02. Phẩm Phương Tiện

26 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 10732)

KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI
Lê Sỹ Minh Tùng
PL. 2556 DL. 2012

Chương Thứ Hai

Phẩm PHƯƠNG TIỆN

Download Giọng Đọc: Nguyên Hà & Mỹ Ngân

 

Phương là phương pháp và tiện là tiện dụng. Theo tiếng Phạn, phương tiện là Upaya, có nghĩa là những phương pháp đem ra ứng dụng tùy theo căn cơ, hoàn cảnh xã hội và trình độ của mọi chúng sinh để thiết lập và giải quyết tạm thời mà đưa chúng sinh vào con đường giải thoát giác ngộ tức là nghiệm chứng Chân lý. Mà Chân lý chỉ có thể thực chứng chớ không thể diễn bày bằng ngôn ngữ hay kinh điển vì thế giáo lý nhà Phật không có mục đích trình bày Chân lý mà chỉ muốn dùng phương tiện để hướng dẫn người tu hành sáng suốt để tự mình đạt đến cứu cánh tối thượng là chứng được Chân lý. Một phương tiện cho dù thiện xảo tới đâu cũng không thể nào áp dụng cho tất cả mọi trường hợp và cho tất cả mọi người vì thế mà Đức Thế Tôn mới chế ra 84 ngàn pháp môn tức là 84 ngàn phương tiện và cũng là 84 ngàn cánh cửa để đi vào căn nhà giác ngộ. Chúng ta tham thiền, niệm Phật, trì chú, tu theo Tứ Diệu đế, Thập nhị Nhân Duyên hay Lục độ ba-la-mật, tu nhà, tu chợ, tu chùa …tất cả đều là phương tiện. Vì thế tất cả những phương pháp tu trên thế gian nầy chỉ là phương tiện, những liều thuốc nhiệm mầu giúp chúng sinh phá tan màng vô minh hắc ám mà thấy được ánh sáng Chân Lý. Nhưng phương tiện không phải là cứu cánh. Phương tiện là nhân mà cứu cánh mới là quả. Phương tiện là giả mà cứu cánh là thật. Cái vô minh lớn nhất của con người là chấp phương tiện với cứu cánh. Vì thế người tu Phật chỉ nương theo phương tiện để đạt cứu cánh, nương theo ngón tay để thấy mặt trăng. Nhưng đừng lầm phương tiện là cứu cánh, đừng nhìn ngón tay mà quên đi mặt trăng và đừng chấp kinh điển là Chân lý. Đừng nhìn vào ngón tay chỉ mặt trăng mà quên đi luồng ánh sáng tuyệt vời phát xuất từ mặt trăng. Do đó khi đạt được cứu cánh thì phải bỏ phương tiện, hết bệnh thì bỏ thuốc, tới bờ thì phải bỏ chiếc bè để lên bờ giác ngộ chớ đừng vác bè lên vai mà thêm nặng nhọc khổ đau.

Phẩm Tựa đã trình bày nhân duyên của bộ kinh này. Sau phần nhân duyên, kinh giới thiệu phẩm Phương tiện, là phẩm cương lĩnh nói lên điều quan trọng, thiết yếu của kinh. Và sau đó, từ phẩm thứ hai đến phẩm thứ chín sẽ bổ túc làm cho phẩm Phương tiện được thấu hiểu nhiều hơn.

Bấy giờ đức Thế Tôn xuất định bảo Xá-Lợi-Phất:

-Trí tuệ của chư Phật sâu sa vô lượng, hàng Thanh Văn, Duyên Giác, Bích-Chi-Phật không thể biết được. Bởi vì trí tuệ đó là kết quả của quá trình gần gũi vô số chư Phật, tu hành vô lượng đạo pháp viên mãn, dũng mãnh tinh tấn. Trí tuệ và sự hiểu biết sâu xa chưa từng có của Phật, giáo hóa theo thời, tuy cơ nói pháp ý nghĩa khó lường.

Trong phẩm Tựa, đức Phật phóng hào quang, hiện điềm lành rồi nhập chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ. Đến phẩm này, đức Phật nhận biết căn cơ của thính chúng đã thuần thục nên Ngài mới xuất định để nói thời pháp tối quan trọng mà Ngài đã ấp ủ suốt 40 năm. Vậy nỗi niềm của Phật là gì? Sau khi Ngài thành đạo, Phật bắt đầu nói tam tạng kinh điển theo thứ lớp nào là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát thừa. Nhưng đây chỉ là quyền, là phương tiện chớ chưa phải là cứu cánh. Thế mà hàng Thanh Văn sau khi công phu khổ hạnh, chứng đắc thánh quả A la hán thì cho rằng đã đạt đến cứu cánh viên mãn nên trên chẳng cần cầu Phật đạo và dưới cũng chẳng quan tâm đến độ chúng sinh nghĩa là lối tu hành như vậy chỉ lợi mình mà chẳng lợi người. Cao hơn nữa, hàng Duyên Giác tu theo giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên trở thành Bích Chi Phật cũng thế. Các ngài cho rằng mục đích tối hậu để có giải thoát Niết bàn đã thành tựu nên không có gì để học nữa. Đến thời điểm này, Phật bắt đầu khai thị một tư tưởng hoàn toàn mới lạ đối với họ chẳng khác nào như một tiếng sét đánh ngang tai làm mọi người choáng váng. Sở dĩ đức Phật có trí tuệ siêu việt là vì Ngài gần gũi với vô số chư Phật trong khắp mười phương thế giới nên có cơ hội tu vô lượng pháp. Do đó đức Phật giáo hóa chúng sinh tùy thời, tùy cơ nên không có chúng sinh nào mà không được độ.

Xá-Lợi-Phất ! Sau khi thành Phật Như Lai vận dụng nói nhiều thí dụ, phân tích các thứ nhân duyên, diễn bày nhiều ngôn giáo, linh họat trong vô số phương tiện dẫn dắt chúng sanh khiến cho xa lìa lòng chấp. Như Lai là bậc đầy đủ tri kiến và các Ba-la-mật. Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa. Tứ vô-ngại trí, thập trí-lực, tứ vô sở úy, thiền định, giải thoát tam-muội sâu thẩm và mênh mông không ngằn mé.

Như Lai tùy thời phân biệt khéo nói pháp, lời lẽ đẹp, đáp ứng sở thích của nhiều hạng căn cơ.

Tri kiến của Như Lai rộng có nghĩa là vô biên, lớn có nghĩa là vô thượng, sâu có nghĩa là khôn lường và xa có nghĩa là thời gian dài vô cùng vô tận trong đời tương lai.

Tứ Vô Ngại Trí: Dựa theo kinh Tăng Nhất A Hàm 21, kinh Đại Bát Niết bàn 15, Luận Đại Trí Độ 25, Luận Thành Thật 16, Luận Du Già Sư Địa 45 và kinh Pháp Hoa Huyền Tán 3 thì Như Lai có tứ vô ngại trí nghĩa là có pháp vô ngại, nghĩa vô ngại, từ vô ngại và lạc thuyết vô ngại.

1)Pháp vô ngại : Khi đã thành tựu trí tuệ thì nhìn vạn pháp thấy cái gì cũng đúng với chân lý nên khi thuyết pháp biến tất cả các pháp trở thành Phật pháp. Thí dụ như khi thấy lá rụng, tuyết rơi thì nghĩ ngay đến sự tạm bợ, vô thường. Vì thế Lục Tổ nói rằng:”Phật pháp tại thế gian bất ly thế gian giác” là như vậy.

2)Nghĩa vô ngại : là biết đúng nên nói đúng, nói chánh ngữ, đúng nghĩa, không sai chân lý.

3)Từ vô ngại : là lời nói trôi chảy, không ngăn ngại.

4)Lạc thuyết vô ngại là càng nói càng thêm phấn khởi, dồi dào phong phú chớ không bao giờ bị bế tắc.

Đứng về phương diện ý thức, tư tưởng thì tứ vô ngại được gọi là tứ vô ngại trí tức là do trí tuệ mà phát sinh ra bốn thứ vô ngại. Còn dựa trên ngôn từ diễn đạt mà nói thì gọi là tứ vô ngại biện tức là tứ vô ngại biện tài. Ngày xưa Lục Tổ Huệ Năng không biết chữ mà bất cứ kinh điển nào cũng có thể giảng giải được vì Ngài có tứ vô ngại giải, nghĩa là đọc kinh, nghe kinh thì biết ngay ý nghĩa mà khỏi cần nghiên cứu.

Thập Trí Lực: Dựa theo kinh Tạp A Hàm 26, kinh Hoa Nghiêm 17 phẩm Kiến Lập, kinh Bồ tát Địa trì 10, Luận Câu Xá 27 và Luận Đại Tì-bà-xa 30 thì Thập Trí Lực là đại uy lực, có công năng diệt trừ oán địch, làm lợi ích cho loài hữu tình và rốt ráo chiến thắng hàng phục được mọi ma oán. Mười trí lực của Như Lai, đó là:

1)Xứ phi xứ trí lực: Xứ nghĩa là đạo lý. Trí lực nầy giúp Như Lai biết một cách chắc thật đối với tất cả nhân duyên quả báo do đó nếu tạo thiện nghiệp thì biết nhất định sẽ được quả báo lành, thọ lãnh cái vui. Đó là tri thị xứ.

2)Tự nghiệp trí lực hay còn gọi làNghiệp dị thục trí lực. Như Lai biết rõ nghiệp duyên, quả báo sinh xứ trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai của tất cả chúng sinh.

3)Tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực: Như Lai tự tại, vô ngại đối với các thiền định, biết khắp và đúng như thật theo thứ tự từ cạn đến sâu.

4)Căn thắng liệt trí lực: Như Lai biết đúng như thật các căn tánh thắng liệt. Đối với bậc Trung thì gọi là Thắng còn đối với bậc Thượng thì gọi là Liệt. Ngay cả những quả vị từ thấp đến cao, Như Lai cũng biết rõ.

5)Chủng chủng thắng giải trí lực: Như Lai biết đúng như thật các thứ dục lạc, thiện ác khác nhau của chúng sinh.

6)Chủng chủng giới trí lực: Như Lai biết khắp và đúng như thật về các giới phần khác nhau của chúng sinh ở thế gian.

7)Biến thú hành trí lực: Như lai biết khắp và đúng như thật về nơi đến của hạnh hữu lậu là lục đạo, nơi đến của hạnh vô lậu là Niết bàn.

8)Túc trụ tùy niệm trí lực: Như Lai biết khắp và đúng như thật đối với các túc mạng, một đời cho đến trăm nghìn muôn kiếp, chết đây sinh kia, chết kia sinh đây, khổ vui thọ mạng.

9)Sinh tử trí lực: Như Lai dùng thiên nhãn biết đúng như thật về thời gian sinh tử của chúng sinh và cõi thiện cõi ác ở đời vị lai, cho đến các nghiệp duyên thiện ác như đẹp xấu, giàu nghèo.

10)Lậu tận trí lực: Như Lai đã đoạn hẳn các tập khí tàn dư vĩnh viễn chẳng còn sinh khởi. Như Lai biết khắp và đúng như thật. 

Tứ Vô Sở Úy: Dựa theo Luận Đại Trí Độ, Luận Thành Thật. Tạp A tì đàm Tâm luận, Luận Du-Già Sư Địa, Đại Thừa Nghĩa Chương 19 và Thuyết Vô Cấu Xứng Kinh Sớ thì Tứ vô sở úy là bốn sự tự tin , không sợ hãi, dũng mãnh và an ổn của Phật khi thuyết pháp. Dựa theo kinh Tăng Nhất A hàm 19, 42 thì Tứ Vô Úy của Phật gồm có:

1)Chư pháp hiện đẳng giác vô úy: Đối với các pháp đều giác biết, trụ trong chánh kiến, không khất phục điều gì và có sự tự tin không sợ hãi.

2)Nhất thiết lậu tận trí vô úy: Đoạn hết tất cả phiền não nên không có sự sợ hãi từ các chướng nạn bên ngoài.

3)Chướng pháp bất hư quyết định thọ ký vô úy: Nói rộng về pháp tu hành chướng ngại, đồng thời không sợ hãi đối với bất cứ một sự bắt bẻ nào.

4)Vị chứng nhất thiết cụ túc xuất đạo như tánh vô úy: Giảng nói đạo xuất thế không hề sợ hãi điều gì.

Thí dụ kinh dạy rằng: ”Thế tôn tự xưng là đấng Chánh đẳng chánh giác”. Thế mà khi có vị Tỳ kheo từ phương xa đến thì Phật thường hỏi thăm rằng: ”Trụ có an lạc không? Hay là Khất thực có được không?”. Trong đám Tỳ kheo có người liền đặt câu vấn nạn rằng: ” Nếu Phật là bậc Chánh đẳng Chánh giác thì việc gì chẳng biết, thế mà nay lại hỏi người khác, sao lại có chuyện trái ngược như vậy?”. Phật mới trả lời rằng: ”Sở dĩ ta hỏi là vì để chinh phục kẻ đến khiến họ phát tâm thắng trội, nghe Phật thăm hỏi sẽ phát Bồ-đề tâm. Làm thế để mọi người thấy rằng Phật biết mà còn hỏi, huống hồ những người khác chẳng biết”. Do đó đối với Phật thấy người đến phát tâm thì dẫn nhiếp, thăm hỏi chớ chẳng phải là Phật chẳng biết. Vì thế Như Lai đối với những lời vấn nạn này vì có chánh kiến nên không nao núng, được an lạc trụ. Dù gặp vấn nạn, đối phó với những kẻ dị tâm mà Như Lai vẫn thanh thản, tự tại và không hề hoảng sợ, thật xứng đáng với vô sở úy.

Một thí dụ khác là Tỳ kheo Thiên Thụ thường làm các việc ác nên bị Phật mắng mỏ. Ngược lại Chấp Nhật thường làm những điều tốt nên được Phật tán thán ngợi khen, nói lời yêm dịu. Thấy thế có kẻ vấn nạn rằng Phật tự xưng phiền não đã dứt, các lậu đã tận thế mà lại mắng mỏ nặng lời với Thiên Thụ và dịu dàng với Chấp Nhật tức là tham sân chưa dứt thì làm sao các lậu tận được? Đối với Phật, Thiên Thụ ví như con ngựa ác, phải đánh đau mới điều phục được. Nếu chẳng quát mắng thì y lại nói là “sợ ta”. Còn Chấp Nhật cũng như con voi tinh khôn biết chiều theo lòng người nên chỉ nói ngọt là thuần phục được ngay. Thế thì Phật chẳng phải là còn có tham sân và lậu chẳng hết.

Thiền địnhtrong Phật giáo là tỉnh lự, là suy tư, là Xam-ma-tha để chặn đứng tất cả vọng niệm không cần thiết. Còn những chân lý trong cuộc đời đòi hỏi sự tư duy thẩm chiếu để thấu biết tận cùng rốt ráo vì thế Phật giáo mới dạy tư duy tu để giúp hành giả tư duy tỉnh lự mà tự mình tìm ra ánh sáng chân lý của sự vật hiện tượng. Ngày xưa Đức Phật thiền định dưới cội Bồ-đề liên tiếp trong suốt 49 ngày đêm thì Ngài mới hoát nhiên đại ngộ. Có suy tư, thẩm lự mới thấy được ánh sáng nhiệm mầu. Từ nhận thức được chân lý đó giúp con người sống theo chân lý, sống đúng với chân lý và sống phù hợp với chân lý.

Thiền có tứ thiềnlà:

1)Sơ thiền tức là ly sanh hỷ lạc. Nếu chúng sinh biết lìa xa những tham vọng, những đòi hỏi quá đáng trong cuộc đời thì tâm họ bắt đầu thư giản, nhẹ nhàng mà thiền gia gọi là có niềm vui. Vì thế hành giả tu theo sơ thiền sẽ làm cho tâm dần dần biết viễn ly, xa lìa nhữngtrói buộc củangã và ngãsở khiến cho những căn bản phiền não tham sân si cũng dần dần tan biến. Càng viễn ly thì cường độ tham sân si càng giảm khiến cho thân tâm nhẹ nhàng thanh thoát khinh an tự tại. Do đó nếu muốn có sự an lạc thì phải chấp nhận viễn ly. Viễn ly càng nhiều sự trói buộc thì tâm càng nhẹ nhàng thanh thoát đến khi viễn ly tất cả, tâm không còn dính mắc, không còn gì trói buộc thì chứng được sơ thiềnvà thời điểm đóhành giả có được sựhỷ lạc.

2)Nhị thiền tức là định sinh hỷ lạc.

Hành giả sau khi vượt qua viễn ly tức là đến đây thì họ đã bỏ hết tất cả những ngoại duyên, nên họ có thể chú tâm để quán về một đối tượng sở quán nào đó. Thí dụ hành giả bây giờ xoay về quán vô thường để thấy biết rằng thân là vô thường, cảnh cũng vô thường và tất cả vật thể hữu vi đều là vô thường. Từ quán vô thường rốt ráo đó đưa hành giả trở về viễn ly, xa lìa không dính mắc tức là trở về lại với sơ thiền. Đến đây hành giả thấy thấu suốt được chân lý vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh của thế gian. Nói cách hành giả dùng những đối tượng vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh để quán và sau cùng thấy biết được bằng chính tri kiến của mình do sức công phu thiền định, quán chiếu thì thời điểm này hành giả chứng nhập những chân lý đó mà không phải cần qua sách vở nữa. Do đó nhị thiền là do sức công phu tu tập định tâm mà sinh ra hỷ lạc.

3)Tam thiền: tức là ly hỷ diệu lạc. Tại sao? Mặc dù hành giả vượt qua sơ thiền tức là đã viễn ly thập triền, thập sử và nhờ vào định quán chiếu của nhị thiền để thấu biết chân lý rốt ráo mà có hỷ lạc. Nhưng nếu hành giả còn dính mắc vào sự hỷ lạc tức là tâm vẫn còn đam mê thì có thể bị sai lầm. Do đó sau khi rời sơ thiền, nhị thiền để có hỷ lạc, nhưng cũng đừng đam mê cái hỷ lạc đó mà tâm tham phát khởi trở lại làm xóa sạch những viễn ly, tu định mà hành giả đã trì công tu tập lúc ban đầu. Hành giả phải sáng suốt thức tỉnh để biết rằng Hỷ lạc là kết quả của những viễn ly tham đắm dục tình mà có chớ không có gì đặc biệt. Thí dụ như có ly nước đục, nếu để yên thì ly nước sẽ trong tức là những vẫn đục lắng xuống, đó là bình thường chớ không có chi mừng cả.

Do đó nếu hiểu rằng hỷ lạc là kết quả của những viễn ly tham đắm dục tình và khả năng vào định mà có, tuy có hỷ lạc nhưng đừng đam mê vào nó vì nó đến rồi tự nó lại đi thì đạt được tam thiền. Khi bỏ được cái vui mừng này thì hành giả chợt cảm nhận một nỗi vui mầu nhiệm khác. Đó là sự diệu lạc thanh thoát khó diễn tả được vì thế tam thiền mới được gọi là “ly hỷ diệu lạc” là vậy. Hành giả thường có cảm giác tam thiền là vui hơn hết (diệu lạc) vì ở các cõi dưới thì chỉ biết những cái vui thô động, còn ở các cõi trên thì chỉ còn là tịch tịnh, không còn vui nữa.

4)Tứ thiền:tức là xả niệm thanh tịnh địa: Ở ba cấp thiền ở dưới, hành giả có hỷ lạc nhưng đừng tâm đừng chấp thủ để bắt đầu thực hành xả bỏ. Hành giả vào được tầng thiền này thì tâm hồn nhẹ nhàng thanh thoát vì đã xả bỏ hết tất cả những ý niệm làm khởi tâm bất tịnh. Đây chính là lúc thực hành chánh niệm rốt ráo vì chỉ còn giữ lại trong tâm niệm thanh tịnh trong sáng hoàn toàn còn tất cả những ý niệm khác xả bỏ hết. Đến đây hành giả không còn chấp thị phi phải quấy, không còn quan trọng giàu nghèo, địa vị quan tước, không tranh giành đố kỵ vì chả có gì để chấp thủ, để quan tâm, để lụy phiền cho nên không buồn, không giận, không say đắm và dĩ nhiên không còn lo lắng. Tóm lại, khi còn ở tam thiền hành giả tuy đã dứt hết cái vui thô động của sơ thiền và Nhị thiền, nhưng vẫn còn cái vui mầu nhiệm (diệu lạc). Nhưng hễ còn niệm vui thì tâm chưa hoàn toàn thanh tịnh. Bây giờ hành giả phải xả hết cái niệm vui thì thời điểm đó tâm trở thành hoàn toàn thanh tịnh.

Ngày xưa trước khi thành đạo, đức Phật có thọ giáo với hai vị thầy là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Ngài đã thực tập rất thành công pháp tu định gọi là Tứ Vô Sắc Định gồm có Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Mặc dù chứng đạt đến chỗ tột cùng của bốn tầng định trên, nhưng đức Phật xác định rằng những định này không đưa đến sự giải thoát và giác ngộ cho nên đức Phật từ bỏ và tự tìm cho mình con đường giải thoát khác. Điều này đã được xác định rất rõ ràng trong nhiều kinh điển. Sau khi chứng được tứ thiền, hành giả có thể (nếu muốn vì không cần thiết) đi vào Tứ không định, có nghĩa là khi vào bốn cái yên tịnh nầy thì hành giả sẽ không còn thấy có cảnh hay tâm thức nữa.

Tứ không địnhgồm có:

-Không vô biên xứ: Hành giả quán tưởng trống không, tức là từ trống không nhỏ tới trống không lớn và dần dần đến vô cùng vô tận.

-Thức vô biên xứ: Bây giờ hành giả bỏ cái không đó mà quay lại quán thức phân biệt của mình. Biết thức phân biệt không có tướng mạo, từ phân biệt thân đến phân biệt tâm và dần dần ra khắp hết vô cùng vô tận.

-Vô sở hữu xứ: sau đó tưởng thân tâm không có gì hết, rỗng tếch không chỗ nơi thì chứng được.

-Phi tưởng phi phi tưởng: Dù hành giả tưởng thân tâm là rỗng tếch, nhưng đây vẫn là tưởng. Sau cùng tiến lên đến chỗ không có tưởng mà không phải không tưởng.

Đến đây không còn tưởng thô, tưởng không, tưởng thức mà chỉ có tưởng vi tế, tức là tưởng rỗng tếch. Còn cái tưởng đó cũng phải bỏ mới qua Diệt Tận Định. Diệt Tận Định là ở trong định mà hành giả không có cảm thọ và không có tri giác nữa tức là không có sự hiện diện của thọ và tưởng.

Khi hành giả dùng Chỉ (xam-ma-tha) (định) và Quán (trí tuệ) để chứng được tứthiền thì họ có thể đi thẳng vào Diệt Tận Định (Diệt Thọ Tưởng Định) mà chứng được thanh tịnh Niết bàn và trở thành bậc A la hán. Ở trong Diệt Tận Định, hành giả bắt đầu tịnh khẩu, tịnh thân, tịnh ý và sau cùng là tịnh hơi thở. Người vào trong định này thì hơi thở không còn, nhưng sức nóng trong người vẫn còn và dĩ nhiên tất cả các căn vẫn trong sáng. Khi xuất Diệt Tận Định thì ý hành phát khởi trước nhất, rồi đến thân hành và sau cùng khẩu hành mới tác động. Cái khác nhau giữa người đi vào Diệt Tận Định và người chết là người đi vào định này cũng chấm dứt hơi thở, thân thể bất động, miệng không còn nói, nhưng hơi ấm vẫn còn nên không chết.

Trong Đại Trí Độ Luận có nói năm loại âm thanh từ miệng Phật nói ra là:

-Một là rất sâu như tiếng sấm.

-Hai là trong trẻo vang xa, ai nghe cũng ưa thích.

-Ba là nhập tâm, kính ái.

-Bốn là rạch ròi dễ hiểu.

Năm là người nghe không chán, phân biệt được các nghĩa hữu lậu, vô lậu...

Đức Phật dùng đủ thứ trí, đủ thứ phương tiện, nói rộng nói hẹp, nói quyền nói thật, nói lời lẽ êm diệu không ngoài mục đích đem đến sự lợi ích cho quần sanh khắp cả. Nhắc lại một lần nọ, Lục Tổ thấy hai vị tăng đang tranh chấp về gió thổi là phướng động. Một ông cho là gió động. Ông kia lại cho là là phướng động. Lúc đó Huệ Năng mới giải thích rằng chẳng phải gió động, cũng chẳng phải là phướng động mà chính là tâm của hai ông động. Khi tâm mình định thì thế giới bên ngoài an định. Ngược lại tâm mình không định thì nhìn thế giới bên ngoài chao đảo chông chênh. Tại sao? Bởi vì tâm định thì mình làm chủ tâm mình, không chạy theo vọng trần sinh diệt bên ngoài. Ngược lại, tâm không định thì mình mời khách trần phiền não bên ngoài vào cho nên thế giới thay đổi, biến chuyển thì tâm mình cũng thay đổi theo tức thì.

Tất cả giáo lý Như Lai giảng dạy bao nhiêu năm đưa hàng Thanh Văn vào vòng Thánh giả, chứng đắc quả vị A la hán, hàng Duyên Giác trở thành Bích Chi Phật có giải thoát Niết bàn thế mà trong hải hội Pháp Hoa, đức Phật phủ nhận, phủi bỏ hết. Ở đây, đức Phật chỉ phủi bỏ danh ngôn, cái chấp có chứng đắc, nhưng Ngài không phủ nhận cái chứng đắc từng phần của các vị Thanh Văn, Duyên Giác. Vì thế, để phá những chấp trước mê lầm này, đức Phật khẳng định rằng không có cái gì gọi là chứng đắc; không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo; không có Vô minh cũng không có cái hết Vô minh; không có trí tuệ cũng không có chứng đắc…Tóm lại, những gì Như lai dạy từ trước đến giờ chỉ là giáo lý phương tiện chớ không phải là chân lý. Vậy chân lý mà Phật muốn nói ở đây là gì? Đó là cứu cánh tối thượng của người tu là thành Phật chớ không phải thành Thanh Văn, Duyên Giác hay thành Bồ tát. Vì thế Phật nói kinh Pháp Hoa này là do một đại sự nhân duyên lớn mà Như Lai thị hiện ở thế gian để khai thị cho chúng sinh biết rằng ai ai cũng có thể trở thành Phật vì trong họ đã có sẵn Phật tánh rồi. Có thể nói kinh Pháp Hoa nâng cao nhân phẩm của con người lên tới chỗ tột đỉnh vì tất cả mọi người cùng chung bản thể, cùng có Phật tánh như nhau. Đây là tư tưởng đặc thù của Pháp Hoa. Bởi vì hàng Thanh Văn chấp mình chứng đắc A la hán, hàng Duyên Giác chấp mình chứng đắc Bích Chi Phật, nhưng dựa theo tinh thần Pháp Hoa thì sự chứng đắc chẳng qua là giả danh để chỉ cho hành giả đang đi trên con đường Vô Thượng Bồ đề biết là con đường đến Phật quả còn bao xa. Thí dụ A la hán là Hóa thành tức là họ đi được 50%, Bích Chi Phật thì xa hơn một chút khoảng 60-70% cho đến khi thành Phật thì được 100% tức là Bảo sở vậy. Mới nghe qua, tư tưởng Pháp Hoa xóa bỏ hết những ước mơ chứng đắc của tất cả mọi người, nhưng kỳ thật không có xóa bỏ gì hết. Chẳng những không xóa bỏ mà còn giúp hành giả phá cái cố chấp cho rằng chứng đắc là thật có. Ở đây, không có gì là chứng đắc cả. Ngay cả khi thành Phật là trở về với Căn Bản Trí đã có sẵn trong ta chớ không phải khi thành Phật mới có. Cái thành tựu duy nhất là hành giả phá tan màn vô minh thì lúc ấy Nhất Thiết Trí, Vô Sư Trí, Căn Bản Trí hiện bày thế thôi.

Phật lại dạy tiếp:

Nhưng, thôi đi! Xá-Lợi-Phất! Không cần nói nữa!

Bởi vì pháp ít có và khó hiểu bậc nhất mà Phật có, pháp đó chỉ có Phật với Phật mới hiểu biết thấu tột “Thật tướng”. Rằng:

Các pháp có Tướng của nó như vậy.

 “ Tánh của nó như vậy.

 “ Thể của nó như vậy.

 “ Lực của nó như vậy.

 “ Tác của nó như vậy.

 “ Nhơn của nó như vậy.

 “ Duyên của nó như vậy.

 “ Quả của nó như vậy.

 “ Báo của nó như vậy.

Và từ đầu chí cuối của nó như vậy.

Đệ tử Phật có hai hàng Pháp khí: Chân là các Tôn giả Xá Lợi Phất…và Giả là ám chỉ hạng Tăng tượng mạn. Đối với hạng Chân Pháp khí, tâm thánh đã đầy đủ, thích nghe diệu pháp nên tuy nghe Phật nói “Thôi đi! Không cần nói nữa” khiến họ nài xin vì họ nghĩ rằng Phật không cần nói nữa là Phật không muốn nói những pháp nào? Ngược lại, đối với hạng Giả pháp khí thì họ tự cho mình là tâm thánh đã đầy đủ, nhưng vẫn ngồi đó chưa đi đến khi nghe Phật bảo “Thôi đi! Không cần nói nữa” khiến họ đứng lên bỏ đi. Tại sao họ lại bỏ đi? Bởi vì họ nghĩ rằng tất cả các pháp giải thoát họ đều chứng được cả rồi cho nên chẳng còn pháp gì quan trọng để nghe Phật nói cả.

Tại sao Phật chẳng muốn nói nữa? Bởi vì kinh Pháp Hoa rất thâm sâu huyền diệu, không phải ai nghe cũng tin, cũng hiểu được. Chẳng những không hiểu, chúng sinh còn sinh tâm nghi ngờ phỉ báng mà tạo nghiệp. Cho nên đức Phật im lặng, chẳng nói pháp ít có khó tin vì chỉ có Phật với Phật mới thấu triệt thật tướng của các pháp là vô tướng. Trước hết, đức Phật giới thiệu một giáo lý hoàn toàn mới lạ để đưa các vị Thanh Văn, Duyên Giác có một cái nhìn, một nhận định chính xác về tánh “Như Thị” tức là “Như Vậy” của vạn pháp. Thập Như Thị là tinh hoa, là giáo lý rất thâm sâu của kinh Pháp Hoa bởi vì chỉ có Phật với Phật mới có khả năng thấy biết cùng tận thật tướng của các pháp. Đó là các pháp đều có như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh đẳng nghĩa là thật tướng của tất cả các pháp có đầy đủ 10 như thị. Thí dụ Như thị tướng (Tướng như vậy) nghĩa là hình tướng của vạn pháp như thế nào chúng ta chỉ nên thấy biết như thế ấy, đừng thêm, đừng bớt, đừng cộng ngã kiến vào thì chúng ta nhìn đúng “Như Thị Tướng”. Do đó khi nhìn đóa hoa thì biết là đóa hoa, đừng cho là hoa đẹp, hoa xấu, hoa tươi hay hoa héo…

Tóm lại, trong Thập Như Thị là:

1)Như thị tướng: Tất cả các vật thể trên thế gian này đều phải có sắc tướng.

2)Như thị tánh: Đã có sắc tướng thì phải có bản tánh.

3)Như thị thể: Có bản tánh thì phải có chất thể.

4)Như thị lực: Một khi vật chất có chất thể thì chắc chắn nó sẽ có năng lực.

5)Như thị tác: Có năng lực rồi thì nó sẽ tạo ra nhiều chức năng khác nhau.

6)Như thị nhân: Không có một hiện tượng vật chất hay tinh thần nào trên thế gian này có thể hiện hữu trên thế gian này một cách tự nhiên được. Vì thế cái gì cũng phải có nguyên nhân để phát sinh ra.

7)Như thị duyên: Một hạt cải nếu không có những trợ duyên như nước, phân bón, ánh sáng mặt trời…thì vĩnh viễn nó không bao giờ thành cây cải được.

8)Như thị quả: Nhân gặp duyên thì sẽ thành quả.

9)Như thị báo: Một kết quả không những chỉ tạo ra một hiện tượng mà nó còn lưu lại một tồn dư nào đó. Thấy một bà già qua đường (duyên), chúng ta đến để dìu bà ta (nhân). Nhờ đó mà bà già đi qua được an toàn (quả). Nhưng sau đó chúng ta cảm thấy lòng được hân hoan vì vừa làm mọt việc thiện thế thì cái cảm giác tốt chính là báo từ quả mà có.

10)Như thị bản mạt cứu cánh đẳng: Tất cả vạn pháp trong thế gian này lúc nào liên hệ, tương tục với nhau, làm nhân làm duyên làm quả cho nhau nên rất khó mà khẳng định cái nào là nhân, cái nào là quả. Tuy thế, chúng luôn vận hành dựa theo quy luật “Thập như thị” đó là từ đầu cho đến cuối đều hướng về một thật tướng và cứu cánh bình đẳng.

Con người vì không nhìn vạn pháp bằng “Như Thị” mà nhìn bằng những phạm trù đối đãi phân biệt cho nên mới sinh ra phải quấy, thương ghét, tốt xấu, thân sơ, vui mừng buồn giận…Nếu nhìn vạn pháp bằng tánh “Như Thị” thì đó là lối nhìn theo Tri Kiến Vô Kiến. Ngược lại nếu con người dựa theo thiển kiến chủ quan của mình mà nhìn vạn pháp thì chắc chắn họ sẽ đánh mất tánh “Như Thị” cho nên lối nhìn này chính là Tri Kiến Lập Tri có thể đưa con người đến những nhận định không chính xác, sai lầm, thiếu hoàn hảo.

Vì thế kinh Lăng Nghiêm có dạy rằng:

Tri kiến lập tri tức vô minh bổn,

 Tri kiến vô kiến tư tức Niết bàn.

Nghĩa là nếu con người lấy sự thấy biết bên ngoài đem vào tâm làm tâm phát khởi sự phân biệt khiến tham-sân-si dấy khởi thì đây là căn nguyên của vô minh. Còn thấy biết thì cái gì cũng thấy biết, nhưng không đem vào tâm thì thấy biết mà cũng như không thấy biết gì hết nên tâm hằng thanh tịnh thì đây chính là Niết bàn vậy.

Bấy giờ có một số Thanh Văn, Duyên Giác, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Cận Sự Nam, Cận Sự Nữ, những người phát tâm tiểu thừa đều có cùng ý nghĩa rằng: Lạ thật! Cớ chi hôm nay đức Phật tán thán pháp của Phật chứng đắc cao sâu, khó nghe, khó hiểu...nào là Như Lai phương tiện nói pháp khéo léo, hàng Thanh Văn, Duyên Giác không thể hiểu được...!

Tại sao Như Lai nói thế! Từ lâu đức Phật dạy chúng ta pháp tu giải thoát, chúng ta đã chứng đắc Niết Bàn rồi. Cớ chi hôm nay đức Phật như có ý chê trách những điều tu học và chứng đắc của hàng Thanh Văn, Duyên Giác bấy lâu nay!

Từ khi đức Phật thành đạo đến nay, Phật dạy giáo lý Tứ Diệu Đế cho hàng Thanh Văn, thuyết 12 Nhân Duyên cho hàng Duyên Giác tinh tấn tu hành có được giải thoát chứng đắc Niết bàn trở thành thánh giả A la hán và Bích Chi Phật. Thế mà hôm nay Phật lại tán thán pháp của Phật mới cao siêu, tuyệt diệu, không thể dùng trí tuệ của hàng Thanh Văn hay Duyên Giác suy lường mà hiểu được. Tại sao Phật lại nói các pháp đó chẳng phải là cứu cánh, chẳng triệt để, tột cùng chẳng qua là quyền pháp chớ chẳng phải là thật pháp, chỉ là quyền trí chớ chẳng phải là thật trí? Lẽ nào pháp của Phật nói trước kia là sai hay sao? Pháp mà Phật nói bây giờ mới đúng chăng? Nếu là sai thì tại sao đại chúng lại tu chứng và đắc quả? Nếu pháp Phật nói nước kia không đúng như thế thì quả vị tu chứng lẽ nào cũng đều là giả chăng?

Ông Xá-Lợi-Phất cảm thông ý của đại chúng cũng như nỗi lòng hoang mang của chính mình, bèn thưa hỏi Phật:

-Bạch Thế Tôn! Nhân duyên gì hôm nay Thế Tôn ngợi khen pháp phương tiện nhiệm mầu sâu xa khó hiểu của chư Phật? Hiện giờ bổn chúng có lòng nghi, xin Như Lai dạy rõ cho về duyên cớ ấy!

Tất cả đại chúng đều hoang mang vì câu nói của Phật. Bởi vì hàng Thanh Văn và Duyên Giác đã thực hành rốt ráo những gì cần thiết để có giải thoát và chứng đắc Thánh quả cho nên đối với họ đây là những giáo lý tối thượng mà đức Phật đã giảng dạy và chính họ đã thành tựu viên mãn. Vì thế, Tôn giả Xá Lợi Phất là bậc trí tuệ bậc nhất biết đại chúng nghi ngờ nên thưa hỏi Phật lý do gì Phật lại tán thán những phương tiện sâu xa nhiệm mầu khó hiểu như vậy. Việc đó như thế nào? Xin Phật hãy giải bày.

Phật bảo:

-Xá-Lợi-Phất! Thôi! Thôi đi! Đừng hỏi việc đó. Nói việc đó ra thì tất cả người, trời, A-tu-la ở trong đời đều sẽ kinh sợ và nghi ngờ, không tốt.

Bạch Thế Tôn! Ông Xá-Lợi-Phất thưa, xin Thế Tôn nói cho. Trong hải hội này có người lãnh hội được lời dạy của Phật và có thể đủ sức kính tin.

Ở đây, pháp mà Phật muốn nói thì không thể nói, rất khó nói. Tại sao pháp Phật nói ra sẽ làm cho người, trời, A tu la khắp đều kinh sợ, nghi ngờ? Giáo lý Phật Đà thì gọi là Khế kinh nghĩa là trên thì khế (phù hợp) với lý của chư Phật và dưới thì hợp với căn cơ của chúng sinh. Thí dụ Phật dạy chư ác mạc tác, chứng thiện phụng hành là khế cơ nghĩa là nên làm lành lánh ác thì sẽ có phước thiện. Nhưng trong kinh Pháp Hoa này ở chương sau có phẩm Đề Bà Đạt Đa là người phạm tội ngũ nghịch mà vẫn được Phật thọ ký và sẽ thành Phật. Nghe qua thì không phù hợp với đạo lý làm người (không hợp với khế cơ), nhưng đứng về mặt chân lý thì bất cứ ai cũng đều có Phật tánh cho dù kẻ đó là người đại ác. Vì có Phật tánh nên trước sau có ngày họ cũng sẽ thành Phật. Đây là khế lý vậy. Do đó khế lý thường đối nghịch với khế cơ vì thế Phật không muốn nói là ở chỗ nầy.

Tuy Phật không muốn nói, nhưng ngài Xá lợi Phất nài nỉ khẩn cầu đức Phật nhất định phải nói. Đây là thỉnh pháp vì có thỉnh Phật mới diễn nói diệu pháp. Hy vọng đức Thế Tôn hãy vì chúng sinh nói pháp huyền diệu này chớ đừng do dự.

Đức Phật lại khuyên ngăn:

-Rằng nếu nói việc đó thì người, trời, a-tu-la đều kinh nghi, Tỳ kheo, tăng-thượng-mạn sẽ sa vào hầm tội lỗi.

Tỳ kheo tăng thượng mạn là những người cho rằng pháp gì họ cũng đều hiểu biết hết nên dễ sinh tâm kiêu mạn. Tăng thượng mạn cũng có nghĩa là chưa thực chứng quả vị Vô thượng Bồ đề mà nghĩ rằng mình đã chứng rồi. Dựa theo tư tưởng Đại thừa thì quả A la hán chưa phải là cứu cánh, chỉ là hóa thành chứ chưa phải là đã thành tựu bảo sở tức là đạt đến Phật quả viên mãn. Vì là những người tăng thượng mạn như thế cho dù là pháp thâm sâu vi diệu khó lường của Phật thì họ cũng chẳng cung kính tin nhận.

Ông Xá-Lợi-Phất lại ân cần cầu thỉnh xin Phật rủ lòng thương...

Sau ba lần cầu thỉnh thiết tha của ông Xá-lợi-phất, đức Phật vừa hứa khả, tức thì trong hải hội có các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, cả thảy năm ngàn người đứng dậy bái Phật xin được rút lui.

Sau ba lần tha thiết thỉnh cầu Phật thuyết giảng pháp vi diệu thậm thâm cuả Tôn giả Xá Lợi Phất, đức Phật chấp nhận nói kinh Pháp Hoa. Khi nghe Phật đồng ý nói kinh thì trong pháp hội có năm ngàn Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, lễ Phật mà lui đi. Cả đời đức Phật ôm ấp một hoài bảo là muốn đem một giáo lý cao siêu vi diệu để truyền lại cho đệ tử mình, nhưng không vì thế mà ai ai cũng nhiệt tình đón nhận. Đây là một bài học rất đáng giá vì cho dù đạo Phật đưa con người đến chỗ giải thoát giác ngộ, nhưng không phải ai cũng nghe, cũng tin, cũng thực hành được. Vì thế người học Phật là người phải có chủng tử Phật pháp đã gieo trồng nhiều đời nhiều kiếp vậy. Không biết chúng ta ngày nay có phải là những người trong số năm ngàn người ngày xưa đã rời bỏ pháp hội hay không mà mãi trên 2500 năm sau mới được nghe kinh Pháp Hoa?

Tóm lại, khi Phật nói kinh Pháp Hoa có năm ngàn trong số 12.000 đệ tử bỏ đi.

Đây là nhìn từ góc độ “Sự Tướng” mà nói rằng trong hàng đệ tử Phật có hai hàng Pháp khí: Một là Chân gồm các vị tưởng lão như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na…Hai là hàng Tăng thượng mạn nghĩa là hạng người tự cho rằng đã chứng ngộ đầy đủ nên không cần học hỏi thêm. Nhưng bây giờ nếu nhìn theo “Lý Tánh” thì không có năm ngàn, bốn ngàn hay bất cứ vị Tỳ kheo nào bỏ đi hết. Mà thâm ý của kinh khi đưa ra con số 5.000 là kinh muốn dùng con số năm để ám chỉ cho ngũ uẩn. Tại sao? Bởi vì một người khi đã chứng đắc quả A la hán thì tất cả các chủng tử hữu lậu đã tan biến và trong họ chỉ còn chủng tử vô lậu nghĩa là tất cả phiền não khổ đau và những nguyên nhân đưa đến phiền não khổ đâu cũng không còn. Đó là các ngài đã chứng chân lý Vô Ngã nghĩa là trong họ không hề có “Cái Ta” hay “Cái của Ta”. Trong thì Ngã không, ngoài thì Pháp không, trong ngoài tự tại thì làm gì còn chấp? Con người vì tin chắc rằng thân mình là thật, là Ta, là của Ta và là sở hữu của Ta, sống giữ chết mang theo cho nên có sống chết, tranh đấu để bảo vệ Ta và cái của Ta vì thế mới có phiền não, khổ đau. Do vậy hạng tăng thượng mạn là những người còn chấp Ngã, ngũ uẩn che lấp chấp ngã nên thấy mình là thật và thế gian vũ trụ là thật nên bám vúi, chấp thủ và dĩ nhiên làm nô lệ cho phiền não vô minh. Vì vậy hạng tăng thượng mạn là những người còn chấp Ngã tức là còn sống trong vô minh bất giác, chơn tánh bị che mờ nên không thấy được Phật. Phật mà kinh nói ở đây không phải là Phật Thích Ca Mâu Ni mà chính là chơn tâm, Phật tánh, là Tri Kiến Phật hằng sáng của mình.

Nhưng Tâm Kinh dạy rằng “ngũ uẩn giai không” nghĩa là trong ngũ uẩn chỉ là sự vay mượn, kết hợp bởi “Duyên Khởi” cho nên mỗi uẩn là vô ngã và dĩ nhiên ngũ uẩn phải là vô ngã. Mà đã là vô ngã, tạm bợ, nay có mai không thì cái gì là Ta hay của Ta?

Trong phần phẩm Tựa có câu “Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán 12.000 người, các vị đó đều là A la hán, các lậu đã hết, không còn phiền não”. Như vậy kinh đã xác định các vị A la hán đều diệt hết các lậu hoặc và phiền não nên làm gì còn chấp Ngã hay tăng thượng mạn. Thêm nữa kinh dùng con số 12.000 vị A la hán cũng là ẩn dụ. Tại sao? 12.000 là kinh muốn ám chỉ con số 12 bởi vì 12 là biểu trưng cho sáu căn và sáu trần, không có sáu thức. Bình thường thập bát giới là sáu căn, sáu trần và sáu thức là thế giới của chúng sinh còn sống trong điên đão khổ đau bởi vì căn tiếp xúc với trần liền sinh thức để phân biệt rồi bám chặt vào thức nên vọng tưởng phát sinh. Nhưng ở đây các vị A la hán đã dứt hết lậu hoặc nên tuy căn có tiếp xúc với cảnh (trần) mà vẫn như như bất động tức là thức không sanh. Đó là mắt thấy sắc mà không bị sắc mê hoặc, tai nghe âm thanh mà không bị tiếng thị phi phải quấy chi phối…nghĩa là kiến sắc phi can sắc, văn thanh bất nhiễm thanh…

Đức Thế Tôn an nhiên, không ngăn cản và bảo ông Xá-Lợi-Phất:

-Rằng trong đại chúng giờ đây không còn những trái đèo hạt lép mà chỉ còn toàn trái tốt và hạt chắc.

-Xá-Lợi-Phất! Những hạng người tăng thượng mạn như vậy, lui đi vẫn tốt. Vậy ông lắng ý mà nghe, Như Lai sẽ nói về sự nhiệm mầu khó nghe, khó hiểu. Và Như Lai cũng nói cho ông biết lý do của sự có mặt của Như Lai trong cõi đời này.

-Này! Xá-Lợi-Phất! Pháp mầu sâu thẩm của chư Phật, đúng thời mới đem ra nói. Như hoa Linh Thoại đến thời tiết mới trổ một lần.

-Xá-Lợi-Phất! Chư Phật thuyết pháp phải đúng thời, tùy đối tượng, hợp căn cơ cho nên mỗi người, mỗi lúc khác nhau. Vì vậy, pháp của chư Phật nói khó nghe, khó hiểu, vì ý thú rất nhiệm mầu, Chư Như Lai vận dụng vô số phương tiện, giảng nhiều cách, dẫn nhiều tỉ dụ, thay đổi ngôn từ, lời lẽ khéo đẹp, đáp ứng cho mọi hạng người. Vì vậy mà pháp Phật nói không thể suy lường phân biệt hời hợt thông thường mà có thể hiểu được. Chỉ có Phật và Phật mới thấu hiểu hết ý của nhau.

Tuy năm ngàn người rời pháp hội, nhưng đức Phật không hề khuyên họ ở lại mà Ngài im lặng để họ ra đi. Đạo Phật là đạo tùy duyên cho nên năm ngàn người rời pháp hội là những người không có duyên được nghe kinh Pháp Hoa. Còn những người còn lại đều là những hạt giống tốt, những chủng tử lành sẵn sàng đón nhận những giọt mưa thậm thâm vi diệu từ đức Phật để sinh chồi nẩy nhánh và sau cùng kết hoa tươi thắm. Mặc dù giáo pháp Phật sắp nói ra mầu nhiệm vô cùng, nhưng chính đức Phật cũng phải đợi đến đúng thời, đúng lúc thì Ngài mới đem ra chia xẻ với chúng sinh được. Cũng như hoa Linh Thoại đến lúc nở thì nó mới nở chớ không thể nở sớm hơn được và nó chỉ nở trong thời gian rất ngắn thì tàn cho nên loại hoa này rất trân quý hiếm có. Giáo pháp quá vi diệu Phật phải đợi gần 40 năm từ khi thành đạo mới có cơ hội đem ra thuyết giảng cho đại chúng. Pháp này không thể dùng tâm thức để phân biệt suy lường mà thấu hiểu được mà chỉ có Phật với Phật mới biết được pháp này.

-Xá-Lợi-Phất ơi! Ông làm sao hiểu được cái lý do cực kỳ quan trọng mà các đức Phật xuất hiện ở đời!

-Nầy! Xá-Lợi-Phất! Như Lai xuất hiện ở đời nhằm:

Mở bài và giới thiệu “ Tri Kiến Phật ” của chúng sanh

Vận dụng ngôn từ, tỷ dụ, khéo léo để “chỉ” Tri Kiến Phật của chúng sanh cho chúng sanh biết.

Hướng dẫn cho chúng sanh “Hiểu Kỹ ” về Tri Kiến Phật của mình.

Khuyến cáo, khích lệ cho chúng sanh sống bằng Tri Kiến Phật mà mình vốn có.

Đó là cái lý do cực kỳ quan trọng mà chư Phật Như Lai xuất hiện ở cõi đời. Mục đích của chư Phật ra đời chỉ vì một việc: Đem Tri Kiến Phật chỉ dạy cho chúng sanh tỏ ngộ đấy mà thôi!

“Tri” là chỉ có ý thức, còn chữ “kiến” là chỉ cho nhãn thức. Tuy Phật nói Tri Kiến tức là thấy biết, nhưng thật ra nó đã bao gồm toàn bộ: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức. Tuy chúng sinh có tướng trạng khác nhau, tánh nết khác nhau, nghiệp báo nặng nhẹ khác nhau, nhưng tất cả đều có cái thấy, cái nghe, cái nếm, cái ngửi, cái xúc, cái biết giống y như Phật. Cái tri kiến của chúng sinh và của Phật Thích Ca hay của mười phương chư Phật vốn thanh tịnh đều giống hệt như nhau nên mới gọi là tri kiến Phật. Thế mà từ vô thỉ đến nay chúng sinh không hề hay biết chính mình cũng có tri kiến Phật nên không sống đúng với cái tri kiến thanh tịnh này mà sống bằng tri kiến điên đảo của phàm nhân. Cái tri kiến của chúng sinh cũng sử dụng cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái xúc, cái biết nhưng lại nương vào mừng, giận, thương, sợ, yêu, ghét, muốn, tham, sân, si, mạn, nghi, phẩn, hận, phú, não, tật, san…nên cuộc sống thiếu thăng bằng, làm nô lệ cho phiền não vô minh. Do đó hằng ngày thay vì sử dụng tri kiến Phật thanh tịnh của mình thì con người sử dụng tri kiến lập tri. Mà tri kiến lập tri tức vô minh bổn nghĩa là nếu con người lấy sự thấy biết bên ngoài đem vào tâm làm tâm phát khởi sự phân biệt khiến tham-sân-si dấy khởi thì đây là căn nguyên của vô minh. Còn sống với tri kiến Phật tức là tri kiến vô kiến mà tri kiến vô kiến tư tức Niết bàn nghĩa là thấy biết thì cái gì cũng thấy biết, nhưng không đem vào tâm thì tuy thấy biết tất cả mà cũng như không thấy biết gì hết nên tâm hằng thanh tịnh thì đây chính là Niết bàn vậy.

Nói cách khác tất cả những căn bản và tùy phiền não cũng phát xuất từ tri kiến lập tri. Trong khi đó chư Phật cũng có tri kiến như tất cả chúng sinh, nhưng tri kiến của Phật là tri kiến vô kiến tư tức Niết bàn nghĩa là tri kiến mà không cộng thêm phân biệt, chấp ngã tướng, chấp nhơn tướng, chấp chúng sinh tướng, chấp thọ giả tướng. Nói tóm lại, những quan niệm về chấp ngã, chấp pháp đã được đức Phật dẹp bỏ hết.

Thế thì đại sự nhân duyên lớn mà đức Phật xuất hiện ở đời là muốn chỉ cho chúng sinh biết chính họ cũng có cái tri kiến Phật giống y như Ngài vậy. Đến đây, đức Phật chính thức công bố cho đại chúng biết lý do tại sao Ngài thị hiện trên thế gian này. Đó là: ”Phật vi nhất đại sự nhân duyên, xuất hiện ư thế” nghĩa là Phật chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời. Nhưng Phật muốn nói nhân duyên gì? Đó là “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật Tri Kiến”. Khai có nghĩa là mở ra cho nên Khai Phật tri kiến là mở kho tàng tri kiến của Phật ra. Thị tức là chỉ cho thấy cho nên Thị Phật tri kiến tức là chỉ cho chúng sinh thấy cái kho tri kiến của Phật. Ngộ tức là bừng tỉnh mà thấy được một sự thật (chân lý) nào đó. Sau cùng Nhập là đi vào, là chứng nghiệm chớ không phải chỉ đứng bên ngoài mà nhìn vào mà phải chính mình nghiệm chứng sự thật đó. Do đó câu “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến” có nghĩa là Phật muốn đem cái thấy biết của mình mà chỉ cho tất cả chúng sinh thấy để họ cũng có thể tỏ ngộ được như Phật.

Đức Phật thị hiện giáo hóa chúng sinh, chuyển bánh xe pháp cũng không ngoài mục đích muốn chúng sinh ngộ nhập Phật Tri Kiến tức là thể nghiệm và sống được với chơn tâm của mình. Vì thế Phật mới dạy rằng: ”Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật” nghĩa là trong tất cả chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật. Nhưng nếu chúng sinh đều có Phật tánh thì tại sao đến nay chúng ta vẫn chưa thành Phật? Cũng chỉ vì tâm của chúng sinh chất đầy vọng tưởng, chấp trước. Vậy chúng ta chấp cái gì? Chấp “cái ta” tức là bản ngã và cái “của ta” tức là ngã sở hữu cho nên không buông bỏ được những hưởng thụ vật chất trong thế gian. Con người luôn níu kéo, nắm bắt mãi, càng có thì càng chấp trước thêm và ham thích hưởng thụ nên chưa thể thành Phật. Cho nên đức Phật mới dạy rằng: “Do vọng tưởng và chấp trước mà tất cả chúng sinh không thể chứng đắc, không thể thành Phật” là vậy.

Thế nào là sống bằng tri kiến Phật vốn sẵn có của mình?

Tri kiến Phật trong kinh Pháp Hoa này tức là chơn tâm thường trú của kinh Lăng Nghiêm. Hằng ngày chúng sinh không sử dụng cái chơn tâm thường trú của mình mà họ chỉ sử dụng vọng tâm sinh diệt chẳng khác nào mình chỉ biết “khách” mà không biết “chủ”. Khách thì có đến rồi đi, chỉ có chủ mới ở lại. Chơn tâm, Phật tánh hay tri kiến Phật lúc nào cũng ở với chúng ta tức là chủ mà con người lại bỏ quên nó. Trong khi vọng tâm sinh diệt là khách trần mà con người lại chú ý đến nên biến cuộc sống thanh tịnh thành điên đão khổ đau. Khi những hiện tượng như mừng, giận, yêu, ghét, thân, sơ, muốn, bỏ, hơn, thua, phải, quấy, tốt, xấu…xuất hiện thì cái tâm ấy không phải là chơn tâm mà chỉ là những khách trần phiền não. Khi không còn sự phân biệt đối đãi trong tâm thức tức là những phạm trù đối đãi nhị nguyên biến mất thì con người sẽ sống với thực tại, với tánh giác hằng sáng của mình thì đây mới chính là bản tâm của ta tức là sống với ông chủ vậy.

Tâm thanh tịnh không có nghĩa là tâm đứng lặng, không nghĩ ngợi, không làm gì hết. Tâm thanh tịnh là trạng thái tự tại được biểu hiện qua thân, khẩu, ý đúng như Chánh pháp.

1)Thân: Chánh niệm cho ta biết những việc làm nào đi ngược với chơn tánh, trái với đạo lý thì không làm. Ngược lại nên làm việc gì có lợi cho mình, lợi cho người.

2)Khẩu: Chánh niệm cho ta biết lời nói nào là nói dối, nói lưỡi hai chiều, nói lời độc ác…thì đừng nên nói. Ngược lại nên nói đúng, nói ái ngữ, nói điều thiện, nói lời lợi mình lợi người.

3)Ý: Tâm thanh tịnh không có nghĩa là vô niệm, không có nghĩ gì hết. Mà vô niệm ở đây là Chánh niệm tức là con người còn sống là còn tư duy nhưng chỉ nghĩ về thiện, suy tư về việc lợi mình, lợi người, lợi cho tất cả.

Tóm lại, nghĩ thiện, nói thiện và làm thiện tức là thân khẩu ý đều làm thiện cho nên tuy thân khẩu ý vẫn hoạt động, vẫn nói năng, vẫn tư duy mà vẫn là thanh tịnh. Ngày xưa đức Phật Thích Ca vẫn đi, đứng, nằm, ngồi vẫn nói năng bình thường, nhưng thân khẩu ý là biểu hiện từ trí tuệ trong sáng của Ngài nên tất cả đều là thiện, là tốt đấy chứ.

Đức Phật vì có nhất thiết trí, công đức vô lượng, đại bi, trí tuệ được tự tại, trong định được tự tại, biến hóa tự tại. Nói chung đức Phật có mười tám pháp gọi là Thập Bát Bất Cộng Pháp nên thân, khẩu, ý của Ngài lúc nào cũng tự tại, Ngài làm tất cả nhưng không có lỗi lầm.

Dựa theo kinh Đại Phẩm Bát Nhã 5, phẩm Quảng Thừa thì Thập Bát Bất Cộng Pháp của đức Phật gồm có:

1)Thân vô thất: Đức Phật từ vô lượng kiếp đến nay luôn giữ giới thanh tịnh, công đức đầy đủ, tất cả phiền não đều dứt cho nên thân không lỗi (làm điều sai quấy).

2)Khẩu vô thất: Phật có vô lượng trí tuệ biện tài cho nên pháp do Ngài nói ra tùy theo căn cơ của chúng sinh khiến cho họ đều được chứng ngộ.

3)Niệm vô thất: Phật tu các thiền định sâu xa, tâm không tán loạn, tâm không đắm nhiễm các pháp, được sự an ổn đệ nhất nghĩa.

4)Vô dị tưởng: Phật bình đẳng hóa độ tất cả chúng sinh, tâm không chọn lựa.

5)Vô bất định tâm: Mọi hành động đi, đứng, nằm, ngồi của Phật thường không lìa thắng định sâu xa, nhiếp trụ trong thiện pháp, không thoái thất thật tướng các pháp.

6)Vô bất tri dĩ xả tâm: Đối với các thọ như khổ, vui…trí tuệ Phật biết rằng tướng sinh, trụ, dị, diệt trong từng niệm và trụ trong sự vắng lặng bình đẳng.

7)Dục vô giảm: Phật có đầy đủ thiện hạnh nên luôn muốn hóa độ tất cả chúng sinh không bao giờ chán bỏ.

8)Tinh tấn vô giảm: Thân tâm của Phật đều tinh tấn, vò độ chúng sinh nên thường làm các phương tiện, không dừng nghĩ.

9)Niệm vô giảm: Pháp và tất cả trí tuệ của chư Phật ba đời đều tương ưng, không thoái chuyển.

10)Huệ vô giảm: Phật có tất cả trí tuệ và trí tuệ này vô ngại đối với ba đời cho nên không bao giờ khuyết giảm.

11)Giải thoát vô giảm: Phật xa lìa tất cả chấp trước, có đủ hữu vi giải thoát và vô vi giải thoát. Tất cả tập khí phiền não thảy đều dứt sạch cho nên đối với giải thoát không khuyết giảm.

12)Giải thoát tri kiến vô giảm: Phật thấy biết rõ ràng các tướng giải thoát, không bị che chướng.

13)Tất cả thân nghiệp tùy trí tuệ mà thực hành.

14)Tất cả khẩu nghiệp tùy trí tuệ mà nói năng.

15)Tất cả ý nghiệp tùy trí tuệ mà tư duy.

Ba pháp này là ứng dụng khi Phật khởi 3 nghiệp thân, khẩu, ý. Trước hết Phật suy nghĩ đúng, rồi nói và hành động theo trí tuệ cho nên Phậ không có lỗi lầm bởi vì tất cả việc làm của Phật đều làm lợi ích cho chúng sinh.

16)Trí tuệ thấy biết quá khứ vô ngại, vô chướng.

17)Trí tuệ thấy biết vị lai vô ngại vô chướng.

18)Trí tuệ thấy biết hiện tại vô ngại vô chướng.

Thế thì đức Phật Thích Ca vẫn cứ đi, đứng, nằm, ngồi vẫn nói vẫn tư duy bình thường chỉ có điều là thân vô thất, khẩu vô thất và ý vô thất nghĩa là thân không hề có lỗi, ý không hề có lỗi và khẩu không hề có lỗi và dĩ nhiên thân nghiệp tùy theo trí tuệ mà thực hành, khẩu nghiệp tùy theo trí tuệ mà nói năng và ý nghiệp cũng tùy theo trí tuệ mà tư duy. Nói cách khác thân khẩu ý đều là động cơ phát xuất từ trí tuệ cho nên đức Phật thân vẫn hoạt động, miệng cứ nói và ý cứ tư duy mà lúc nào Ngài cũng an nhiên tự tại đấy chứ. Vậy thập bát bất cộng pháp là tiêu chuẩn của đấng Vô Thượng Bồ đề cho nên hằng ngày đức Phật vẫn nói vẫn làm vẫn suy nghĩ chớ không phải là khi thành Phật thì không làm, không nói năng, không suy nghĩ tức là biến thành vô niệm vô sanh tức là trở thành gổ đá hay sao?

Con người có mặt trên thế gian này được xem là một sinh vật tối linh với đầy đủ lục căn mắt, tai, mũi,lưởi,thân và ý để tiếp nhận và giao cảm với thế giới bên ngoài là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp để phát hiện tất cả những ý tưởngcủa cuộc đời. Bây giờ nếu chúng ta ngồi thiền, niệm Phật để biến con người thành vô tri, vô giác không còn ý niệm (vô niệm) thì con người bây giờ có khác gì những người máy, tượng gổ hay cục đá. Nhưng người máy, cục đá thì bao giờ thành Phật?

Thiền định trong Phật giáo là tỉnh lự, là suy tư, là Xam-ma-tha để chặn đứng tất cả vọng niệm không cần thiết. Còn những chân lý trong cuộc đời đòi hỏi sự tư duy thẩm chiếu để thấu biết tận cùng rốt ráo vì thế Phật giáo mới dạy tư duy tu để giúp hành giả tư duy tỉnh lự mà tự mình tìm ra ánh sáng chân lý của sự vật hiện tượng. Ngày xưa đức Phật thiền định dưới cội Bồ-đề liên tiếp trong suốt 49 ngày thì Ngài mới hoát nhiên đại ngộ. Có suy tư, thẩm lự mới thấy được ánh sáng nhiệm mầu. Từ nhận thức được chân lý đó giúp con người sống theo chân lý, sống đúng với chân lý và sống phù hợp với chân lý. Thật vậy, từ đức Thế Tôn đến các vị A la hán,các Ngài hằng ngày vẫn có niệm, có sinh hoạt chớ đâu có vô niệm, vô sanh.Các Ngài vẫn đi, đứng, nằm, ngồi mà vẫn là Như Lai vô thượng Bồ-đề, vẫn là A la hán đó chứ. Nếu đức Phật tịnh khẩu thì làm sao chúng sinh có được giáo pháp như ngày nayvà nếu Ngài tịnh thân thì làm sao Phật giáo được xiễn dương khắp nọi nơi ở Ấn Độ?

Trong kinh Niệm Xứ (Satipatthnasutta) Đức Phật dạy rằng:

-Này các Tỳ kheo! Đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh tri, chứng ngộ Niết bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ.

Nhưng thế nào là Tứ Niệm Xứ? Đức Phật dạy tiếp rằng:

-Này các Tỳ kheo! Ở đây Tỳ kheo sống “quán thân”trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống “quán thọ”trên các thọ, nhiệt tâm tỉnh giác; chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống “quán tâm”trên tâm, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống “quán pháp”trên các pháp, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

Nói chung trong phần này Phật dạy chánh niệm để đối trị với những tâm hành sinh diệt, nhưng cốt tủy vẫn đưa chúng sinh đến một cứu cánh tột đỉnh là thức tỉnh tức là “BIẾT”. Vậy biết cái gì? Khi tâm tham phát khởi là biết có tham, không tham thì cũng biết trong tâm không có tham. Sân và si cũng vậy. Nói cách khác khi lục căn tiếp xúc với sắc thanh hương vị xúc pháp thì vọng tâm dấy khởi. Ở đây đức Phật dạy chúng sinh thực hành chánh niệm để biết rốt ráo tận cùng những biến đổi của tâm mà không cần phải tiêu diệt chúng. Thí dụ thấy tiền nhiều tâm tham liền nổi dậy, nhưng nếu có chánh niệm thì biết ngay sự hiện hữu hình thành trạng thái tham của tâm cho nên tâm tham bây giờ không còn tác động hoành hành được nữa. Nói cách khác, bất cứ một ý niệm vừa khởi lên, chánh niệm cho ta “biết” đó là vọng tưởng. Khi đã biết bộ mặt thật của ý thức thì con người chỉ cần không theo vọng thì vọng tự mất mà không cần phải tiêu diệt chúng. Nói cách khác, không theo vọng, vọng tự tiêu tan tức là mê biến thì thời điểm đó giác tự hiển bày.

Tóm lại, Phật ra đời dạy chúng sinh sống với tri kiến Phật của mình để chuyển khổ đắc lạc và liễu sinh thoát tử. Nếu con người không chạy theo vô minh bất giác làm nô lệ cho vật chất giả tạm mà sống theo chơn tánh hằng sáng thanh tịnh của mình thì đời này làm gì còn khổ, thế gian này sẽ trở thành cực lạc thanh tịnh Niết bàn. Giáo lý đức Phật rất thực tế và sự nhiệm mầu ở đây không phải là cầu nguyện van xin để Phật cho cái này thưởng cái kia vì có van xin cầu nguyện cách mấy Phật cũng chẳng có cái gì để cho. Sự huyền diệu là ở cách thực hành, sự hiểu biết rốt ráo để ứng dụng nó vào trong cuộc đời mà lìa khổ đắc lạc. Cái lạc tối thiểu là có hạnh phúc cho chính bản thân và cho gia đình mình và cái lạc tối đa là sống đúng với “Tri Kiến Phật” để có được Vô thượng Bồ đề Niết bàn giống như chư Phật vậy.

Phật dạy tiếp rằng:

-Chư Phật Như Lai nói pháp cho chúng sanh chỉ vì dạy cho họ một “ Phật thừa” chớ không có hai thừa, ba thừa nào khác. 

Pháp của chư Phật trong mười phương cũng đều như vậy. Chư Phật trong quá khứ, chư Phật hiện tại cũng như chư Phật vị lai vận dụng vô số phương tiện, triển khai nhiều cách, ngôn từ khéo léo, thí dụ dồi dào, nhưng tất cả nhằm dạy cho chúng sanh “một Phật thừa” khiến cho những chúng sanh tu hành đều đạt thành “ Nhất thiết chủng trí ”.

Dựa theo tinh thần Pháp Hoa, tu là để thành Phật cho đến mười phương chư Phật chỉ có một thừa duy nhất là Phật thừa chớ không còn Thanh văn thừa, Duyên Giác thừa hay Bồ tát thừa nữa. Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa hay Bồ tát thừa chỉ là phương tiện, là những bước trên con đường hướng về giải thoát giác ngộ. Nhưng sau cùng cứu cánh đức Phật muốn nói ở đây vẫn là Phật thừa để hướng dẫn chúng sinh sớm viên thành Phật đạo tức là thành Phật.

Trong Phật giáo sự phát triển của trí tuệ tùy theo khả năng nhận biết chân tướng của nhân sinh vũ trụ. Do đó:

1)Đối với phàm nhân thì họ nhìn cuộc đời, thế gian vũ trụ bằng nhục nhãn tức là bằng đôi mắt thịt nghĩa là cái gì có hình sắc, kích thước, âm thanh, mùi vị…thì họ cho là thật. Họ tin thân mình là thật nên còn chấp ngã, tin thế gian vũ trụ là thật nên còn chấp pháp. Vì còn chấp ngã, chấp pháp nên tham-sân-si, mạn nghi, tà kiến phát tác mà tạo ra nghiệp để phải chịu quả khổ đời đời.

2)Nhất Thiết Trí: Các vị Thanh văn không nhìn đời bằng nhục nhãn như phàm nhân mà họ nhìn thế gian bằng Pháp nhãn. Họ thấy thân mình là không thật, là tạm bợ, là dơ dáy, là cội nguồn của những nỗi khổ nên họ cố tu để chứng đắc sự an lạc của Niết bàn và tìm sự giải thoát quả vị Bồ-đề. Chẳng những nhìn thân mình không thật mà họ còn nhìn cả thế gian vũ trụ cũng không thật nên chán ngán cuộc đời và tránh xa bụi trần ô nhiễm. Vì thế đối với hàng Thanh văn thì chấp ngã không còn tức là họ đã đạt được Ngã Không, nhưng vì còn thấy có pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng, có đạo quả Bồ-đề để đắc nên họ vẫn còn chấp Pháp tức là Pháp có. Cho nên cái trí tuệ của họ không phải là trí tuệ giải thoát tự tại mà vẫn còn dính mắc của Pháp nên trí tuệ nầy là Nhất Thiết Trí.

3)Đạo Chủng Trí: Đối với các vị Bồ-tát thì họ nhìn thế gian vũ trụ bằng Tuệ nhãn tức là họ hành thâm bát nhã ba-la-mật để thấy rằng ngũ uẩn giai không. Dưới mắt của họ thì thế gian vũ trụ là do duyên khởi tạo thành nên tất cả đều là giả huyễn, là không thật, là Không. Vì ta là giả, là không thật nên họ có ngã không. Ta không thật thì người và thế gian vạn vật cũng không thật nên họ có pháp không. Nói một cách tổng quát dưới mắt của Bồ-tát thì thế gian vũ trụ là Không. Mặc dù biết thế gian là Không, nhưng Bồ-tát vẫn còn chấp cái Không nên tâm không được hoàn toàn tự tại và trí tuệ chưa hoàn toàn sáng suốt triệt để nên cái trí tuệ nầy gọi là Đạo Chủng Trí.

4)Nhất Thiết Chủng Trí: Hàng Thanh văn thì chấp Pháp có và các vị Bồ-tát thì vẫn còn chấp Không. Nếu bây giờ bỏ ðýợc chấp Pháp có và chấp Không tức là không còn chấp có pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng, có quả vị Bồ-đề để thành và không còn chấp thế gian vũ trụ là Không thì có được trí tuệ viên mãn, dung thông tự tại mà nhà Phật gọi là Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết Chủng Trí thì thấy vạn pháp là Có nhưng không phải là Có thật, còn Không nhưng không phải là không của cái trống không. Vì vạn pháp do nhân duyên hòa hợp nên vạn pháp sanh và khi nhân duyên tan rã chia ly thì vạn pháp diệt. Thế thì vạn pháp do nhân duyên hòa hợp nên sanh sanh diệt diệt, diệt diệt sanh sanh mà người được Nhất Thiết Chủng Trí thì luôn luôn tự tại trước sự sanh diệt, diệt sanh của hiện tượng vạn pháp nên không cần phải tiêu cực như hàng Thanh văn và cũng không cần phủ nhận tất cả như các vị Bồ-tát mà phải thấy vạn pháp nầy có mà không phải có thật. Mặc dầu không phải có thật mà hiện giờ nó vẫn có vì thế nên người có Nhất Thiết Chủng Trí làm bất cứ cái gì cần làm để giúp đở cho tất cả chúng sinh mặc dù chúng sinh là không có thật. Đây chính con đường trung đạo dung thông giữa cái Có và cái Không và chỉ có Phật mới đạt được cái trí tuệ nầy.

-Xá-Lợi-Phất! Chư Phật giáo hóa Bồ tát vì muốn đem Tri Kiến Phật “chỉ” cho chúng sanh, muốn cho chúng sanh tỏ ngộ, hiểu kỹ về Tri Kiến Phật và thể nhập, sống trong Tri Kiến Phật của chính mình. Tất cả cõi nước trong mười phương không có hai thừa làm gì có đến ba! Tại vì chúng sanh sống trong đời đầy năm trược ác mà chư Phật dùng sức phương tiện ở một Phật thừa phân biệt tạm nói có ba.

-Xá-Lợi-Phất! Các ông nên một lòng tin hiểu, thọ trì lời dạy của Phật. Lời của chư Phật không hề có hư vọng. Rằng không có thừa nào khác, mà chỉ có một “ Phật thừa” thôi!

Con người trong thế gian này không phải là nguyên do của tội lỗi xấu xa bởi vì trong tất cả mọi chúng sinh ai ai cũng đều có tri kiến Phật (kinh Pháp Hoa), Phật tánh (kinh Đại Niết bàn), Như Lai viên giác diệu tâm (kinh Viên Giác), chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh (kinh Lăng Nghiêm). Vì thế Phật mới dạy rằng : ”Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật” nghĩa là trong tất cả chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tánh, đều có khả năng thành Phật. Cũng ví như ly nước vốn tinh khiết trong sạch, nhưng vì bị bụi bặm làm nước vẫn đục. Ngũ trược nơi tự tâm cũng vậy. Tánh giác diệu minh vốn thanh tịnh, thường trụ, không thay đổi. Ngược lại, vọng tưởng bản chất là giả dối, sinh diệt, thay đổi. Nhưng chúng sinh vì không giác ngộ được bản tâm của chính mình mà chạy theo vọng tưởng để cho vọng tưởng chiếm mất tâm mình nên mới sinh ra ngũ trược mà làm nhơ, vẩn đục tâm tánh của con người. 

Vậy năm thứ vẩn đục đó ảnh hưởng con người như thế nào?

1) Kiếp trược:

Kiếp tức là thời gian. Bổn lai của thời gian chẳng tồn tại, nhưng do tâm con người phân biệt nên mới có quá khứ, hiện tại và vị lai cho nên gọi là kiếp. Trược là dơ bẫn, là bất tịnh. Vì con người chạy theo vọng niệm điên đão nên phải xoay vần trong sinh tử. Nói cách khác tâm thể của chúng sinh tức là tánh giác diệu minh vốn trong sáng và hòa nhập vào hư không mười phương thế giới. Nhưng trong cái diệu minh đó lại phát sinh ra sự phân biệt để nhận biết tất cả các tướng ở bên ngoài hư không tức là năng minh. Sự thâu nhập các cảnh giới bên ngoài thì gọi là sở minh. Nói cách khác, khi con người lầm lẫn chạy theo những vọng niệm bên ngoài tức là sở minh để chuyển năng minh bên trong của mình mà có sự phân biệt để tạo nghiệp và tự trói mình trong sinh tử khổ đau. Một khi tâm thể khởi sự phân biệt thì nó không còn thanh tịnh, diệu minh như lúc ban đầu vì thế vọng khởi tâm phân biệt chính là kiếp trược.

2) Kiến trược:

Kiến trược tức là năm lợi sử: Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ kiến, Giới cấm thủ kiến và tà kiến. Kiến đại thì bao la trùm khắp pháp giới, nơi nào cũng có thể thấy được. Nếu kiến đại tác động vào mắt thì có tánh thấy, vào tai thì có tánh nghe, vào mũi thì có tánh ngửi, vào lưỡi thì có tánh nếm, vào thân thì có tánh cảm xúc. Xét cho cùng kiến đại là bao la vô cùng vô tận, nhưng khi nó tác động vào thân tứ đại của con người liền bị hạn chế, không còn thấy vô cùng vô tận được nữa. Vì thế tánh thấy lẽ ra phải thanh tịnh bản nhiên trùm khắp mười phương thế giới, nhưng khi nó tác động vào thân tứ đại liền bị chia sẻ làm giới hạn tánh thấy thì đây gọi là “kiến trược”. Do đó tánh thấy của con người rất bị hạn chế trong kiến, tri tức là thấy, biết mà cảm thấy hiểu biết. Vì thế khi chúng sinh đạt được tâm thanh tịnh để quay trở về sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên thì tánh thấy bây giờ sẽ trở thành vô cùng vô tận, không còn bị tướng ngũ uẩn ngăn ngại.

3) Phiền não trược:

Phiền não trược tức là năm thứ độn sử: Tham, sân, si, mạn, nghi. Đây là gốc rễ của mọi phiền não.

Tri kiến của chúng sinh là tánh thấy, tánh nghe, tánh ngửi, tánh nếm, tánh xúc và tánh biết được biểu hiện qua lục trần tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Thí dụ tự thể của con mắt đâu có tội lỗi xấu xa gì, nhưng khi mắt thấy nhà đẹp, xe sang, tiền nhiều thì tâm phát sinh lòng tham dục muốn chiếm lấy. Năm căn còn lại thì cũng thế. Tai nghe lời ngọt dịu thì mê, nghe ai chửi thì buồn, thì giận. Mũi ngửi hương thơm thì thích, say đắm còn ngửi mùi hôi thúi thì buồn phiền, chửi rủa. Lưỡi nếm mùi vị ngon thì tham đắm muốn ăn thêm còn nếm mùi cay đắng thì đâm ra chán ghét. Nói chung con người khi tiếp xúc với lục trần thì hễ cái gì bằng lòng thì an vui, tham đắm. Còn cái không bằng lòng, bất toại ý thì đâm ra bất mãn. Do đó tri giác (sáu căn) và lục trần tác dụng vào nhau mà phát sinh ra “phiền não trược”. Đây là nói trên phương diện tục đế sinh diệt của thế gian, nhưng đối với các bậc thánh như các vị A la hán và Đức Phật thì mắt, tai, mủi, lưỡi, thân và ý của các Ngài vẫn còn đó như tất cả chúng sinh. Nhưng tri giác của các Ngài không còn tác động vào sáu trần nên phiền não không còn quấy phá được vì thế các Ngài mới có thanh tịnh Niết bàn, thần thông tự tại là vậy. Nói cách khác khi chúng sinh đã trở về sống với chơn tâm thường trú, thể tánh tịnh minh, tri kiến Phật hay Như Lai viên giác diệu tâm của chính mình rồi thì sáu căn, sáu trần không còn là nguyên nhân để gây ra phiền não khổ đau.

4) Chúng sinh trược:

Chúng sinh có đủ thứ nhân duyên thiện ác xen tạp cho nên mỗi chúng sinh đều có nghiệp ác đặc biệt riêng của họ. Vì phải mang theo ác nghiệp nên chúng sinh cũng ô trược. Con người vì phải chịu theo sự tiến hóa của thế gian nên thân tâm lúc nào cũng thay đổi. Thân thì ảnh hưởng bởi luật vô thường: sinh, trụ, dị, diệt tức là sinh, lão, bệnh, tử. Còn tâm thì chuyển biến theo lý vô ngã. Vì thế mà thân tâm con người luôn sinh diệt từng giây từng phút. Nhưng con người lại không đồng ý như vậy mà tri kiến của họ lúc nào cũng muốn sống lâu, sống thọ. Tuy con người gắn bó với cái thân tứ đại sinh diệt, với cái ý thức hay biết của mình và trong mong sống mãi như thế, nhưng con người hễ có sinh tất phải có diệt nên họ phải nương theo quả báo mà thọ sinh vào những đời sau. Sống thì phải chết, nhưng con người chết mà vẫn luyến tiếc mãi cái sống nên hết thân này lại tái sinh thân khác theo nghiệp báo mà xoay vần mãi mãi trong lục đạo luân hồi. Nói cách khác khi tâm chúng sinh đã khởi sự phân biệt thì nó liền đắm say cảnh sắc bên ngoài nên tâm muốn gồm thâu cả thế giới này về cho nó. Từ đó lòng tham-sân-si phát khởi và dĩ nhiên những hạnh nghiệp cũng vì thế mà tác tạo. Lòng tham càng to thì tội nghiệp càng lớn và càng bị ràng buột trong sinh tử triền miên.

5) Mạng trược :

Mạng là mạng sống tức là một đoạn thời gian của báo thân chúng sinh. Trược cũng giống như bùn ở dưới nước, ô nhiễm, bất tịnh.

Một khi tâm phân biệt đã xuất hiện thì nó sẽ bị những trần cấu bên ngoài chi phối. Thấy đẹp thì yêu, thấy xấu thì ghét nên muốn cái đẹp, ghét cái xấu, cứ như thế mà yêu ghét nổi dậy cả ngày. Trong một thoáng, một chớp mắt đã sinh ra những mê lầm nên cái thấy không còn đúng nữa. Vì thế mà con người thích nghe lời nói hay, âm thanh ngọt dịu và chán ghét khi nghe tiếng chỉ trích, chửi mắng. Mắt thích nhà cao, xe tốt, áo lụa, quần là. Mũi thích ngửi hương vị thơm tho và buồn phiền khi ngửi mùi hôi tanh, ô uế. Lưỡi thích nếm đồ ăn ngon, miệng thích ăn cao lương mỹ vị và khổ đau khi ăn cơm hẩm cá thiu. Nói chung sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đã chi phối tâm tánh của con người làm cho họ quên đi bản tánh thanh tịnh diệu minh đã có sẳn trong họ. Một khi mắt, tai, mủi, lưỡi, thân và ý vốn thanh tịnh nhưng bị sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp quyến rũ làm hạn chế sự thấy, nghe, hay, biết của nó mà bỏ đi tâm tánh Bồ-đề vốn thường thanh tịnh và trong sáng. Những vẫn đục làm lu mờ tâm tánh con người này Đức Phật gọi là Mạng trược.

Thế giới mà con người đang sống mà kinh điển Phật giáo thường gọi là thời kỳ ngũ trược ác thế nghĩa là đời có năm thứ ác làm cho tâm hồn không còn trong sáng, bị vẫn đục do phiền não vô minh làm cho kiếp sống chúng sinh không được an vui, hạnh phúc. Bây giờ nếu chúng sinh biết hồi đầu thị ngạn, quay về với bản lai diện mục, với chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh của chính mình bằng cách tư duy, thiền định thì những vẫn đục kia sẽ được lắng xuống làm cho cuộc sống trở thành thanh tịnh, an lạc và tự tại. Và sau cùng Niết bàn, Bồ-đề sẽ hiển hiện. Cũng ví như tất cả những cặn bả trong ly nước lắng xuống thì nước bây giờ trở thành tinh khiết, thơm ngon. Ly nước mặc dầu đã được lắng trong, nhưng những hạt bụi cực nhỏ vẫn còn mà mắt thường không thấy biết được. Các vị A la hán và Bồ-tát thì cũng thế. Tuy các Ngài đã loại hết kiến hoặc, tư hoặc, nhưng những vi tế vô minh vẫn còn cho đến khi đạt đến Vô thượng Bồ-đề như Phật thì tất cả vô minh, phiền não tan biến hết ngay cả những vi tế cũng không còn. Vì thế Đức Phật Thích Ca cho dù có ở đâu, ngồi đâu thì tâm Ngài vẫn an trụ Niết bàn. Cái Niết bàn này chính là vô trụ xứ Niết bàn vậy.

Vậy cứu cách của người tu Phật không phải là để thành A la hán, Bích Chi Phật hay thành Bồ Tát mà phải thẳng đến Phật quả tức là thành Phật. Mà muốn thành Phật thì chỉ có một con đường đó là Phật thừa vậy.

Thừa là con đường cho nên Phật thừa là con đường để thành Phật. Không riêng gì kinh Pháp Hoa của Phật giáo Đại thừa đưa chúng sinh đến cứu cánh tối thượng là thành Phật. Kinh Niệm Xứ của Phật giáo Nguyên Thủy cũng nói rằng có một con đường duy nhất để thành tựu đạo nghiệp, đưa tới giải thoát, đó là nương theo pháp Tứ Niệm Xứ. Kinh Niệm Xứ (Satipatthana Sutta) dạy rằng:

-Quán niệm thân (Kayanupassana) trong thân, nhiệt tâm (atapi), hiểu biết rõ ràng (sampajano), giữ chánh niệm(satima), dứt bỏ tham ái (abhijjha) và sầu khổ (domanassa) trong thế gian (loke) này.

-Quán niệm thọ (vedananupassana);

-Quán niệm tâm (cittanupassana);

-Quán niệm pháp (dhammanupassana).

(Xem chi tiết ở phần đầu của chương thứ nhất trong phần Phẩm Tựa).

Kinh Niệm Xứ của Nguyên Thủy khi chuyển sang Đại Chủng Bộ thì được gọi là kinh Nhất Nhập Đạo nghĩa là kinh nói về một con đường duy nhất để đi vào đạo. Như thế thì ý niệm về Nhất thừa đã có mặt ngay từ lúc ban đầu rồi trong đạo Phật Nguyên Thủy cho nên danh từ Nhất thừa trong kinh Pháp Hoa này không có gì mới lạ cả.

Dựa theo Phật giáo Đại thừa thì Phật bắt đầu nói kinh Pháp Hoa sau 40 năm từ khi Ngài thành đạo. Lúc ấy Phật giáo đã có ba thừa: một con đường cho Thanh Văn, một con đường cho Duyên Giác và một con đường cho Bồ tát. Đến khi kinh Pháp Hoa ra đời đã xóa tan ý niệm ba thừa vì ba con đường kia chẳng qua chỉ là phương tiện tạm dùng thửa ban đầu để đưa hành giả đến từng phần trên con đường Phật quả. Nhưng cứu cánh tối thượng để thành tựu quả vị Bồ đề là chỉ có một con đường chung cho mọi người, gọi là Nhất thừa hay Phật thừa. Ở đây Nhất thừa không có nghĩa là Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa hay Bồ tát thừa mà là Phật thừa. Nói cách khác bây giờ Phật quy tam thừa trở thành Nhất thừa Phật đạo để đưa người tu đạt đến quả vị tối thượng là thành Phật. Ý Phật trong đoạn kinh này là tất cả chúng sinh đều là vàng cả tức là mọi người đều có “Tri Kiến Phật” hay “Phật tánh” giống y như Phật. Nhưng vàng của chúng sinh hiện nay còn trộn chung với sỏi cát tức là vô minh phiền não nên chính họ không thấy biết chất vàng đó. Nếu không có chất vàng cho dù có rữa sạch hết cả ngọn núi kia thì cũng không bao giờ tìm đâu ra một tí vàng được nghĩa là nếu không có sẵn Phật tánh trong ta thì không bao giờ thành Phật cho dù chúng ta tu đến bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp.

Bấy giờ đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên rằng một bài kệ:

... Xá-lợi-phất ! Nên biết

Ta vốn lập thệ nguyện

Muốn tất cả chúng sanh

Bằng như ta không khác

Như ta xưa đã nguyện

Nay đã viên mãn rồi

Độ tất cả chúng sanh

Đều khiến vào Phật đạo

 ... Xá-lợi-phất ! Nên nhớ

 Ta vì bày phương tiện

 Nói các đạo diệt khổ

 Chỉ cho họ Niết Bàn

 Ta dù nói Niết Bàn

 Mà không thật diệt độ

 Các pháp từ xưa nay

 Tướng nó thường vắng lặng

 Phật tử hành đạo rồi

 Sau đó được thành Phật

... Nếu có hạng chúng sanh

Nghe pháp Phật tu hành

Những người như thế đó

Đều đã thành Phật đạo

 ... Các Phật diệt độ rồi

 Người cúng dường Xá lợi

 Nhóm đất làm tháp Phật

 Những hạng người như thế

 Đều đã thành Phật đạo

... Các đồng tử vui chơi

Nhóm cát thành miếu Phật

Những trẻ con như thế

Đều đã thành Phật đạo

 ... Nếu có người mến Phật

 Chạm trổ các hình tướng

 Nắng vẽ hình tượng Phật

 Những người như thế đó

 Đều đã thành Phật đạo

... Có người trước tháp miếu

Dùng hoa, hương, phan lọng

Thành kính mà cúng dường

Ca ngâm khen ngợi Phật

Nhẫn đến tiếng thì thầm

Đều đã thành Phật đạo

 … Hoặc người tâm tán loạn

 Vào trong tháp miếu Phật

 Một xưng nam mô Phật

 Đều đã thành Phật đạo

… Với chư Phật quá khứ

Tại thế hoặc diệt độ

Nghe tin chư Phật ấy

Đều đã thành Phật đạo

 … Nếu có người nghe pháp

 Không ai chẳng thành Phật

 Các Phật vốn thệ nguyện

 Tu hành thành Phật đạo

… Phật là thầy trong đời

Thường phương tiện tùy nghi

Diệt bỏ tâm nghi hối

Tự biết sẽ thành Phật.

Từ khi thành Phật, Ngài đã đem giáo lý Tứ Diệu Đế tức là giáo lý nói về khổ để dạy cho hàng Thanh Văn để họ thoát khổ có được giải thoát và chứng đắc Niết bàn. Nhưng Niết bàn này chưa phải là vô Thượng Niết bàn của chư Phật vì thế Phật mói nói thời Pháp Hoa trước khi Ngài nhập diệt để hoàn thành Phật đạo. Nên nhớ “Chư pháp tùng bản lai, Thường tự tịch diệt tướng” nghĩa là các pháp từ xưa nay tướng nó thường vắng lặng nghĩa là cái tự tánh, cái bản chất của các pháp đã là Niết bàn rồi thành ra không thể đi tìm Niết bàn ở ngoài các pháp được. Nhưng thế nào là các pháp?

Pháp tánh là tánh thanh tịnh bản nhiên của vạn pháp. Nếu nói về loài vô tình chúng sinh như núi sông, đất liền, trời trăng, mây nước, cây cỏ thì gọi là Pháp tánh. Còn đối với loài hữu tình chúng sinh như con người thì tánh thanh tịnh vốn có đó bây giờ gọi là Phật tánh. Vậy Phật tánh hay Pháp tánh cũng được gọi chung ở đây là “Chư Pháp”. Vì thế câu “Chư pháp tùng bản lai, Thường tự tịch diệt tướng” nghĩa là cái tướng của Phật tánh hay Pháp tánh từ xưa nay đều là thanh tịnh bản nhiên, không hề có nào sinh ra tội lỗi xấu xa hết. Do đó “Tri Kiến Phật” ở đây là vận dụng và sống với cái tánh vốn thanh tịnh bản nhiên sẵn có đó trong mọi chúng sinh. Sự sinh hoạt của con người phản ảnh qua lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) tiếp xúc với lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Nói thế không có nghĩa thấy là tội lỗi, nghe là tội lỗi hay ăn món nào cũng là tội lỗi…Lục căn tự nó là thanh tịnh bản nhiên không có chi là tội lỗi và dĩ nhiên lục trần cũng thế tự nó là thanh tịnh bản nhiên không có gì là tội lỗi xấu xa cả. Đó là ý nghĩa câu “Chư pháp tùng bản lai, Thường tự tịch diệt tướng” tức là các pháp xưa nay cái tướng thường tự tịch diệt. Vì thế nếu chúng sinh thực hành Tri Kiến Phật rốt ráo nghĩa là tri kiến này là tri kiến vô kiến thì chúng sinh sẽ thành Phật. Ngược lại nếu chúng sinh sống với tri kiến lập tri tức là sống với chấp trước mê lầm thì vĩnh viễn vẫn là chúng sinh. Nói cách khác thấy mà tâm không mê đắm chạy theo hình sắc, tai nghe mà không dính mắc theo âm thanh, lưởi có nếm mà không chạy theo mùi vị…tức là không mời khách trần phiền não vào tâm thì chắc chắn cuộc sống sẽ vô cùng nhẹ nhàng thanh thoát, tự tại. Ngược lại mắt thấy tâm liền si mê đắm nhiễm, tai nghe liền chấp trước chạy theo vọng tưởng phân biệt, lưởi nếm liền tham đắm món ngon vật lạ… thì chắc chắn cuộc sống sẽ trở thành điên đảo khổ đau.

Chúng sinh biết hành trì thì chính họ đã thành Phật rồi, nhưng Phật ở đây phải được hiểu là từng giai đoạn để cuối cùng đến được quả vị tối thượng là thực sự thành Phật.

1)Lý tức Phật: Trong kinh Pháp Hoa, Phật dạy rằng:”Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật” nghĩa là trong tất cả chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật.Hiểu rõ được lý ấy tức là Phật.

2)Danh tự tức Phật: Danh tự là lời Phật dạy trong kinh điển vì tất cả các pháp đều là Phật pháp. Do đó nếu lãnh hội được lý tánh của vũ trụ, vạn hữu qua kinh điển, văn tự tức là Phật.

3)Quán hạnh tức Phật: Quán là quán tưởng, hạnh là tu hành nghĩa là thực hành đúng theo lời Phật dạy tức là Phật.

4)Tương tợ tức Phật: Trong khi tu hành, tuy chưa thực chứng được lý tánh, nhưng tâm thể được yên lặng gần như đã thực chứng nên gọi là tương tợ tức Phật.

5)Phần chứng tức Phật: Theo phái Thiên Thai thì vô minh như là một tấm màn dày đặc gồm có 41 lớp. Nhờ công phu tu tập, nếu hành giả phá được một lớp là chứng được một phần trung đạo tức là phần chứng tức Phật. Hành giả đến đây là đã vượt qua các bậc Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa và Đẳng giác.

6)Cứu cánh tức Phật: Đây là chứng được chỗ mầu nhiệm tột cùng của đạo Phật. Đó là bậc Diệu giác, Chủng trí đều viên mãn tức là thành Phật.

Tóm lại, trong mỗi chúng sinh vốn đã có sẵn “Tri Kiến Phật” tức là Phật tánh nhiệm mầu vì thế Như Lai trong kinh Pháp Hoa mới vén màn bí mật để chỉ thẳng cho họ biết và tự tin vào tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình mà hành trì đúng theo chánh đạo để tiến thẳng về nhất thừa Phật đạo mà thành Phật. Trước khi Phật nhập Niết bàn, Ngài muốn chia sẽ một hoài bảo to lớn mà chính Ngài đã luôn ôm ấp từ ngày thành đạo. Một lý tưởng vĩ đại xiễn dương tinh thần khách quan bình đẳng của Phật giáo vì tất cả mọi chúng sinh cũng đều có Phật tánh như nhau, giống y như Phật. Mà muốn phát huy cái Phật tánh thiêng liêng huyền diệu này để trở thành Phật thì chỉ có một con đường duy nhất là Phật thừa chớ không phải Thanh Văn thừa, Duyên giác thừa hay Bồ tát thừa. Phương tiện Phật chỉ bày ngày xưa là tạm thời mà bây giờ Phật mới đưa ra cứu cánh tối thượng, là con đường duy nhất để viên mãn đạo quả Bồ đề, đó là Nhất thừa Phật đạo để thành Phật. Căn nghiệp của chúng sinh khác nhau cho nên đức Phật nhận thấy chúng sinh là những hoa sen trong đầm với đầy đủ màu xanh, đỏ, trắng lẫn lộn. Có hoa sen còn nằm trong bùn, có hoa sen đã vươn lên trong nước, có hoa đã vươn gần mặt nước và có hoa đã vượt khỏi mặt nước. Vì thế tinh thần Pháp Hoa là thấy tất cả mọi người là hoa sen, dù còn nằm trong bùn hay đã nở rộ, nhưng tất cả đều cùng chung Phật tánh như nhau. Huyền nghĩa Pháp Hoa là khai, thị, ngộ, nhập cái hoa sen Phật tánh ấy nơi mình. Nhưng quan trọng nhất là sống với cái hoa sen ấy nơi mình khiến cho nó càng ngày càng nở lớn hơn, tỏa hương cùng khắp và hỗ trợ làm nở hoa sen nơi người khác.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn