏi nhàm.
Vương Tử lần thứ hai thứ ba cũng hỏi rằng:
“Nầy Đạo Sĩ! Nay ông đến đây cầu sự gì?”.
Tịnh Tinh Tiến Bồ Tát biết Vương Tử tâm đã điều
phục liền nói kệ rằng:
Tất cả tài vật của thế gian
Vàng bạc lưu ly và pha lê
Và bốn cúng dường ta chẳng cần
Chỉ vì pháp mà ta đến đây
Đời này có Phật Quảng Quang Minh
Vì chúng sanh nói pháp vô thượng
Chúng sanh nghe rồi lìa phiền não
Cũng thọ vô lượng cam lộ vị
Chư Phật xuất hiện nơi thế gian
Còn khó hơn hoa linh thoại kia
Nay thế gian xuất hiện Như Lai
Ngài còn phóng dật chìm biển dục
Các chúng sanh thường đi trong tối
Đấng Vô thượng Giác ban đuốc huệ
Tự thị tài sắc sanh kiêu mạn
Mà chẳng chịu đến chỗ Thế Tôn
Tất cả tài bửu và mạng sống
Phật nói hai thứ đều vô thường
Chúng sanh nếu nghe cam lộ nầy
Chẳng đến chỗ Phật là phóng dật
Thưở xa xưa Ngài hành Bồ đề
Mời chúng sanh hứa ban pháp vị
Nay Ngài còn thuộc các phiền não
Điều phục sao được các phóng dật
Nay ta cầu Ngài đồng đến Phật
Phá hoại kiêu mạn lìa phiền não
Siêng tu tinh tiến xả quốc sự
Khiến Ngài lúc chết lòng chẳng hối.
Vương Tử nghe lời kệ rồi xa lìa lòng kiêu mạn, liền
sanh tín tâm tán thán Tịnh Tinh Tiến Bồ Tát và sám hối sự làm khổ hại cho Bồ
Tát từ trước rồi thưa rằng:
“Thưa Đại Sĩ! Nay tôi bỏ lìa quốc sự và ngũ dục lạc
thượng diệu, phá hoại kiêu mạn đến chỗ đức Phật để nghe pháp cam lộ điều phục
chúng sanh”.
Vương Tử Tài Công Đức cùng tám vạn bốn ngàn quyến
thuộc mang hương hoa vi diệu theo Bồ Tát Tịnh Tinh Tiến đến chỗ Phật.
Đến rồi dâng hương hoa cúng dường phá kiêu mạn chí
tâm nghe pháp.
Vương Tử lòng hoan hỷ kính lễ chưn phật quỳ dài
chắp tay hướng lên Phật bạch rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi quy y Tịnh Tinh Tiến Bồ
Tát là người chịu khổ nhục hàng vạn năm lòng chẳng sân hận chẳng nhàm hối để
điều phục tôi. Dầu tôi có cúng dường bao nhiêu cũng không báo đáp được ơn nặng
ấy. Nay tôi ở trước Phật chí tâm sám hối.
Tôi trước tu hành Bồ đề đạo, dùng tâm từ bi điều
phục chúng sanh, tôi chẳng còn sanh lòng phóng dật nữa nhẫn đến được đạo Bồ
đề”.
Vương Tử Tài Công Đức liền bỏ vương vị, ở trong
Phật pháp xuất gia nghe học chánh pháp như pháp mà trụ được vô sanh nhẫn.
Nầy Bửu Kế ! Ông có biết thưở ấy Tịnh Tinh Tiến là
ai chăng? Nay chính là thân ta, Thích Ca Mâu Ni Phật. Còn Vương Tử Tài Công Đức
ấy, nay là Di Lặc Bồ Tát vậy.
Nầy Bửu Kế! Vì vậy nên đại Bồ Tát điều chúng sanh
vô lượng vô biên bất khả tư nghị. Nếu Bồ Tát có thể điều phục chúng sanh, đây
chơn thiệt là nghiệp hành được tu của Bồ Tát.
Nầy Bửu Kế ! Bồ Tát có bốn thứ nghiệp:
Một là Bồ Tát nghiệp tịnh Phật quốc độ. Hai là Bồ
Tát tịnh nghiệp thân. Ba là Bồ Tát nghiệp tịnh khẩu. Bốn là Bồ Tát nghiệp cầu
tất cả Phật pháp.
Còn có bốn nghiệp. đó là tri tâm, tri căn, tri bịnh
và tri trị”.
Bửu Kế Bồ Tát nghe pháp ấy rồi, liền lấy châu chơn
bửu trên búi tóc mình, châu ấy giá trị vô lượng, nó từ vô lượng Bồ Tát nghiệp
xuất sanh, dâng lên cúng dường Như Lai và phát thệ nguyện rằng: “Nay tôi đem
đảnh châu này cúng Phật, nguyện công đức cúng đảnh châu nầy làm nhơn đầu cho
chúng sanh, do nhơn duyên nầy được vô thượng trí”.
Đức Thế Tôn liền mỉm cười, từ miệng Phật phóng ra
đại quang minh nhiều màu sắc làm luốt mất tất cả ánh sáng khác.
Tật Biện Bồ Tát liền đứng dậy chắp tay bạch Phật:
“Bạch đức Thế Tôn! Nhơn duyên gì mà Thế Tôn mỉm cười?”.
Đức Phật nói: “Nầy Tật Biện! Ông có thấy Bửu Kế
dâng ta đảnh châu đó chăng?”.
Tật Biện Bồ Tát nói: “Có thấy, bạch đức Thế Tôn!”.
Đức Phật nói: “Nầy Tật Biện! Bửu Kế Bồ Tát đã ở chỗ
vô lượng vô biên chư Phật phát tâm Vô thượng Bồ đề, trì giới tinh tiến cầu Bồ
đề đạo, cúng dường vô lượng hằng hà sa số chư Phật Thế Tôn, cũng đã điều phục
vô lượng hằng hà sa số chúng sanh.
Bửu Kế Bồ Tát ở đời vị lai quá mười a tăng kỳ kiếp
sẽ được Vô thượng Bồ đề hiệu là Bửu Xuất Như Lai, thế giới tên là Tịnh Quang,
kiếp ấy tên là Vô Cấu. Thế giới của Phật Bửu Xuất ấy thất bửu làm nên, quang
minh chiếu khắp mười phương thế giới, tất cả nhơn dân không có đói khát, đều là
thanh tịnh Bồ Tát, tai họ không hề nghe danh từ Nhị thừa, thường nghe pháp
thuần nhứt Đại thừa, vì vậy mà Phật ấy có hiệu là Bửu Xuất. Tất cả Bồ Tát cõi Tịnh
Quang ấy có đủ thần thông. Thế giới ấy không có vua chúa, chỉ có Phật Pháp
Vương. Tất cả chúng sanh đều hoá sanh, cũng không có danh từ nam nữ và ba ác
đạo. Không có chúng sanh nào mà thân thể chẳng đầy đủ các căn, cũng không có
chúng sanh biên địa, thọ mạng của họ là bốn vạn trung kiếp. Đức Phật Bửu Xuất
ấy không diễn nói sự gì khác ngoại trừ lục Ba la mật. Chư Bồ Tát cõi Tịnh Quang
ấy có đủ từ bi lợi căn trí huệ, nghe Phật nói một câu liền tỏ hiểu ngàn câu.
Đức Phật Bửu Xuất ấy thường vì tất cả Bồ Tát nói đà
la ni Kim cương cú. Sao gọi là đà la ni Kim cương cú?
Đà la ni Kim cương cú ấy tức là nhứt cú. Một cú như
vậy liền nhiếp hết tất cả pháp cú, vô tận pháp cú. Sao gọi là vô tận pháp cú?
Vì tất cả chư Phật đều chẳng thể tận được, nên gọi là vô tận pháp cú.
Hành vô tận pháp cú thì nhiếp tất cả tự. Tất cả tự
ấy nhiếp hết tất cả pháp cú. Nhứt thời chẳng được nói nhị tự nhứt tự, cũng lại
chẳng hiệp nhị tự, vì vậy nên gọi là nhứt cú, gọi là tác cú, gọi là tự cú. Nếu
chẳng phân biệt tự cú pháp cú tác cú thì gọi là đà la ni Kim cương cú.
Nầy Tật Biện! Đà la ni Kim cương cú như vậy, Phật
Bửu Xuất ấy thường vì chư Bồ Tát diễn nói.
Nầy Tật Biện! Hoặc một kiếp hoặc giảm một kiếp ta
nói công đức của Phật Bửu Xuất ấy cũng chẳng thể hết được”.
Bửu Kế Bồ Tát nghe đức Phật thọ ký cho mình rồi tâm
đại hoan hỷ nói kệ tán thán:
Tất cả tri kiến tất cả sự
Được đến bờ kia tất cả pháp
Xa lìa tất cả các phiền não
Vì vậy gọi Phật đấng Vô thượng
Tôi đã cúng dường vô lượng Phật
Như Lai đều biết rõ tất cả
Như Lai chứng được vô thượng trí
Nên biết tam thế không chướng ngại
Như Lai nay thọ ký cho tôi
Khiến tôi xa lìa lòng nghi ngại
Tôi cũng sẽ được chơn thiệt đạo
Như nay Thích Ca Mâu Ni Phật
Tất cả đại địa đều khiến tan
Hư không nhựt nguyệt khiến rớt đất
Lời nói của Phật không có hai
Nên tôi quyết định được Bồ đề
Chánh ngữ thiệt ngữ vi diệu ngữ
Thọ ký tôi Vô thượng Bồ đề
Nếu tôi chơn thiệt được Bồ đề
Sẽ khéo điều phục vô lượng chúng
Cõi nước tịnh diệu tôi sẽ được
Và cùng đại chúng Phật đã ghi
Nay tôi nghe pháp vô thượng nầy
Phá nghi thẳng đến Bồ đề đạo
Nay tôi tinh tiến tu Bồ đề
Điều phục chúng sanh lòng chẳng hối
Nay phật nói tín lực của tôi
Vô thượng trí huệ và Phật lực.
Lúc Phật thọ ký, có vạn hai ngàn chúng sanh phát
tâm Vô thượng Bồ đề đều nói rằng: “Nguyện tôi đều sẽ được sanh thế giới ấy”.
Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A Nan rằng: “Nầy A Nan! Ông
nên thọ trì chánh pháp như vậy, đọc tụng rộng nói để đại lợi ích cho chư Thiên
thế nhơn.
Nầy A Nan! Nếu có chúng sanh tín thọ kinh nầy,
người ấy quyết định sẽ được ta thọ ký.
Nầy A Nan! Nếu đem thất bửu đầy trong tam thiên Đại
Thiên thế giới cấp thí chúng sanh mãn một ngàn năm chẳng bằng người thọ trì đọc
tụng thơ tả kinh điển nầy”.
Tôn giả A Nan bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn!
Kinh nầy tên là gì và phụng trì như thế nào?”.
Đức Phật nói: “Nầy A Nan! Kinh nầy tên là Phương
Đẳng Đại Tập Đại Đà La Ni Đại Thiện Hành Bồ Tát Nhập Xứ”.
Nghe Phật nói kinh nầy rồi, Tôn giả A Nan và chư
Thiên hàng thế nhơn đều rất hoan hỷ tín thọ phụng hành.
PHÁP HỘI HƯ KHÔNG MỤC
THỨ NĂM MƯƠI CHÍN
HẾT.
Vi tính: THÍCH ĐỨC TUẤN.