TỨ PHẦN LUẬT 四分律
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm.
Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên
Chứng
MỤC LỤC PHẦN THỨ
TƯ PHẦN TẠP PHÁP Việt dịch quyển 6
CHƯƠNG
I. PHÒNG
XÁ
1. Ca-lan-đà
Trúc viên
2. Tinh xá
3. Giường nằm
4. Chăn màn
5. Sảnh đường
6. Cấp Cô Độc
7. Thứ bậc
Tăng trong già-lam
8. Trú trì
9. Phòng ốc
10. Tường rào
chùa
11. Nhà tắm
12. Dùng nước
13. Đất trống
14. Lò sưởi
15. Thọ nhận
phi pháp
16. Tứ phương
Tăng vật
17. Tỳ-kheo Tri
sự
18. Chia cháo
CHƯƠNG
II. TẠP
SỰ
1. Bát
2. Dao
3.
Râu-tóc-móng
4. Trang sức
5. Thần biến
thị đạo
6. Thiên bức
luân
7. Các loại
bát cấm
8. Xông bát-Nung
bát
9. Trì bát
10. Tịnh quả
11. Câu-chấp
12. Khâu y
13. Vá bát
14. Lấy lửa
15. Lọc nước
16. Ăn ngủ
chung
17. Chuyển thể
Phật ngôn
18. Kín đáo
19. Dù-gậy-quạt-phất
trần
20. Chỗ ngồi
21. Tỏi
22. Khuân vác
23. Tháp Thanh
văn
24. Cạo tóc
25. Tháp Phật
26. Tắm
27. Úp bát
28. Yết-ma trì
gậy
29. Im lặng
cho qua
30. Chúc lành
- Thề thốt
31. Giây nịt
32. Gốm
33. Chú thuật
34. Răng-lưõi
35. Nuôi cầm
thú
36. Ưu-đà-diên
CHƯƠNG
III. NGŨ
BÁCH KẾT TẬP CHƯƠNG
IV. THẤT
BÁCH KẾT TẬP CHƯƠNG
V. ĐIỀU
BỘ
A. BA-LA-DI
I. BẤT TỊNH
HẠNH
1. Ưu-ba-ly thỉnh
vấn
3. Cộng súc
sanh
4. Dữ học giới
5. Phi đạo
6. Cưỡng dâm
II. BẤT DỮ THỦ
1. Ưu-ba-ly thỉnh
vấn
2. Vật gia dụng
3. Y phục
4. Trốn thuế
5. Trộm tổ
chức
5. Sở hữu tụ
lạc
6. Trộm kinh
7. Đồng loã
8. Trộm nhầm
9. Di chuyển
vật
10. Nguồn nước
11. Chiếm dụng
12. Hoa quả
13. Xe thuyền
14. Vật từ thú
vật
15. Giải phóng
súc vật
16. Vật dụng
của tỳ-kheo
17. Phần của
người khác
18. Cầm nhầm
19. Vật vô chủ
20. Mượn tiếng
lấy
21. Bắt cóc
trẻ
22. Nhận di
chúc
III. ĐOẠN NHÂN
MẠNG
1. Ưu-ba-ly thỉnh
hỏi
2. Khuyến khích
chết
3. Phương tiện
giết
4. Phá thai
5. Cho bệnh
chết sớm
6. Sai bảo
giết
7. Ngộ sát và
cố sát
IV. ĐẠI VỌNG
NGỮ
1. Ưu-ba-ly thỉnh
vấn
2. Tự xưng
3. Tự ám chỉ
4. Tự hiện
tướng
5. Mục-liên tự
thuyết
B.
TĂNG-GIÀ-BÀ-THI-SA
I. LỘNG ÂM
II. XÚC NỮ
III. THÔ ÁC
NGỮ
IV. SÁCH CÚNG
DƯỜNG
V. MÔI GIỚI
VI. VÔ CĂN
BA-LA-DI CHƯƠNG
VI.
TỲ-NI TĂNG NHẤT
I. MỘT PHÁP
II. HAI PHÁP
III. BA PHÁP
IV. BỐN PHÁP
V. NĂM PHÁP
VI. SÁU PHÁP
VII. BẢY PHÁP
VIII. TÁM PHÁP
IX. CHÍN PHÁP
X. MƯỜI PHÁP
XI. MƯỜI MỘT
PHÁP
Trong bảy chúng, Tỳ kheo là bậc nhất. Trong ba tụ giới, Cụ Túc là đứng đầu. Người học Phật lấy giới luật làm nền tảng căn bản, là thềm thang đầu tiên để hướng chí đến quả vị giải thoát. Nếu không nghiêm trì Tịnh giới cho chuyên cẩn, thì cũng giống như đứng ở ngoài cửa mà chưa bước vào trong nhà Phật pháp. Giới luật không chỉ ngăn ngừa các điều ác chưa phát sanh, mà còn làm tăng trưởng thiện căn nơi hành giả. Vì thế, Tuyển Phật Trường là nơi chọn ra được những vị Sa di có bình cam lồ thật sạch để ngày mai đây tiếp nhận dòng nước giới pháp mà giới sư truyền trao.
Từng nghe sanh tử là việc lớn, vô thường lại chóng mau, thật không đợi chờ người. Nếu không quyết tâm ngay đời này giải thoát thì làm sao thắng nỏi con quỷ vô thường giết người không ngừng trong mỗi niệm và giải quyết cho xong việc lớn sanh tử?
Chúng ta đang thảo luận về tâm giác ngộ và một vị Bồ tát có nghĩa là gì, và chúng ta đã thấy rằng chỗ nào để thọ giới Bồ tát có trong sự tiến bộ của việc phát triển tâm giác ngộ, và những giai tầng của việc phát triển tâm giác ngộ.
Giới tử phải thọ luật nghi Cận trú từ người khác chứ không thể tự thọ. Nếu sau này gặp phải các duyên khiến cho giới tử phạm phải việc ác (phạm giới duyên) thì nhờ sinh tâm hổ thẹn đối với thầy truyền giới mà có thể sẽ không phạm các giới đã thọ. Nếu không làm đúng theo các điều trên đây thì người thọ giới có thể có được hành động tốt (diệu hạnh) nhưng không thể đắc giới. Nếu làm đúng theo các điều trên thì luật nghi Cận trú sẽ có tác dụng rất lợi ích ngay cả đối với những người phạm phải ác giới thuộc về một ngày một đêm (như giết hại, trộm cắp, v.v.)[
“Loại luật nghi này có tên là Cận trú (upavāsa) bởi vì, nhờ biểu hiện được lối sống phù hợp với lối sống của các A-la-hán (tadanuśikṣaṇāt), cho nên luật nghi này được đặt gần (upa) với A-la-hán. Có ý kiến khác cho rằng sở dĩ có tên Cận trú là vì nằm gần với loại luật nghi thọ trì suốt đời......
.
Bồ Tát Anh Lạc Bản Nghiệp Kinh: “Nhược nhất thiết chúng sinh sơ nhập tam bảo hải dĩ tín vi bản, trụ tại phật gia dĩ giới vi bản”[1]: Hết thảy chúng sanh khi mới bắt đầu vào biển Tam bảo lấy tín làm gốc; khi sống trong ngôi nhà của Phật, thì lấy giới làm gốc. Học giới khởi sinh từ nơi tư tâm sở hay từ nơi ước muốn và thệ nguyện của một người tha thiết khất cầu pháp học giới để sống đời thanh tịnh....
Những giới khinh của Bồ tát giới là để tránh khỏi 46 hành vi lỗi lầm (nyes-byas). Những hành vi lỗi lầm này được phân thành bảy nhóm gây thiệt hại, mỗi nhóm, liên hệ đến việc rèn luyện của chúng ta trong sáu ba la mật và với việc làm lợi ích cho người khác của chúng ta.
Giới là một hình thức vi tế không thấy trong sự tương tục tinh thần, là thứ hình thành thái độ. Một cách đặc biệt, nó là một sự kềm chế khỏi "một hành vi lỗi lầm", hoặc là một thứ tiêu cực một cách tự nhiên hay một việc mà Đức Phật ngăn cấm cho những cá nhân đặc thù đang tu tập để đạt đến những mục tiêu đặc biệt.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.