Mục Lục

03 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9915)

ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM
KINH TĂNG NHẤT A HÀM
Việt dịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997

MỤC LỤC
Tập 1
Từ Phẩm 01 Đến Phẩm 10
01 Phẩm tựa
02 Phẩm Thập Niệm
03 Phẩm Quảng diễn
04 Phẩm Đệ tử
05 Phẩm Tỳ-kheo-ni
06 Phẩm Thanh tín sĩ (Ưu-bà-tắc)
07 Phẩm Thanh tín nữ (Ưu-bà-di)
08 Phẩm Atula
09 Phẩm Một đứa con
10 Phẩm Hộ tâm 
Từ Phẩm 11 Đến Phẩm 16
11 Phẩm Bất Đãi
12 Phẩm Nhập đạo
13 Phẩm Lợi dưỡng
14 Phẩm Ngũ giới
15 Phẩm Hữu vô
16 Phẩm Hỏa diệt 
Từ Phẩm 17 Đến Phẩm 19
17-1 Phẩm An-ban (1)
17-2 Phẩm An-ban (2)
18 Phẩm Tàm quý
19 Phẩm Khuyến thỉnh 
Từ Phẩm 20 Đến Phẩm 22
20 Phẩm Thiện tri thức
21 Phẩm Tam Bảo
22 Phẩm Cúng dường 
Từ Phẩm 23 Đến Phẩm 24
23 Phẩm Địa chủ
24-1 Phẩm Cao tràng (1)
24-2 Phẩm Cao tràng (2)
24-3 Phẩm Cao tràng (3)
Từ Phẩm 25 Đến Phẩm 26
25 Phẩm Tứ đế
26-1 Phẩm Tứ ý đoạn (1)
26-2 Phẩm Tứ ý đoạn (2)
Tập 2
Từ Phẩm 27 Đến Phẩm 29
27 Phẩm Đẳng thú Tứ đế
28 Phẩm Thanh văn
29 Phẩm Khổ lạc 
Từ Phẩm 30 Đến Phẩm 31
30 Phẩm Tu Đà
31 Phẩm Tăng thượng 
Từ Phẩm 32 Đến Phẩm 33
32 Phẩm Thiện tụ
33 Phẩm Ngũ vương 
Phẩm 34 
34 Phẩm Đẳng kiến 
Từ Phẩm 35 Đến Phẩm 37
35 Phẩm Tà tư
36 Phẩm Thính pháp
37-1 Phẩm Lục trọng (1)
37-2 Phẩm Lục trọng (2)
Từ Phẩm 38 Đến Phẩm 39
38-1 Phẩm Lực (1)
38-2 Phẩm Lực (2)
39 Phẩm Đẳng pháp
Tập 3
Từ Phẩm 40 Đến Phẩm 41
40-1 Phẩm Thất nhật (1)
40-2 Phẩm Thất nhật (2)
41 Phẩm Mạc úy 
Từ Phẩm 42 Đến Phẩm 43
42-1 Phẩm Bát nạn (1)
42-2 Phẩm Bát nạn (2)
43-1 Phẩm Thiên tử Mã huyết hỏi Bát chánh (1)
43-2 Phẩm Thiên tử Mã huyết (2)
Từ Phẩm 44 Đến Phẩm 45
44 Phẩm Chín nơi cư trú của chúng sanh
45 Phẩm Mã vương 
Từ Phẩm 46 Đến Phẩm 48
46 Phẩm Kết cấm
47 Phẩm Thiện ác
48-1Phẩm Thập bất thiện (1)
48-2 Phẩm Thập bất thiện (2)
Từ Phẩm 49 Đến Phẩm 50
49-1 Phẩm Chăn trâu (1)
49-2 Phẩm Chăn trâu (2)
50 Phẩm Lễ Tam bảo 
Từ Phẩm 51 Đến Phẩm 52
51 Phẩm Phi thường
52 Phẩm Đại Ái Đạo nhập Niết Bàn

DANH XƯNG BỐN BỘ A-HÀM
(ÀGAMA – A-cấp-ma) 

Luận Du-già-sư-địa, cuốn 85 (Đại tạng số 30. 772), nói: 

"Sự khế kinh (hình thức khế kinh) là bốn A-cấp-ma (Agama). Một là Tạp A-cấp-ma, hai là Trung A-cấp-ma, ba là Trường A-cấp-ma, bốn là Tăng Nhất A-cấp-ma. 

Tạp A-cấp-ma là, ở trong đó Đức Thế Tôn xem xét căn cơ của người được giáo hóa để tuyên thuyết giáo pháp tương ứng được Như Lai và các đệ tử nói. Giáo pháp Uẩn, Giới, Xứ tương ưng; giáo pháp Duyên khởi, Tứ thực, Tứ đế tương ưng, giáo pháp Tứ niệm trụ, Tứ chánh cần, Tứ thần túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát Chánh Đạo, Nhập xuất tức niệm, Học tịnh chứng tương ưng, v.v…

Lại y theo tám chúng, nói các giáo pháp tương ứng với chúng. Về sau người kết tập vì muốn Thánh giáo tồn tại lâu dài, nên một phần kết tập thành các bài kệ tụng, rồi tùy chỗ thích ứng mà thứ lớp an bố.

Nên biết, tất cả giáo pháp tương ứng như thế, khái lược do ba phương diện tương ứng nhau, đó là người năng thuyết, pháp sở thuyết và người nghe được Phật và đệ tử vì họ thuyết dạy (sở vị thuyết). Như hoặc Như Lai, hoặc đệ tử Như Lai là người năng thuyết. Như những phần giáo được Phật thuyết hoặc đệ tử thuyết, hoặc sở liễu tri, hoặc năng liễu tri, đó là sở thuyết, như giáo pháp Năm uẩn, Sáu xứ, Nhơn duyên tương ưng, và Đạo phẩm phần. Như các chúng Tỷ-kheo, Thiên, Ma, v.v…, đó là sở vị thuyết; như phẩm kết tập. Như vậy, nêu lên tất cả thô lược năng thuyết, sở thuyết, sở vị thuyết, thành Tương ưng giáo.

Chính tất cả Tương ưng giáo kia, về hình thức tập họp lại dài ngắn lẫn lộn phức tạp, thế nên gọi là Tạp A-cấp-ma. Chính Tương ưng giáo kia lại được nói ở dạng trung bình, thế nên gọi là Trung A-cấp-ma. Chính Tương ưng giáo kia được nói ở dạng rộng dài, thế nên gọi là Trường A-cấp-ma. Chính Tương ưng giáo kia, lại được nói ở dạng cứ tăng dần từng số một lên đến hai, ba, v.v… Thế nên gọi là Tăng Nhất A-cấp-ma.

Như vậy, bốn thứ ấy được thầy trò lần lượt truyền lại đến nay, thế nên gọi là A-cấp-ma".

Cứ theo đoạn văn dẫn trên, ta thấy rõ danh xưng Tạp, Trung, Trường, Tăng Nhất A-cấp-ma là xưng theo hình thức kinh được nói dài hay ngắn chứ không phải xưng theo nội dung nghĩa lý của kinh. Như Tạp A-hàm, thì ngoại trừ kinh số 604 nói về A-dục dài đến 10 trang trong Đại tạng, còn lại hầu hết là kinh ngắn, nhiều kinh chỉ có một, hai dòng, thậm chí vài câu. Vì kinh dài ngắn xen lẫn nhau như vậy trong một bộ nên gọi là Tạp. Trung A-cấp-ma thì kinh dài hơn các kinh ở Tạp A-cấp-ma, song không dài hơn ở Trường A-cấp-ma. Kinh dài nhất ở Trung A-cấp-ma là kinh số 71 dài 7 trang và kinh số 72 dài 6 trang trong Đại tạng, song cũng không bằng Trường A-cấp-ma, có kinh như kinh Đại Bổn dài 10 trang, kinh Du Hành dài 20 trang, kinh Thế ký dài 22 trang trong Đại tạng.

Như vậy, hoặc có thể nói cách khác là Tạp Thuyết A-cấp-ma hay Đoản Thuyết A-cấp-ma, Trung thuyết A-cấp-ma, Trường Thuyết A-cấp-ma, Tăng Nhất Thuyết A-cấp-ma.

Theo đó, Bốn A-hàm lấy Tạp A-hàm kinh thuộc Tương ưng giáo làm gốc. Tạp A-hàm là “Nhất thiết sự tương ưng giáo”, vì vậy bốn A-hàm cũng được gọi chung là “Sự khế kinh”.

Nhưng Sự là gì?

Luận Du-già (của Bồ-Tát Di-Lặc tạo), cuốn ba, nói: “Lời dạy của chư Phật gồm trong chín sự, đó là:

Hữu tình sự
Thọ dụng sự
Sanh khởi sự
An trú sự
Nhiễm tịnh sự
Sai biệt sự
Thuyết giả sự
Sở thuyết sự
Chúng hội sự.
Hữu tình sự là chỉ cho ngũ thủ uẩn; Thọ dụng sự là chỉ cho mười hai xứ; Sanh khởi sự là chỉ cho mười hai duyên khởi và duyên sanh; An trú sự là chỉ cho bốn thực (bốn cách ăn); Nhiễm tịnh sự là chỉ cho bốn Thánh đế; Sai biệt sự là chỉ cho vô lượng giới; Thuyết giả sự là chỉ cho Phật và đệ tử Ngài; Sở thuyết sự là chỉ cho bốn niệm trụ v.v… và Bồ-đề phận pháp; Chúng hội sự là chỉ cho tám chúng đệ tử Phật.

Đó là toàn bộ nội dung của kinh Tạp A-hàm hay là “Sự tương ưng giáo”.

Nhiếp sự phần trong Du-già luận, cuốn 58, gom chín sự này trong ba loại lớn: 

Năng thuyết – chỉ Phật và đệ tử Phật.
Sở thuyết – chỉ uẩn, giới, xứ, duyên khởi, thực đế, niệm trụ, chứng tịnh…
Sở vị thuyết – chỉ tám chúng đệ tử Phật. 
Chín sự hay ba loại lớn, đó là nội dung của kinh Tạp A-hàm, và cũng có thể gọi đó là “Tu-đa-la” – “Sự khế kinh”.

TÔN CHỈ Ý THÚ CỦA BỐN A-HÀM 

Theo luận “Tát-bà-đa Tỳ-ni-tỳ-bà-sa”, cuốn 1, của phái Thuyết nhất thiết hữu, ghi: “Đức Phật vì chư Thiên và Người đời theo thời cơ nói pháp, kết tập lại làm Tăng Nhất A-hàm, đó là kinh cho người khuyến hóa học tập. Phật vì chúng sanh lợi căn, nói các nghĩa thâm diệu, gọi là Trung A-hàm; đó là kinh cho người học vấn học tập. Phật nói các pháp Thiền định, gọi là Tạp A-hàm; đó là kinh cho người tọa Thiền học tập. Phật phá các ngoại đạo, là Trường A-hàm”.

Ngài Phật Âm (Buddhaghosa) có sách chú thích bốn bộ A-hàm. Theo tên sách chú thích, đã biểu hiện rõ đặc sắc của bốn bộ A-hàm như sau: 

Sách chú thích Trường Bộ, tên “Sumàn Galaviàsini” (Tốt lành thích ý).
Sách chú thích Trung Bộ, tên “Papànca Sùdani” (Phá xích do dự).
Sách chú thích Tương Ưng Bộ, tên “Sàratthapakàsini” (Hiển bày chơn nghĩa).
Sách chú thích Tăng Chi Bộ, tên “Manoratha Pùrani” (Mãn túc hy cầu). 
Ngài Long Thọ (Nàgàrjuna) trong luận Đại Trí Độ, cuốn 1, có nêu cách thuyết giáo theo bốn tất-đàn: “1) Thế giới tất-đàn; 2) Các vị nhân tất-đàn; 3) Đối trị tất-đàn; 4) Đệ nhất nghĩa tất-đàn. Trong bốn tất-đàn tổng nhiếp mười hai bộ kinh, 84.000 pháp tạng, đều là thật, không chống trái nhau”.

Tất-đàn, tiếng Phạn là “Siddhànta”, dịch nghĩa là thành tựu, tông, lý. Bốn tất-đàn là bốn tôn chỉ, bốn đạo lý.

Bốn tất-đàn có thể tổng nhiếp hết mười hai bộ kinh, 84.000 pháp tạng là thế nào?

Bốn tất-đàn chỉ là dựa theo bốn tôn chỉ của bốn bộ A-hàm mà nói. Bốn tất-đàn tương đương với bốn tên sách chú thích bốn bộ của ngài Phật Âm.

- Sách chú thích Trường Bộ với tên là Tốt lành thích ý – đó là Thế giới tất-đàn (thuyết pháp phổ thông thích hợp với quảng đại quần chúng). Như trong Trường A-hàm có các kinh Xa-ni-sa, Đại Điển Tôn, Đại Hội, Phạm Thiên Sở Vấn, A-tra-năng-để v.v…gồm những lời Phật dạy thích ứng với tín ngưỡng thiên thần phổ thông của Ấn Độ. Trên mặt tư tưởng, Trường A-hàm chủ yếu phá xích những tín ngưỡng, tà kiến của dân chúng.

- Sách chú thích Trung bộ với tên Phá xích do dự - đó là đối trị tất-đàn (thuyết pháp đối trị riêng từng căn bịnh của chúng sanh). Trong Trung A-hàm phân biệt quyết trạch để đoạn nghi tình, trừ sạch hai mươi mốt thứ kiết sử… Đó chính là ý nghĩa của sự đối trị.

- Sách chú thích Tương Ưng Bộ với tên Hiển bày chơn nghĩa – đó là Đệ nhất nghĩa tất-đàn (thuyết pháp về các nghĩa siêu việt rốt ráo).

- Sách chú thích Tăng Chi Bộ với tên Mãn túc hy cầu – đó là các các vị nhân tất-đàn (thuyết pháp tán dương điều thiện, khuyến khích thực hành việc tốt, thích ứng với các căn tánh bất đồng, làm mãn túc mong cầu).

Trong sách Ma ha Chỉ Quán, cuốn 1, của Ngài Thiên Thai Trí Giả, giải thích bốn tất-đàn bằng bốn từ ngữ là tùy lạc (vui thích), tùy nghi (thích nghi), tùy trị (đối trị), tùy nghĩa (thắng nghĩa).

Tôn chỉ của Phật pháp, cách giáo hóa của Phật pháp không ngoài bốn thứ này. Mỗi một bộ A-hàm đều có đủ bốn tôn chỉ đó, song phân biệt kỹ thì mỗi bộ có mỗi đặc sắc riêng như trên đã nói.

Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
Kinh Tạp A-hàm, 1995 
-ooOoo-

Bài Tựa Kinh Tăng Nhất A-hàm

Ý nghĩa của bốn bộ A-hàm đồng với Trung A-hàm ở phần đầu là nói rõ tôn chỉ, nên không lập lời tựa.

Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất. Mỗi pháp số tăng dần, nên lấy tăng làm nghĩa. Pháp ấy phần lớn ghi chép về cấm luật để làm mẫu mực nghiêm nhặt và là điều kiện kiểm định độ đời. Ngoại quốc từ người ở núi đến người ở biển phần nhiều thường tụng ngâm bốn bộ A-hàm này. Có vị Sa-môn nước ngoài tên Đàm-ma-nan-đề, người nước Đâu-khư-lặc, xuất gia từ bé, học rộng nghe nhiều, tụng hai bộ A-hàm, ôn điều cũ để ngày càng mới, đi khắp các nước, không nơi nào không qua. Đời Tần, niên hiệu Kiến Nguyên thứ hai mươi, ngài đến Trường An, người nước ngoài đều hâm mộ. Quan Thái Thú Vũ Oai là Triệu Văn Nghiệp yêu cầu ngài đọc ra; ngài Phật Niệm dịch truyền; ngài Đàm Trung sửa chữa. Mùa hạ năm Giáp thân bắt đầu, đến mùa xuân năm sau thì xong, được bốn mươi mốt quyển, phân làm hai bộ thượng, hạ. Bộ thượng gồm hai mươi sáu quyển trọn vẹn không bị quên sót, bộ hạ mười lăm quyển, mất phần ghi kệ. Tôi cùng với Pháp Hòa khảo chính lại; Tăng Lược, Tăng Mậu phụ giúp xem xét những chỗ thiếu sót, bốn mươi ngày thì xong. Năm này có trận đánh ở A Thành, tiếng trống gần kề mà chúng tôi vẫn chuyên tâm trong việc này. Trọn đủ hai bộ A-hàm là một trăm quyển.

Hai ngài Tỳ-bà-sa và Tu-mật-tăng-già-la-đát truyền sang đây (Trung Hoa) năm bộ kinh lớn. Từ khi Pháp truyền sang phương Đông, hai ngài là người đọc kinh để dịch ưu việt hơn hết. Bốn bộ A-hàm do bốn mươi vị cao đức biên tập, mười vị tuyển chọn một bộ: bắt đầu từ đề mục và chấm dứt bằng bài kệ. Sợ giáo pháp lưu truyền ở đời lâu ngày bị thất lạc, thiếu sót, nên cõi này trước đây ghi lại các kinh đành rành; trong số ấy nay có hai Bộ A-hàm, mỗi mỗi viết lại một quyển mới, giữ trọn số mục cũ của kinh, ghi chú về sự thêm thắt, mất mát của kinh, khiến cho người đọc tìm thấy được sự sai khác.

Hai bộ thượng hạ gồm có 472 kinh; phàm các vị học sĩ tuyển chọn hai bộ A-hàm này, trong đó thường có những lời dạy về luật, người nước ngoài không rõ, xem Sa-di và cư sĩ cùng như nhau. Từ này về sau, mong rằng cùng giữ gìn điều này như luật định! Đây chính là việc cấp thiết của nước ta. Những lời dạy căn dặn đinh ninh của Đức Thế Tôn, xin chớ nghe một cách sơ suất! Học rộng mà không biết gìn giữ cấm giới là một tỳ vết trong sự thông suốt của giới học sĩ. Khương Hạnh Tường dịch kinh Trung Bản Khởi, dịch luôn phẩm Đại Ái Đạo trong đó mà không biết đó là kinh cấm, là phép của Tỳ-kheo-ni, rất cần phải cắt bỏ đi. Đây là một sự thô lậu lớn, đáng đau xót vậy.

Hai bộ kinh này, bậc đạo sĩ hữu lực mới có thể xem, cần phải để tâm. Còn như người khinh thường không để ý, mong các vị đồng chí với tôi kêu gọi sửa đổi điều này!
 Đời Tấn 
Sa-môn Thích Đạo An viết
Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch Việt, 1997
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
07 Tháng Mười Một 2023(Xem: 712)
27 Tháng Chín 2022(Xem: 82764)
Lúc đầu, kinh điển Phật giáo gồm hai bộ chính là “kinh” (sutra) và “luật” (vinaya): “Kinh” ghi lại giáo lý của Đức Phật, “Luật” là những giới luật mà Đức Phật đã chế định cho hàng tăng nhân tu hành tại các tự viện. Về sau này có thêm những lời chú giải về kinh và luật đó, và được gọi chung là “luận” (abhidharma), kết quả là có ba bộ sách gồm kinh, luật, và luận, tức là “Tam Tạng” (Tripitaka). Dần dần xuất hiện những dị biệt trong những lời giải thích về giáo lý của Đức Phật và giới luật của tự viện; và, điều đó gây ra sự phân rẽ trong cộng đồng Phật giáo, đưa tới sự phân chia thành hai bộ phái chính yếu đó là Thượng Tọa Bộ (Therevada) có tinh thần bảo thủ và Đại Chúng Bộ (mahasamghika) có tinh thần cấp tiến. Mỗi bộ phái có một bộ kinh điển riêng, được coi là chính thức bao gồm những quan điểm của mỗi phái.
16 Tháng Chín 2020(Xem: 5211)
20 Tháng Tám 2018(Xem: 7043)