Kinh Người Áo Trắng

13 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 9419)

KINH NGƯỜI ÁO TRẮNG
Chất liệu tâm linh - Năm giới 
Đây là bài pháp thoại ngày 24.01.2013 tại thiền đường Nước Tĩnh,
xóm Thượng, Làng Mai trong khóa An Cư Kết Đông 2012-2013.

kinhnguoiaotrangKinh Người Áo Trắng và kinh Giáo Hóa Người Bệnh là hai kinh tiêu biểu về sự thực tập của người cư sĩ:

  1. Kinh Người Áo Trắng

Kinh Người Áo Trắng, nguyên là Ưu Bà Tắc kinh, upāsaka sutra, là kinh 128 Trung A Hàm, hay kinh A. III. 211 Tăng Chi Bộ của tạng Pali. Ưu bà tắc là cư sĩ nam, là người thân cận với người xuất gia. Người tại gia là người thân cận với người xuất gia, thân cận để học hỏi và thực tập nên gọi là cận sự: cận sự nam (upāsaka) và cận sự nữ (upāsikā). Người xuất gia cần người tại gia và người tại gia cần người xuất gia.

Đi xuất gia thì không được mặc áo trắng mà phải mặc áo màu gọi là hoại sắc.

 2. Kinh Giáo Hóa Người Bệnh

Người bệnh là người đang hấp hối. Kinh Giáo Hóa Người Bệnh hay kinh Độ Người Hấp Hối là kinh 26 Trung A Hàm hay kinh M. 143 Trung Bộ của tạng Pali.

 

Kinh Người Áo Trắng

Điểm nổi bật trong kinh Người áo Trắng là Bụt dạy người cư sĩ chỉ cần thực tập hai pháp môn sau đây là có đủ hạnh phúc trong giây phút hiện tại. Đó là:

  1. Năm giới ()
  2. Bốn tùy niệm tức bốn tâm cao đẹp (tăng thượng tâm )

Bụt nói rất rõ: Nếu người tại gia thực tập theo hai pháp môn trên thì có thể có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại mà không có khó khăn gì. Không có khó khăn có nghĩa là sự thực tập này rất dễ chịu, ta không cần phải lao nhọc, phải gồng lên để thực tập. Thực tập theo hai pháp môn trên thì:

- Ta có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại gọi là hiện pháp lạc trú .

- Ta chắc chắn không rơi trở lại vào những con đường khổ đau tức con đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và atula.

- Ta có thể đạt được quả vị nhập lưu (vào dòng) tức là gia nhập vào một dòng đi về tương lai, đi về hạnh phúc và giải thoát, cũng như ta muốn đi Paris và ta đã lên ngồi trong TGV (xe lửa) hướng về Paris thì chắc chắn là ta sẽ tới Paris. Vào dòng thì thế nào ta cũng được giải thoát hoàn toàn. Bụt nói ta chỉ sinh ra lại trong cõi hệ lụy bảy lần là tối đa. Nếu làm ăn khá thì ta sinh trở lại một hay hai lần hoặc ngay trong kiếp này ta cũng có thể được giải thoát hoàn toàn.

Cụm từ “an trú hạnh phúc trong hiện tại một cách dễ dàng và không có khó khăn gì“ được lặp lại nhiều lần trong kinh.

Xá Lợi Phất, thầy nên ghi nhớ rằng một người đệ tử áo trắng, nếu thực tập được như thế là đã chấm dứt được sự sa đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và các đường dữ khác; đã chứng được quả Tu Đà Hoàn (vào dòng), không còn thối đọa vào các ác pháp. Người ấy chắc chắn đang đi về nẻo chánh giác và chỉ cần qua lại tối đa bảy lần nữa trong các cõi trời và cõi người là có thể đạt đến biên giới của sự hoàn toàn giải thoát diệt khổ.

Kinh chỉ cho chúng ta rất nhiều điều:

Đức Thế Tôn dạy rằng chúng ta không thực tập để có hạnh phúc trong tương lai hay để có sự giải thoát và giác ngộ sau này mà thôi. Trước hết ta phải có hạnh phúc, giải thoát và giác ngộ ngay bây giờ. Trong đó có hàm ý: Không có con đường đưa tới hạnh phúc, hạnh phúc chính là con đường. Nếu ta thấy đau khổ trong khi tu là không đúng. Trong khi tu ta phải có hạnh phúc thì mới đúng. Nếu nghĩ rằng phải cực khổ bây giờ để trong tương lai có được hạnh phúc là ta không đi đúng con đường. Giáo lý “hiện pháp lạc trú“ (drstādharmasukhavihara) rất quan trọng trong đạo Bụt. Drstā là hiện pháp, sukhavihara là lạc trú hay lạc cư. Nhưng nhiều tông phái, nhiều chùa đã đánh mất giáo lý này. Ta tu như thế nào để có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại dù ta là cư sĩ. Ta không cần phải lao nhọc mà vẫn hạnh phúc trong giây phút hiện tại (không có khó khăn gì), ta phải tu cho khéo (Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm). Cũng với pháp môn đó, nếu khéo tu thì ta có hạnh phúc ngay lập tức, còn không khéo tu thì ta cứ vật lộn hoài mà vẫn không đưa tới kết quả.
Quá khứ không còn nữa, tương lai thì chưa tới, những gì chúng ta thấy trong hiện tại là hiện pháp. Hạnh phúc phải có trong hiện pháp. Ta phải có hạnh phúc trong khi tu và phải tu như thế nào để đừng mệt nhọc, mất sức, chịu đựng. Ta phải ngồi thiền như thế nào để có hạnh phúc, đi thiền như thế nào để có hạnh phúc, tụng kinh như thế nào để có hạnh phúc. Nếu ta cố gắng mệt nhọc, thân tâm rã rời là không đúng. Ta phải khéo tu.
Hiện tại bảo đảm cho tương lai. Ta không rơi trở lại con đường của hệ lụy, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
Ta được vào dòng giải thoát và thế nào ta cũng được giải thoát hoàn toàn.
Kinh này không chỉ trả lời cho những mối quan tâm thường nhật của con người, mà cũng trả lời cho mối quan tâm tối hậu của con người. Con người có những mối quan tâm của đời sống hằng ngày như làm sao để có sức khỏe, để được che chở, để được an cư lạc nghiệp, v.v…Nhưng người cư sĩ cũng có mối quan tâm tối hậu. Họ cũng muốn biết: Sau này mình sẽ đi về đâu? Họ rất bận, họ không có thì giờ nhưng lâu lâu họ cũng hỏi: “Không biết mình từ đâu tới và mình sẽ đi về đâu? Sau khi chết mình sẽ như thế nào?“ Đó là mối quan tâm tối hậu.

Giữa ba chất liệu tín mộ, chất liệu tâm linh và chất liệu chú thuật không có ranh giới rõ ràng

Tuy dạy cho cư sĩ nhưng Bụt cũng làm thỏa mãn hai loại quan tâm: làm sao để có hạnh phúc trong đời này và làm sao để thấy được tương lai, thấy được mình đang đi về đâu. Trong kinh có rất nhiều chất liệu tâm linh.

Chúng ta phải để ý một chi tiết là trong kinh Bụt gọi các cư sĩ là thánh đệ tử. Thánh đệ tử là đệ tử, tuy là cư sĩ nhưng có chất thánh (holy element) trong họ. Khi có năng lượng của niệm, định và tuệ thì ta có chất thánh trong con người của mình. Chất thánh đó bảo hộ ta, làm cho ta hạnh phúc và đưa ta đi tới. Chất thánh không từ ngoài đi vào mà là do tự ta chế tác ra bằng sự tu tập năm giới và bốn phép tùy niệm.

Đạo Bụt cung cấp cho người cư sĩ chất liệu tâm linh (the spiritual element) chứ không phải chỉ cung cấp sự tín mộ như nhiều người đã hiểu lầm. Tín mộ là chỉ tin tưởng vào những thế lực bên ngoài. Giữa chất liệu tâm linh và chất liệu tín mộ (the devotional element) không có một ranh giới rõ ràng, vì vậy có những phép thực tập mà bề ngoài thấy như tín mộ nhưng bên trong rất tâm linh vì trong đó có niệm, định và tuệ. Ví dụ như chúng ta lạy trước tượng Phật, bề ngoài trông giống như pháp môn tín mộ. Bụt là người, ta cũng là người, người này lạy người kia tại vì trong người kia có chất liệu thánh. Ta là người hoàn toàn không có khả năng và ta lạy cầu xin một vị Phật, vị bồ tát, vị thánh nhân cứu giúp mình. Lạy như vậy giống như một sự tín mộ.

Tuy nhiên, tùy theo cách lạy, trước khi lạy ta quán chiếu: Người lạy và người được lạy đều không có tính cách riêng biệt.

Lạy Đức Thế Tôn, Ngài là Bụt, con là chúng sanh nhưng con thấy Bụt được làm bằng những chất liệu không phải Bụt, trong đó có chúng sanh. Con tuy là chúng sanh nhưng con có chất Bụt trong lòng. Nhận thức như vậy, con thấy con có trong Bụt và Bụt có trong con.

Quán chiếu như vậy rồi lạy xuống thì không phải là sự tín mộ, cầu xin mà là sự thực tập. Lạy xuống trước tượng Phật, bề ngoài giống như một sự tín mộ nhưng bên trong là một hành động quán chiếu. Người ta thường hay lẫn lộn tín mộ và tâm linh.

Ngoài chất liệu tín mộ và chất liệu tâm linh còn có chất liệu chú thuật (the magical element). Người theo đạo Thiên chúa cũng tin tưởng vào những thế lực ma quái. Khi cảm thấy có thế lực ma quái thì người ta đưa cây thánh giá ra trước mặt và nghĩ rằng ma quái phải rút lui. Cây thánh giá tuy được làm bằng gỗ hay bằng sắt nhưng nó có thần lực. Đó là chất liệu chú thuật. Chúng ta cũng có câu thần chú để mỗi khi gặp ma ta đọc lên thì ma chạy. Đó cũng là chất liệu chú thuật.

Không có ranh giới rõ ràng giữa ba chất liệu tín mộ, tâm linh và chú thuật, ví dụ như Tâm Kinh Bát Nhã. Tâm Kinh là một kinh nói về tuệ giác cao nhất (the perfect understanding). Tâm Kinh Bát Nhã giúp ta quán chiếu thấy được tất cả đều không có tự tánh để ta vượt thoát những khổ đau, sợ hãi (độ nhất thiết khổ ách). Tâm Kinh Bát Nhã là một hình thái sinh hoạt tâm linh cao nhất (prajñā paramita). Nhưng có người tụng Tâm Kinh để có công đức, sáng trưa chiều đều tụng, tụng ba bốn chục năm mà vẫn không hiểu. Cũng như chú Chuẩn Đề và chú Đại Bi, người ta tụng năm này sang năm khác mà không hiểu gì cả. Người ta tin tưởng rằng tụng chú để đuổi tà ma. Cũng như những thầy tụng chú Lăng Nghiêm để nữ sắc đừng tới kéo mình, nhưng có thầy dù tụng năm này sang năm khác mà nữ sắc vẫn kéo đi như thường. Ta có câu thần chú, khi nằm mơ thấy ma ta đọc lên câu thần chú nhưng con ma nhe răng cười chẳng sợ gì cả. Tâm linh có thể trở thành tín mộ và tín mộ có thể trở thành chú thuật.

Có những thuyền nhân vượt biển chỉ đem theo một bản Tâm Kinh. Họ tin rằng bản Tâm Kinh có thể cứu họ khỏi những cơn sóng gió ngoài biển, tránh thoát loài thủy quái và những tên hải tặc. Tôi có những đệ tử đem theo cuốn “Nẻo về của ý“ khi vượt biển. Họ nghĩ cuốn sách đó rất linh thiêng, trong đó có nói về Tâm Kinh. Khi sử dụng văn bản Tâm Kinh để bảo hộ cho mình thì có thể ta có sử dụng một ít chất liệu tâm linh nhưng ta sử dụng chất liệu tín mộ nhiều hơn. Có thể ta tin rằng có Tâm Kinh trên thuyền thì hải tặc không dám tới. Đó là chất liệu chú thuật. Khi người Anh tới xâm chiếm nước Miến Điện bằng máy bay, xe tăng và súng đạn thì có những Phật tử mang bùa chú đi tới trước súng đạn vì họ nghĩ rằng có bùa chú trên người thì súng bắn không lủng. Họ đưa tay lên trời bắt ấn vì họ tin rằng làm như vậy thì máy bay sẽ rớt xuống.

Thọ trì năm giới để bảo đảm tự do và hạnh phúc

Nhưng khi đọc kinh Người Áo Trắng thì chúng ta thấy chủ ý của Bụt là cho người cư sĩ chất liệu tâm linh. Năm giới là sự thực tập giúp cho ta đừng sa đọa vào cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Mỗi giới bảo đảm cho ta một tự do. Ví dụ như giới thứ năm là “không vướng vào vòng ma túy“, nếu ta giữ giới thứ năm này thì ta không vướng vào ma túy rất rõ ràng. Năm giới bảo đảm cho ta năm không gian tự do. “Không rơi trở lại vào tình trạng hệ lụy“ không phải là chuyện siêu hình mà là chuyện rất thực tế và rất khoa học. Giữ năm giới thì ta có năm khoảng trời tự do thật lớn, thân tâm ta được thanh tịnh, mạnh khỏe và ta có nhiều niềm vui. Đây không phải là một sự hứa hẹn hão huyền về một hạnh phúc tương lai. Giữ năm giới thì ta có hạnh phúc ngay lập tức. Ai đã thọ năm giới thì biết giờ phút mà ta quỳ xuống nhận năm giới là ta có hạnh phúc liền. Ta thấy mình có một con đường và năm giới sẽ bảo hộ cho mình, mình sẽ có rất nhiều tự do khi thọ trì năm giới. Bụt dạy người cư sĩ phải thọ trì năm giới thì mới bảo đảm được hạnh phúc của mình. Hạnh phúc đó ta không phải chờ lâu, ta có thể có ngay trong giây phút hiện tại.

Nhưng nói như vậy không có nghĩa là người xuất gia không cần năm giới. Người xuất gia thọ 250 giới nhưng 250 giới đó rốt cuộc vẫn nằm trong năm giới. 250 giới có nhiều chi tiết hơn nhưng vẫn phát xuất từ năm giới. Theo truyền thống thì năm giới rất đơn sơ: không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không uống rượu. Nhưng năm giới trong kinh Người Áo Trắng có giới tướng rất rõ ràng. Nương trên tinh thần của kinh Người Áo Trắng ở Làng Mai chúng ta có năm giới tân tu với đầy đủ giới tướng, phản chiếu được tinh thần Tứ đế và Bát chánh đạo trong đó có chánh kiến. Khi quyết tâm thực tập theo năm giới thì ta chắn chắc có tự do, hạnh phúc và niềm vui ngay trong giây phút hiện tại. Điều này rất khoa học, không có gì là mê tín dị đoan. Đó là chất liệu tâm linh, trong đó có niệm, định và tuệ.

Bốn tâm cao đẹp

Bốn tâm cao đẹp là niệm Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới.

Niệm Bụt

Niệm Bụt không phải là cầu xin ân huệ từ một thế lực bên ngoài. Niệm Bụt làm cho tâm ta được tịnh hóa. Bụt là một con người như mình, nhưng nhờ sự thực tập mà chuyển hóa được những phiền não, khổ đau. Khi niệm Bụt ta có một niềm tin là ta cũng có thể làm như Bụt, tại vì nếu Bụt là con người mà làm được thì ta là con người, ta cũng có thể làm được. Vì vậy diễn tả Bụt như một thần linh là một điều tai hại, làm cho người ta không thể với tới được. Bụt phải là một con người. “Đường xưa mây trắng“ là bộ sách mà trong đó tác giả đã tìm đủ mọi cách để phục hồi tính người của Bụt. Thấy Bụt như một con người ta sẽ dễ dàng tới tiếp cận, còn nếu Ngài là một thần linh thì rất khó mà tiếp cận. Bộ “Đường xưa mây trắng“ có công đức giúp cho ta thấy được Bụt là một con người để ta tiếp cận được dễ dàng và ta niềm tin là ta cũng sẽ làm được như Bụt. Những đức tính như Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn là những đức tính mà chúng ta cũng có thể có được. Đó là 10 danh hiệu của Bụt.

Cư sĩ Cấp Cô Độc, mỗi khi nghĩ tới Bụt là ông có hạnh phúc ngay. Trong cuộc đời, nếu ta có được một người quen như vậy thì rất hay, mỗi nghĩ tới người đó thì tự nhiên ta có hạnh phúc tràn trề. Trong trường hợp của ông Cấp Cô Độc thì người đó là Bụt. Thầy Xá Lợi Phất biết rất rõ là ông Cấp Cô Độc đang đau nhức, nhưng nếu thầy nhắc tới Bụt thì chắc là ông sẽ bớt đau ngay. Thiền hướng dẫn của thầy Sariputra rất khôn ngoan.

Niệm Pháp

Pháp là một đối tượng của tùy niệm, anusmrti. Niệm Pháp ta cũng có hạnh phúc rất nhiều. Pháp đại diện cho Bụt, Pháp là chất liệu của một vị Bụt. Sở dĩ Bụt là Bụt là vì Ngài có Pháp thân. Pháp thân là sự thực tập, là tuệ giác, là cái cho ta tự do và hạnh phúc. Pháp không phải là một cái gì xa xôi, ta có thể trực tiếp tiếp cận Pháp mà không cần phải qua trung gian của một người nào dù cho người đó là một tăng lữ.

Pháp là gì? Pháp có tính cách thiết thực, hiện tại, không phải là cái gì mơ hồ thuộc về thế giới siêu nhiên và tương lai. Đặc tính của Pháp là samdittika, có nghĩa là có tính cách thiết thực trong giây phút hiện tại như thở vào, thở ra. Thở vào, thở ra là chuyện chúng ta có thể thấy trong giây phút hiện tại. Nếu để tâm vào hơi thở và thở vào ta sẽ thấy trong khi thở ta đem thân về với tâm và hơi thở vào làm cho thân của ta hay cảm thọ của ta lắng dịu xuống. Đó là chuyện thiết thực hiện tại (samdittika). Pháp không phải là cái ta mong ước ở tương lai. Sự thực tập và hạnh phúc xảy ra ngay trong giây phút hiện tại. Nó vượt thoát thời gian (ākālika), nó có hiệu nghiệm ngay trong giây phút hiện tại và không bao giờ mất tính hiện tại của nó. Giáo pháp mâu nhiệm này, ta có thể tự mình thực chứng (ehipasika) mà không cần phải qua một trung gian. Ehipasika là tự mình tiếp cận và chứng nghiệm. Đây không phải là sự tín mộ, cầu xin.

Diệu pháp của Đức Thế Tôn, con đường mà con đang nguyện đi theo, là giáo pháp đã được nhiệm mầu tuyên thuyết. Giáo pháp đó là thiện thuyết (well proclamed), là giáo pháp có thể chứng nghiệm ngay trong giây phút hiện tại (samdittika), là giáo pháp có giá trị vượt thoát thời gian (ākālika), là giáo pháp mà mọi người có thể đến mà tự thấy (ehipasika), là giáo pháp có công năng dẫn đạo đi lên, là giáo pháp có công năng dập tắt phiền não, là giáo pháp mà người trí nào cũng có thể tự mình thông đạt.

Đây không phải là sự lạy lục cầu xin, không phải là sự tín mộ mà trước hết là tâm linh, là tuệ giác. Vì vậy giáo pháp Đức Thế Tôn hiến tặng cho người tại gia là một loại giáo pháp cao, thuần túy, không đòi hòi một niềm tin mù quáng. Khi tâm ta tiếp cận được với ba viên ngọc quí tức Bụt, Pháp và Tăng thì tự nhiên ta có hạnh phúc, ta cảm thấy có sự che chở bởi năng lượng niệm-định-tuệ được chế tác ra trong sự thực tập.

Hạnh phúc ngay trong hiện tại

Niệm Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, ta không cần phải niệm Thiên để được sinh lên cõi trời. Ta đang có hạnh phúc trong giây phút hiện tại, mà nếu có hạnh phúc ở cõi này thì cõi này đã là cõi trời. Người ta muốn sinh Thiên hay sinh cõi Tịnh độ, nhưng nếu đã có hạnh phúc ở đây rồi thì ta không cần Thiên giới hay cõi Tịnh độ nữa. Cụm từ “hiện pháp lạc trú“ đã được lặp lại sáu lần trong kinh. Là người xuất gia, nếu muốn đem Phật pháp chia sẻ với người cư sĩ thì ta phải nhớ làm thế nào để họ được sống hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại, đừng hứa hẹn với họ Niết bàn, Tịnh độ hay Thiên đường. Đó là ý của Bụt, ta phải sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại. Chuyện này không khó khăn gì và phương pháp thực tập lại rất dễ chịu. Ta có thể làm hay hơn nữa, khi có hạnh phúc thì ta chứng được quả vào dòng cùng đi với tứ chúng. Nếu đi một mình như một giọt nước thì ta sẽ bốc hơi, đi như một dòng sông với đại chúng thì chắc chắn là ta sẽ đi ra biển. Vào dòng là không đi lui nữa. Đã vào dòng rồi, dù có được giải thoát hoàn toàn trong năm kiếp hay trong hai kiếp nữa thì ta cũng đã yên, ta không còn lo sợ. Hơn nữa ta đang có hạnh phúc nên ta không cần phải giải thoát mau một cách hấp tấp.

Chúng ta có những phép thực tập dành cho cư sĩ mà người xuất gia cũng có thể tham dự được. Nếu khéo léo thực tập thì những pháp môn đó có chất liệu tâm linh nhiều hơn chất liệu tín mộ:

Lễ kính

Nhất giả, lễ kính chư Phật: Sự thực tập đầu tiên là bày tỏ sự kính ngưỡng của mình đối với Bụt. Bên ngoài sự thực tập này giống như một hành động tín mộ, nhưng nếu ta biết cách thì sự thực tập có chất liệu tâm linh rất cao. Muốn lễ Bụt ta phải quán chiếu Bụt là ai, ta là ai, giữa ta và Bụt có sự liên hệ nào. Biết được giữa ta và Bụt không có sự ngăn cách thì tuệ giác sẽ phát hiện ra trong khi ta lạy xuống. Sáng nay, khi đọc Sám pháp địa xúc tôi cũng lạy xuống như các thầy, các sư chú và các đạo hữu nhưng trong khi lạy tôi quán chiếu là mình đang lạy với tất cả dòng họ huyết thống và tâm linh mà không phải là một cá nhân đang lạy xuống. Đó là có chất liệu tâm linh. Ta cũng thấy được là người đang lạy và người được lạy không tách rời nhau tại vì trong tổ tiên tâm linh cũng có Bụt. Trong khi lạy ta tiếp xúc được vô ngã, tiếp xúc được tính bất nhị giữa Bụt và chúng sanh. Cái lạy đó không phải là tín mộ. Tuy bên ngoài có vẻ giống như ta cầu xin sự che chở, cầu xin một chút hạnh phúc, một chút tâm linh nhưng thật ra trong khi lạy ta chế tác ra hạnh phúc, chế tác tự do và chế tác tâm linh.

Xưng tán

Nhị giả, xưng tán Như Lai: Xưng tán là ca ngợi, ta ca ngợi Bụt là bậc thầy của loài trời, loài người. Bụt đã qua tới một cách nhiệm mầu, đã diệt trừ được những phiền não, đã điều phục được con người dù là những người ngang ngược nhất. Nếu biết quán chiếu ta thấy mình đang đi trên con đường của Bụt và mình cũng đang thực hiện những điều Bụt đã làm. Xưng tán đem lại những tuệ giác, những tự do và làm cho phiền não, tham vọng, hận thù tan biến đi tại vì chúng ta đang hướng về một cái gì rất đẹp. Phương hướng rất quan trọng, khi biết được phương hướng quay về thì ta buông bỏ được rất nhiều hệ lụy. Vì vậy con người phải có một hướng đi. Trong kinh có nói làm thân con lạc đà chở nặng cũng chưa thật sự là khổ, chỉ khi nào không biết được hướng đi mới thật là khổ. Khi lễ kính và xưng tán là ta biết đi về hướng nào, ta muốn đi về hướng của Bụt, của Bồ Tát. Hướng về đó là ngoảnh lưng lại với những cái khác. Xưng tán Như Lai đem lại hạnh phúc ngay trong khi xưng tán.

Cúng dường

Tam giả, quản tu cúng dường: Chúng ta thường nghĩ cúng dường là cung cấp cho người xuất gia bốn thứ cần thiết như thức ăn, áo quần, thuốc men và chỗ ở gọi là tứ sự cúng dường. Cúng dường thì có công đức, công đức này giống như một trương mục tiết kiệm để này ta xài dài dài sau này. Thật ra nếu cúng dường bằng chất liệu tâm linh thì ngay trong lúc cúng dường ta buông bỏ, ta có niềm vui, có hạnh phúc, tự do. Khi ta giúp được cho người bớt khổ và có niềm vui thì hạnh phúc tới ngay trong lúc đó chứ không phải chỉ có trong tương lai.

Hơn nữa có nhiều thứ cúng dường, ta cúng dường thực phẩm, áo quần, thuốc men nhưng ta cũng có thể cúng dường Phật pháp. Ta đem đạo Bụt ra để giúp cho người khác bớt khổ, ta cho họ một giờ tham vấn và với kinh nghiệm, với tuệ giác của mình trong một giờ đó ta có thể kéo họ ra khỏi địa ngục. Đó là một loại cúng dường, còn quan trọng hơn là cúng dường cơm áo. Ta ngồi với một người đang trẩm luân, khổ não không có lối ra và ta quán chiếu, nhìn rõ, hiểu thấu nỗi khổ niềm đau của người đó rồi tìm cách đưa họ ra khỏi thế giới của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Đó là một hình thức cúng dường. Không cần phải có tiền mới cúng dường được, ta chỉ cần có tình thương và tuệ giác là có thể cúng dường rất nhiều. Đó là cúng dường Pháp.

Cúng dường hương không phải để có mùi thơm. Thay vì đốt một cây nhang ta đốt cả bụm, tưởng rằng làm như vậy là có nhiều công đức. Chư tổ đã dạy ta phải biết cách cúng dường hương. Chúng ta có những bài dâng hương rất hay:

Giới hương, định hương, tuệ hương, giải thoát hương, giải thoát tri kiến hương. Con có giới, có định, có tuệ, có giải thoát và con đem cúng dường lên Bụt.

Cúng dường như vậy thì công đức vô lượng, cúng dường không cần nhiều tiền mà chỉ cần tâm của mình.

Sám hối

Tứ giả, sám hối nghiệp chướng: Sám hối không phải là xưng tội. Với sự chứng minh của tăng thân, của sư anh, sư chị, của chư Bụt và chư Bồ Tát ta nhìn lại con người của mình để thấy ta đã đi tới đâu, ta đã thành công chỗ nào và chưa thành công chỗ nào để ta có thể đi tới.

Sám pháp địa xúc là một pháp môn rất hay, là một quá trình quán chiếu để chuyển hóa mà không phải là một hành động thú tội và cầu xin. Ở xóm Thượng sáng nào chúng ta cũng thực tập Sám pháp địa xúc. Ví dụ ta nói: Bạch Đức Thế Tôn, lâu nay con đi như bị ma đuổi, con không có an lạc trong từng bước chân. Con sinh ra đời để đi như vậy thì rất uổng. Trong khi Đức Thế Tôn đi từng bước thảnh thơi, an lạc, hạnh phúc, nuôi dưỡng trị liệu mà con lại đi như vậy thì con không xứng đáng làm học trò của Ngài. Con lạy xuống ba lạy hứa với Đức Thế Tôn là từ nay trở đi mỗi bước chân của con sẽ có vững chãi, an lạc, thảnh thơi, nuôi dưỡng và trị liệu. Đó là sám để đưa tới tuệ giác và lành mạnh hóa đời sống của mình.

Tùy hỉ

Ngũ giả, tùy hỉ công đức: Chúng ta phải có tâm niệm vui khi người khác thành công. Người kia có hạnh phúc thì ta mừng cho người đó. Ta không ganh tị, tranh đua với người đó. Thấy bất cứ điều gì có tác dụng đưa nhân loại đi tới, giúp cho con người bớt khổ thì ta đều yểm trợ. Đó gọi là tùy hỉ công đức. Ta thấy những thực hiện của người đó cũng là những thực hiện của mình và những gì ta thực hiện cũng là để cho người đó có hạnh phúc.

Ta có 10 hạnh của đức Phổ Hiền mà quí vị phải tự học lấy:

Lục giả, thỉnh chuyển pháp luân.
Thất giả, thỉnh Phật trụ thế.
Bát giả, thường tùy Phật học.
Cửu giả, hằng thuận chúng sanh.
Thập giả, phổ giai hồi hướng.

Phóng sinh

Chúng ta có những sự thực tập như phóng sinh tức thả chim, thả cá. Sự thực tập này cũng đem lại hạnh phúc, nó không hẳn là sự tín mộ mà là tâm linh. Phóng sinh đem lại rất nhiều niềm vui vì ta bảo hộ cho các loài chúng sinh. Ăn chay là một trong những hành động phóng sinh đẹp nhất. Nếu ăn chay mà ta đau khổ thì thà là đừng ăn chay còn hơn. Ta phải có hạnh phúc trong khi ăn chay, ta có niềm vui vì mình không cần ăn thịt của chúng sinh, mình bảo hộ cho sinh môi, mình cho trái đất một tương lai.

Tu tạo công đức: Giúp người nghèo, người cô đơn.
Xây tháp,
Đúc chuông
In kinh
Ăn chay
Cúng thí thực

Đeo tượng Phật: Đeo tượng Phật hay thờ Phật để nhắc ta hình ảnh của Phật, để nhắc rằng ta đã có con đường thì đeo tượng Phật có tính cách tâm linh. Nếu nghĩ tượng Phật này rất linh thiêng, đem theo trong xe ta sẽ không bao giờ gặp tai nạn thì đó là sự tín mộ.

Trong kinh này Bụt dạy về tâm linh nhiều hơn sự tín mộ. Ngài rất coi trọng người cư sĩ, Ngài biết người cư sĩ có thể thành đạt rất nhiều. Chúng ta có thể nghĩ rằng sự thực tập trước tiên là chất liệu tâm linh có khả năng chế tác giới, định và tuệ. Nhưng nếu không khéo thì tất cả sự thực tập tâm linh trở thành sự thực tập tín mộ, trong đó có thể có cả sự thực tập ma thuật. Muốn đem Phật pháp truyền bá rộng rãi trong nhân gian ta phải nắm được vấn đề để đừng làm thoái hóa đạo Bụt, để đừng làm mất đi bản chất của đạo Bụt. Ví dụ trong kinh Bụt dạy người cư sĩ phải thực tập như thế nào để có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại và hạnh phúc trong hiện tại sẽ bảo đảm cho tương lai. Nếu khuyên người ta nên phát tâm nhàm chán cõi đời này để cầu sang một cõi khác là không đúng theo nguyên ý của Bụt. Bỏ hiện tại để tìm cầu tương lai là không đúng với bản hoài của Bụt. Trong kinh Bụt có nói tới cõi trời như một chỗ ta có thể sinh ra trở lại để tu học mà không phải chỗ cuối cùng. Chỗ cuối cùng của chúng ta là giải thoát hoàn toàn.

Người ta nói cúng dường cho các thầy thì sau này được sinh lên cõi trời là không đúng. Ta có thể được sinh lên cõi trời nhưng đó không phải là mục đích chính. Mục đích đầu tiên là phải có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại và được sinh lên cõi trời hay lên cõi Tịnh độ chỉ là những sản phẩm phụ mà thôi. Lấy sản phẩm phụ làm mục tiêu là không đúng, mục tiêu là sống hạnh phúc ngay lập tức. Ta phải giúp Bụt, ta phải phục hồi lại giáo lý nguyên thỉ của Ngài. Ta phải cống hiến phương pháp tu như thế nào để người ta có hạnh phúc, có giải thoát, có tự do ngay trong giây phút hiện tại và hạnh phúc đó bảo đảm cho tương lai. Không phải là Bụt không nghĩ tới tương lai, nhưng Ngài nói tương lai tùy thuộc hiện tại, nếu hiện tại ta có hạnh phúc thì chắc chắn là ta sẽ có hạnh phúc trong tương lai.

Kinh Giáo Hóa Người Bệnh

Sau khi đã thực tập dưới sự hướng dẫn của thầy Xá Lợi Phất thì ông Cấp Cô Độc thoát ra khỏi sự sợ hãi. Người sắp chết thường rất sợ hãi, họ không biết mình sẽ đi về đâu. Biết rõ tính của vạn pháp là không tới, không đi, không có, không không, không sinh, không diệt thì cư sĩ Cấp Cô Độc chết một cách rất nhẹ nhàng. Cư sĩ đã nhắn lại một thỉnh cầu: Phần lớn người cư sĩ chỉ lo chuyện làm ăn, buôn bán, gia đình, sự nghiệp mà không có thì giờ để học hỏi giáo pháp nhiều. Tuy vậy trong số cư sĩ cũng có những người có khả năng và thì giờ để tiếp thu và hành trì giáo pháp mầu nhiệm mà thầy Xá Lợi Phất đã trao truyền hôm nay. Xin thầy A Nan về bạch với Đức Thế Tôn cũng nên ban phát giáo lý bất sinh bất diệt, vô khứ vô lai cho người cư sĩ.

Vì vậy trong những khóa tu Làng Mai tổ chức tại Âu Châu hay Mỹ Châu đều có một bài giảng cuối cùng về không sinh không tử. Đó là thể theo lời thỉnh cầu của cư sĩ Cấp Cô Độc, một khóa tu bảy ngày mà không có giáo lý về sinh tử để đáp ứng lại mối quan tâm tối hậu thì vẫn còn chưa đầy đủ.

(Làng Mai)

VĂN BẢN:

KINH NGƯỜI ÁO TRẮNG, Thích Nhất Hạnh

KINH GIÁO HÓA BỊNH [1] Thích Tuệ Sỹ dịch

KINH GIÁO HÓA NGƯỜI BỆNH Thích Nhật Từ

KINH ĐỘ NGƯỜI HẤP HỐI Thích Nhất Hạnh dịch

NGHE NHÌN (VIDEO)

 


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn