Bài Thứ 12: Chương Hiền Thiện Thủ

23 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 15612)

PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành 1997
KHOÁ THỨ 8: KINH VIÊN GIÁC

BÀI THỨ MƯỜI HAI

C. PHẦN LƯU THÔNG

1. Ngài Hiền Thiện Thủ bồ tát hỏi Phật
2. Phật khen ngài Hiền Thiền Thủ bồ tát
3. Phật nói tên kinh này
4. Phật nói công đức trì kinh này
5. Phật khuyên các Đệ tử phải bảo hộ người trì kinh này
6. Các vị Thiện thần phát nguyện bảo hộ người tu hành

 

XII. CHƯƠNG HIỀN THIỆN THỦ

 

1. Ngài Hiền Thiện Thủ bồ tát hỏi Phật

Khi ngài Hiền Thiện Thủ bồ tát ở trong đại chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, rồi quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:

-Bạch đức Đại bi Thế Tôn, ngài đã vì chúng con và các chúng sanh đời sau, rộng rãi giảng dạy cho chúng con hiểu ngộ được những việc không thể nghĩ bàn.

Bạch Thế Tôn:

-Kinh Đại thừa này tên gì?

-Chúng con làm sao phụg trì?

-Chúng sanh tu theo kinh này sẽ được công đức gì?

Chúng con làm sao bảo hộ những người thọ trì kinh này?

-Phải truyền bá kinh giáo này ở địa vị nào?

Ngài Hiện THiền Thủ bồ tát, thưa thỉnh như vậy ba lần, kính cẩn lạy Phật rồi trở lui.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn kinh này có hai phần:

a. Ngài Hiền Thiện Thủ bồ tát tán thán Phật, vì chúng sanh giảng giải những việc không thể nghĩ bàn

b. Bồ tát hỏi Phât năm điều

1. Kinh này tên là kinh gì?

2. Làm sao phụng trì?

3. Chúng sanh tu theo kinh này sẽ được công đức gì?

4. Làm sao bảo hộ người thọ trì kinh này?

5. Truyền bá kinh này ở địa vị nào?

 

***

2. Phật khen ngài Hiền Thiện Thủ bồ tát

Khi ấy đức Thế Tôn khen ngài Hiền Thiện Phủ Bồ tát và dạy rằng:

-Này Thiện nam, hay lắm và quý lắm! ông vì các vị bồ tát và chúng sanh đời sau, thưa hỏi Như Lai tên kinh và công đức trì kinh này, các ông nên chăm chú nghe lời ta chỉ giáo.

 

LƯỢC GIẢI

Vì muốn cho mưa Pháp gội nhuần chúng sanh đời sau, nên Ngài Hiền Thiện Thủ Bồ tát đứng lên hỏi Phật về việc thọ trì và truyền bá kinh này. Đoạn này Phật khen ngài Hiền Thiện Thủ và bảo phải chăm chú nghe lời Phật chỉ giáo

 

***

3. Phật nói tên kinh này

-Này Thiện nam! Kinh này không phải chỉ mình ta nói, mà các đức Phật trong 10 phương nhiều như trăm ngàn muôn ức lần số cát sông Hàng, cũng đều nói kinh này. Các đức Phật trong 3 đời đều bảo hộ kinh này. Mười phương các vị Bồ tát đều quy y kinh này. Kinh này là tròng con mắt của 12 bộ kinh. Kinh này có 5 tên:

1. Đại Phương Quảng Viên Giác Đà La Ni Kinh

2. Tu Đa LA Liễu Nghĩa kinh

3. Bí mật Vương Tam muội kinh

4. Như Lai quyết định cảnh giới kinh

5. Như Lai tạng tự tánh sai biệt kinh

Các ông phải hết lòng cung kính phụng trì kinh này.

 

LƯỢC GIẢI

Kinh này nói về tánh “Viên giác”. Người ngộ nhập được tánh Viên gaíc thì thành Phật, còn không ngộ được thời làm chúng sanh.

Mục đích của Phật ra đời là dod65 chúng sanh thành Phật song chúng sanh có nhập Viên giác mới được thành Phật. Vì thế nên hằng sa đức Phật ra đời, đều nói kinh Viên giác.

Vì kinh Viên giác rất quý báu như thê,1 nên các đức Như Lai trong 3 đời thường giữ gìn và bảo hộ kinh này. Mười phương các vị bồ tát đều quy y kinh này, vì quy y kinh này là quy ý tánh Viên giác.

Giáo pháp của Phật tuy nhiều, nhưng tóm lại chia ra có 12 bộ kinh, tức là 12 loại kinh. Kinh nào cũng đều nhắm một mục did1ch là dạy chúng sanh tu hành thành Phật; mà muốn thành Phật thì phải nhập Viên giác. Bởi thế nên kinh này “tròng con mắt” của 12 bộ kinh

“12 Bộ kinh” - Phật ra đời thuyết pháp 40 năm, tóm lại có 3 tạng: Kinh, Luật, và Luận; phân ra 12 bộ, tức là 12 loại

Có bài kệ tóm 12 bộ kinh:

TRường hàng, Trùng tụng và Cô khởi

Thí dụ, Nhơn duyên cùng Tự thuyết

Bổn sanh, Bổn sự, Vị tằng hữu

Phương quảng, Luận nghị và ký biệt

Kinh này có nhiều đức tính và nhiều công dụng nên có nhiều tên:

a. Đại phương Quảng Viên giác Đà La Ni kinh

Tánh Viên gíc Quảng đại phương viên bao trùm và gìn giữ các Pháp.

“Đà La Ni”, Tàu dịch là “Tổng Trì”: bao trùm và gìn giữ các Pháp

1. Pháp Đà La Ni. - Chỉ một chữ, một danh hiệu hay một câu, mà abao trùm tất cả chữ, tất cả danh hiệu và tất cả câu.

2. Nghĩa Đà La Ni – Như nói Chơn như, Duy tâm, Duy thức, Pháp giới v.v.. đều đã tóm thâu sự vật sai biệt.

3. Định Đà La Ni – Do sức Định mà tinh thần thống nhất tập trung lại, nên phát huy được lực lượng rất mạnh, nhờ đó mà thành tựu được nhiều môn Định (Định Tổng trì).

4. Chú Đà La Ni. - Tức là thần chú. Do hành giả tập trung tinh thần trì chú, nên có sức mạnh làm cho hành giả được toại bản nguyện của mình.

b. “Tu Đa La Liễu Nghĩa”. - Chữ “Tu Đa La”, tàu dịch là “Khế kinh”. Nghĩal à kinh này hiệp với chơn lý và căn cơ của chúng sanh.

Chữ “Liễu Nghĩa”: Nghĩ alý rốt ráo đứng đắn. Kinh của Phật có hai loại:

1. Bất liễu nghĩa kinh là những bộ kinh Phật tùy quốc độ, tùy thời đại và tùy căn cơ, mà phương tiện nói ra, như các kinh về tiểu thừa, nghĩa lý chưa rốt ráo.

2. Liễu nghĩa kinh là những bộ Kinh nghĩa lý rốt ráo đúng đắn, Phật nói đúng chân lý không có tùy thời tuỳ cơ v.v.. Như các kinh Đại thừa. Kinh “viên giác” đây thuộc về kinh Liễu Nghĩa.

c. “Bí Mật Vương Tam muội”. - Chữ “Tam muội” tức là “Tam ma địa”, Tàu dịch:

1. Đẳng trì

2. Chánh định

3. Chánh thụ

4. Chánh tư duy

Viên giác Tam muội này cao cả hơn các pháp Tam muội cho nên gọi là “vương” (vua).

Chữ “Bí mật. – PHáp Viên giác tam muội này, duy có Phật mới hoàn toàn thấu rõ được; ngoài ra như chúng sanh thời không biết, cho đến bực đẳng giác bồ tát cũng chưa có thể thấu tột được, cho nên nói là “bí mật”.

d. “Như Lai quyết định cảnh giới kinh”. - Cảnh giới Viên giác này duy có đức Như Lai mới quyết định chứng nhập được. Từ bực đẳng giác Bồ tát trở xuống, ở trong vòng cầu chứng nhập, nên chưa quyết định được.

e. “Như Lai tạng tự tánh sai biệt kinh”. - Chữ “Như Lai tạng”, nghĩa là “Như Lai” còn tại triền. Bởi các vọng huyễn chưa viễn ly. Giác tánh chưa phát hiện. Nghĩa là “quả đức Như Lai” còn bị tiềm tàng ẩn phục trong tâm của chúng sanh; tức là tánh Viên giác còn bị triền phược vậy.

CHữ “Tự tánh”: TÁnh Viên giác tùy duyên ứng hiện ra các pháp sai khác, nên gọi là “sai biệt”.

 

***

4. Phật nói công đức trì kinh này

-Này Thiện nam! Kinh này nói về cảnh giới của Như Lai, nên duy có Phật mới hay biế,t còn các vị Bồ tát và chúng sanh đời sau, chỉ y theo đây tu hành lần hồi tiến đến địa vị Phật.

Này Thiện nam! Kinh này tên “Đại thừa đốn giáo”. Những chúng sanh đốn cơ mới có thể do kinh này được khai ngộ. Kinh này cũng tiếp độ các chúng sanh về tiệm tu. Bởi thế nên kinh này cũng như biển cả, không nhượng các dòng sông nhỏ. Lớn như Thần A Tu La và nhỏ như loài mòng muỗi, uống nước biển đều no bụng cả.

Này thiện nam! Giả sử có người dùng t oàn 7 món báu, chứa đầy cả đại thiên thế giới, đem ra bố thí; công đức của người ấy rất lớn, nhưng không bằng có người nghe tên kinh này, cho đến chỉ nghe nghĩa một câu, công đức người này nhiều hơn.

Này thiện nam! Giả sử có người giáo hóa chúng sanh tu hành chứng được quả A La Hán nhiều đến trăm lần số cát sông Hằng, nhưng không bằng có người giảng nói kinh này, cho đến rất ít là chỉ giảng nửa bài kệ, công đức của người sau này nhiều hơn.

Này thiện nam! Nếu có người nghe kinh này tin tưởng không nghi ngờ, thì biết người đó đã trồng phước huệ không những ở một đời Phật, hoặc hai đời P hật, mà người này đã trồng căn lành từ nhiều đời Phật, như số cát sông Hằng; cho nên nay nghe đến kinh này mới hay tin thọ.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này có 5 phần:

1. Kinh này nói về cảnh giới viên giác nên duy có Phật mớihay thấu triệt, còn từ các vị Bồ tát trở xuống chỉ y theo đây tu hành mà thôi

2. Kinh này thuộc về Đại thừa đốn giáo, nên rất hợp với những người căn cơ Đại thừa đốn ngộ. Song kinh này cũng tiếp độ các người căn cơ Tiểu thừa tiệm tu; thí như biển cả không nhượng các dòng sông. Tất cả chúng sanh lớn như A Tu La (Dụ đại thừa) nhỏ như mòng muỗi (dụ nhị thừa) uống nước biển đều được no cả.

“Đốn giáo”. – Ngài Phổ Hiền phân TÂm tạng kinh giáo của Phật làm năm thời:

1. Tiểu (tiểu thừa)

2. Thỉ (đại thừa thỉ giáo)

3. Chúng (Đại thừa rốt sau)

4. Đốn (Đại thừa đốn giáo - Chữ “Đốn” là mau lẹ, nhanh chóng)

5. Viên (Đại thừa viên mãn)

Ngài Thiên Thai lại phân làm bốn thời:

1. Tạng (tiểu thừa tạng giáo)

2. Thông (Thông đến đại thừa)

3. Biệt (đặc biệt Đại thừa)

4. Viên (đại thừa viên giáo) 

3. Phật dạy người thọ trì kinh này, công đức quý hơn người bố thí bảo vật. Người dùng bảy món báu đụng đầy cả Đại thiên thế giới, đem bố thí cho chúng sanh, công đức của người ấy tuy lớn, nhưng thuộc vè phước hữu lậu, nên chỉ hưởng trong một thời gian rồi hết. Không bằng người nghe tên kinh này, cho đến chỉ nghe một câu nghĩa, tuy rằng ít, nhưng đã gieo được hạt giống vô lậu thanh tịnh, không sớm thì muộn, thế nào cũng được quả vô lậu, nên quý hơn tài thí.

4. NGười giảng kinh này, công đức nhiều hơn người giáo hoá vô số hàng Nhị thừa. Vì giáo hóa vô số người chứng quả Nhị thừa, công đức tuy lớn, nhưng chỉ thuộc về Tiểu thừa quả, nên không bằng người y theo kinh liễu nghĩa Đại thừa nói một câu hay một bài kệ, làm cho người ngộ được tánh Viên giác, không sớm thì chày người ấy quyết định sẽ được thành Phật. Ví như các ngôi sao tuy nhiều, nhưng sáng không bằng một mặt trăng.

5. Người nghe kinh này mà sanh tâm vui mừng, ham mộ và tin tưởng, không nghi ngờ, thì biết người này đã có trồng hạt giống đại thừa, từ nhiều đời đức Phật.

 

***

5. Phật khuyên các đệ tử phải bảo hộ cho người trì kinh này

-Này Thiện nam! Các ông phải bảo hộ những người tu hành đời mạt pháp, chớ để cho các loài ác ma và ngoại đạo làm não loạn thân tâm của người tu hành, khiến cho họ thối tâm.

 

LƯỢC GIẢI

Đời mạt pháp, chúng ngoại đạo tà sư rất thạnh hành hay làm nhiễu loạn đến người tu hành. NẾu không bảo vệ giữ gìn, thì hành giả sẽ bị chúng ma nhiễu hại, rồi phải thối chí ngã lòng.

 

***

6. Các vị thiện thần phát nguyện bảo hộ người tu hành

Khi ấy ở trong pháp hội có tám vạn Thần Kim CAng như ông Hỏa Đầu kim Cang, Tối Thoái Kim Cang, Ni Lam Bà Kim Cang, cùng với quyến thuộc liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, rồi kính cẩn lạy Phật và thưa rằng:

-BẠch Thế Tôn! Nếu các chúng sanh đời sau, có người nào thọ trì kinh Đaị thừa này, thì chúng con nguyện bảo hộ người ấy giữ gìn tròng con mắt; cho đến chỗ đạo tràng của người này tu hành, chúng con cũng nguyện dẫn hết binh tướng đến đó, sớm chiều bảo hộ, khiến cho họ chẳng thối chuyển. Chỗ nhà cửa của người này ở, hằn không có tai chướng, các tật bịnh đều tiêu hết, của báu giàu có, thường chẳng thiếu thốn.

Khi ấy ông Đại Phạm Vương và 28 vị Thiên Vương,cùng ông Tu Di Sơn Vương và Hộ Quốc Thiên Vương v.v... đều đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật ba vòng rồi kính cẩn lạy Phật và thưa rằng:

-Bạch Đức THế! Chúng con cũng nguyện bảo hộ người thọ trì kinh này, thường được an ổn, tâm chẳng thối lui.

Khi ấy có Đại Lực Quỷ Vương, tên là Cát BÀn Trà cùng với 10 vạn Quỷ Vương, đứng dậy đi quynh bên hữu của Phật ba vòng, rồi lạy Phật và thưa rằng:

-Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con cũng nguyện sớm chiều hộ vệ người thọ trì kinh này, khiến cho họ không thối lui. Chỗ của người trì kinh ở, trong khaỏng một do tuần (10 dặm) nếu có chúng quỷ thần nào đến xâm phạm cảnh giới này, thì chúng con sẽ đập nó nát như vi trần.

Khi ấy tất cả Đại chúng như các vị Bồ tát, thiên long, Quỷ thần, quyến thuộc của 8 bộ Quỷ thần và chư thiên, PHạm vương v.v.. nghe Phật nói kinh này đều hoan hỷ, tín thọ và phụng hành

 

LƯỢC GIẢI

Chương thứ 12 này là nói về việc truyền bá lưu thông. Thính chúng trong pháp hội, trên từ các vị đại Bồ tát dưới cho đến chúng quỷ thần, nghe Phật nói kinh này, từ chương thứ 11 là chương Viên giác rồi, tất cả đều lấy làm quý báu vô cùng, lợi lạc cho chúng sanh vô tận, nên hớn hở vui mừng, tin thọ và phụng hành. Bởi thế nên các vị Thiện thần đều phát nguyện bảo hộ kinh và triệt để ủng hộ người thọ trì đọc tụng kinh này.

CHúng ta chắc đã có trồng căn lành từ nhiều đời trước, cho nên hôm nay mới có diễm phúc được nghe kinh này. ước mong qúy vị mỗi ngày nên phát Bồ đề tâm tu hành và truyền bá kinh này được phổ cập quần sanh. Thế là chúng ta đã đền đáp được ơn Phật mà cũng thực hành theo hạnh Phật là “Tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn”.

 

CHUNG

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
09 Tháng Năm 2016(Xem: 10797)
19 Tháng Ba 2016(Xem: 8380)
Bịnh trầm kha của con người là thích tìm tòi những giải đáp thắc mắc cao siêu để thỏa mãn óc hiếu kỳ mà thiếu thực tế với đời sống, thích luận bàn những việc xa vời viễn vong không tưởng hơn là thực hành để đem lại an lành hạnh phúc bản thân. Chứng bịnh trầm kha nầy đã đẩy con người sống chơi vơi trong huyền đàm phiếm luận của thiết thực đến đời sống đạo đức tiến bộ. Vì vậy số người mang danh hành đạo thì nhiều mà chứng đạo thì gần như gợn mây mỏng trong bầu trời giáo pháp. Để tránh mắc phải bịnh năng thuyết bất năng hành, cổ đức đã khuyên: Muốn đạt thành tâm nguyện tiến bộ thì cần phải “tri hành hợp nhất, trí đức tương ưng”.
22 Tháng Ba 2016(Xem: 7279)
Kinh tâm - Bát nhã ba la mật đa là một bản kinh được rút ra từ bộ kinh Đại Bát nhã, gom lại thành 262 từ. Qua nhiều thế hệ dịch thuật, các dịch giả đã viết bài kinh này lên lá bối. Đến thế kỷ thứ VII, ngài Huyền Trang đã cho khắc bản kinh tâm này vào đá ở tại chùa Bạch Mã, nơi ngài trụ trì.
22 Tháng Ba 2016(Xem: 6489)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực. Khi Tỳ-kheo-ni đi khất thực ở thành Xá Vệ và trở về, sau bữa thọ trai của mình, Tỳ-kheo-ni đi đến vườn cây của ông Cấp-Cô-Độc để nghỉ vào ban ngày. Khi vào sâu trong vườn cây Cấp-Cô-Độc, Tỳ-kheo-ni ngồi xuống dưới một gốc cây để thiền quán.
02 Tháng Giêng 2016(Xem: 7623)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”. Trong kinh có sử dụng hình ảnh chiếc lưới để ví với sự mất tự do của một người khi bị vướng vào ái dục.
18 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 8939)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinh là bài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông được nhiều người đọc thuộc, nhưng về ý nghĩa thì cũng có nhiều gút mắc vì kinh được tụng đọc bằng âm Việt nhưng phải hiểu theo nghĩa tiếng Hán. Nhân 3 tháng an cư Kiết Đông 2015 tại Tổ Đình Thiền Tánh Không, Perris, California, chúng tôi được giảng dạy và ôn tập lại bài kinh này và hôm nay có ý muốn ghi lại chia sẻ cùng các bạn có nhu cầu muốn nghiên cứu tìm hiểu.
29 Tháng Năm 2015(Xem: 8378)
Viên Giác là Chân Tâm thanh tịnh của chư Phật, của tất cả chúng sanh cùng toàn thể vũ trụ. Như thế tôi nghe, một thời Phật nhập chánh định thần thông Đại Quang Minh Tạng, là chỗ trụ trì quang nghiêm của tất cả Như lai, đó chính là giác địa thanh tịnh của tất cả chúng sanh. Thân tâm tịch diệt, bình đẳng suốt ba đời, viên mãn khắp mười phương
22 Tháng Năm 2015(Xem: 14385)
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đưa người ta đến một sự chuyển hóa toàn triệt và toàn diện cuộc đời sanh tử khổ đau manh mún bởi chia cắt, phân biệt, oán ghét và xung đột của mình bằng cái thấy biết chân thật của Phật (tri kiến Phật).
16 Tháng Năm 2015(Xem: 12982)
Năm 2003, tôi cho ấn hành cuốn Nghĩ Từ Trái Tim, viết về Tâm Kinh. Thật ngạc nhiên, nhiều bạn đọc gần xa rất chia sẻ, có bạn lại mong có được bản dịch Anh ngữ để cho con em họ – thế hệ thứ hai – ở hải ngoại không rành tiếng Việt được đọc và hiểu Tâm Kinh Bát Nhã. Đến năm 2008, sau khi nghiền ngẫm, thực hành Kim Cang, tôi cho ra mắt cuốn Gươm Báu Trao Tay,