Phần 12

25 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 12533)

QUI SƠN CẢNH SÁCH
Thiền Sư Linh Hựu
Hòa Thượng Thích Thanh Từ Việt dịch

Phần 12

Chánh Văn:

“Bất khả đẳng nhàn quá nhật, ngột ngột độ thời, khả tích quang âm, bất cầu thăng tiến. Đồ tiêu thập phương tín thí, diệc nãi cô phụ tứ ân. Tích lụy chuyển thâm, tâm trần dị ủng, xúc đồ thành trệ, nhân sở khinh khi”.

Dịch:

Chẳng nên thong thả qua ngày, ngẩn ngơ hết buổi. Thì giờ đáng tiếc sao chẳng cầu tu tiến. (Như thế thật là) luống hao của tín thí, cũng là cô phụ bốn ân. Tích chứa càng nhiều tâm trần dễ lấp, gặp việc ngăn bít, bị người chê cười.

Giảng:

“Bất khả đẳng nhàn quá nhựt, ngột ngột độ thời”. Tổ quở chúng ta không nên lửng lơ thong thả qua ngày, ngây thơ cho hết tháng. Chữ “ngột ngột” có chỗ dùng để chỉ cho người trong lòng không còn một chút kiến giải nào tâm nhất như, người này cũng ngáo nhưng không phải là cái ngơ ngơ ngáo của người không hiểu đạo lý. Còn ở đây Tổ dùng chữ “ngột ngột” để chỉ cho người lo ăn chơi theo thế tục, cứ ngơ ngơ để ngày tháng trôi qua vô ích.

“Khả tích quang âm bất cầu thăng tiến. Đồ tiêu thập phương tín thí, diệc nãi cô phụ tứ ân”. Chúng ta phải biết quý tiếc thời giờ mà nổ lực tiến tu. Nếu không thì đã luống tiêu hao của tín thí mà cũng là cô phụ bốn ân.

“Tích lụy chuyển thâm, tâm trần dị ủng, xúc đồ thành trệ, nhân sở khinh khi”. Tích chứa tiền của càng nhiều thì tâm dễ bị bụi trần che lấp. Như khi chúng ta không có một xu dính túi thì đâu có nghĩ gì, nếu có ai cho vài ngàn thì lúc đó nghĩ phải mua gì đây? Tức vọng tưởng dấy lên. Tiền ít thì vọng tưởng ít, tiền nhiều thì vọng tưởng càng nhiều. Người có bạc tỷ thì thật khó tu vì phải nghĩ làm sao cho khỏi mất mát, làm sao để sanh lợi? Tâm lúc nào cũng bất an, tức đã bị bụi trần phủ che. Nên người nào chứa nhóm càng nhiều thì càng bị chướng ngại, đối với việc Phật pháp không sáng tỏ được. Tuy có tiền của nhiều, song vẫn bị người khinh vì tu mà đạo lý không biết gì cả. Đến đây Tổ lại an ủi:

Chánh Văn:

“Cổ vân: Bỉ ký trượng phu ngã diệc nhĩ, bất ưng tự khinh nhi thoái khuất. Nhược bất như thử, đồ tại tri môn, nhẫm nhiễm nhất sanh, thù vô sở ích”.

Dịch:

Người xưa nói: Kia trượng phu ta đây cũng thế, chớ tự khinh mình mà lui sụt. Nếu chẳng như thế, luống ở trong cửa đạo dần dà hết một đời, trọn không có lợi ích.

Giảng:

“Bỉ ký trượng phu ngã diệc nhĩ, bất ưng tự khinh khi thoái khuất”. Trong kinh A Hàm có kể chuyện Ngài La Hầu La, Ngài đi tu lúc còn bé, nên hơi khỉ. Có lần thấy các vị Tỳ Kheo ngủ, Ngài đến chọc léc. Các Tỳ Kheo mách lên Phật, Phật quở:

-Sao ông không học theo những vị trưởng lão đằm thắm nghiêm chỉnh, lại đi trửng giỡn như thế?

La Hầu La thưa:

-Bạch Thế Tôn, con đâu dám bì với các hàng Trưởng lão.

Phật dạy:

“Kia là trượng phu, mình cũng thế. Cớ sao lại tự khinh mình, lại có những tánh xấu như vậy?”

Từ đó, câu “ Bỉ ký Trượng phu ngã diệc nhĩ, bất ưng tự khinh nhi thoái khuất” luôn được nhắc nhở đến. Chúng ta thường có cái bịnh là tự ti mặc cảm. Nghe nói đến Phật thì tưởng như Phật ngồi trên mây cao, còn mình thì ở dưới đất. Biết thế nên Phật đã hạ thấp Ngài xuống để hòa với chúng ta và bảo: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”. Tức Phật đã nâng chúng ta lên mà chúng ta vẫn không dám, nên xem chuyện thành Phật quá cao xa, không làm nổi. Tu là tu vậy, chớ không dám tin là mình sẽ thành Phật. Cứ thầm tưởng như vậy nên thay vì cố gắng mười phần chỉ ráng năm, sáu phần thôi. Như anh học trò sắp thi Tú Tài mà lại mang mặc cảm là sẽ rớt, nên đến trường học cầm chừng thôi, bạn bè có rủ đi chơi liền đi. Từ ý niệm thiếu tự tin dẫn đến bê tha. Nếu anh đinh ninh thế nào cũng đậu thì sẽ cố học, ai rủ ren cũng không đi chơi, nhờ thế mà trong suốt niên học siêng năng cần mẫn. Vậy bê tha hay cần mẫn đều do tự tin hay không tự tin. Hiện nay đại đa số người tu chúng ta hầu như mất tự tin. Vì nghĩ mình tu không thành Phật nên thôi thong thả tu, chớ cố gắng làm chi cho nhọc. Có ai rủ đi giải trí thì đi cho khuây khỏa một chút, chắc cũng không phạm tội gì. Cứ thế từ lỗi nhỏ dẫn dần đến lỗi lớn, rồi càng ngày càng xa đạo. Gốc là do thiếu tự tin.

Trong kinh Pháp Hoa có phẩm đáng chú ý là phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát. Bồ Tát Thường Bất Khinh thường làm một việc có vẻ như đùa, đến đâu gặp ai, Ngài cũng nói: “Tôi không dám khinh các Ngài, vì các Ngài đều có khả năng thành Phật”. Ngài không tu hành gì hết, chỉ thường nói một câu ấy thôi, thế mà Phật kết luận rằng: “Thường Bất Khinh Bồ Tát là tiền thân của ta, nhờ tu hạnh ấy mà bây giờ ta được thành Phật. Còn những người mà ta gieo hạt giống thời đó, hiện tại đang ở trong hội chúng đây, có người là Bồ Tát, có người là La Hán”. Như vậy chỉ một câu nói “Tôi không dám khinh các Ngài, vì các Ngài đều sẽ thành Phật”, mà quan trọng vô cùng. Câu nói này đã gieo vào lòng người một niềm tin, tin mình có hạt giống Phật. Chủ yếu của kinh Pháp Hoa là ở phẩm này. Chỉ vì chúng ta mất niềm tin, nên đối với quả Phật cảm thấy vô phần, trong khi mỗi người chúng ta đều có Phật tánh. Mà đã có hạt giống Phật thì quyết định sẽ có ngày thành Phật. Nên ở trên Tổ đã nói: “Phật giai quyết định khả kỳ” tức quả Phật chắc chắn sẽ có ngày thành tựu. Phật Tổ cũng là người như chúng ta, nếu chúng ta đi đúng theo gót chân các Ngài thì chúng ta cũng thành Phật thành Tổ. Nếu chúng ta chưa ra gì mà tự xưng là Tổ thì đó là ngã mạn. Còn nói: “quyết định sẽ thành Tổ”, thì đâu phải ngã mạn. Chúng ta nên hiểu rõ như thế để cố gắng vươn lên.

“Nhược bất như thử đồ tại tri môn, nhẫm nhiễm nhất sanh, thù vô sở ích”. Nếu không được như vậy thì luống ở trong dòng họ nhà tu, lơ lửng một đời trọn không có lợi ích. Tới đây Tổ vừa nhắc nhở vừa quở rầy mà chúng ta đâu đó vẫn y nguyên, mới biết mình nghiệp chướng thật sâu dầy.

Chánh Văn:

“Phục vọng hưng quyết liệt chi chí, khai đặc đạt chi hoài. Cử thố khán tha thượng lưu, mạc thiện tùy ư dung bỉ. Kim sanh tiện tu quyết đoán, tưởng liệu bất do biệt nhân. Tức ý vong duyên, bất dữ chư trần tác đối. Tâm không cảnh tịch chỉ vị cửu trệ bất thông”.

Dịch:

Trông mong (các ông) phát chí dũng mãnh, mở lòng rộng xa. Việc làm phải noi gương hàng Thượng đức chớ học kẻ tầm thường. Đời này tự mình quyết đoán, chẳng do người khác liệu giùm. Dứt ý quên duyên, đừng với các trần làm bạn. Tâm không cảnh lặng, chỉ vì hằng lâu ngăn trệ chẳng thông.

Giảng:

“Phục vọng hưng quyết liệt chi chí, khai đặc đạt chi hoài. Cử thố khán tha thượng lưu, mạc thiện tùy ư dung bỉ. Kim sanh tiện tu quyết đoán, tưởng liệu bất do biệt nhân”. Tổ trông mong chúng ta hãy khởi ý chí quyết liệt, mở tâm rông rãi, phàm làm việc gì phải noi gương các bậc tiền bối (Phật Tổ) chớ duyên theo những kẻ tầm thường. Đời này phải chính mình lo giải quyết lấy việc sanh tử của chính mình chớ trông cậy vào người khác. Như thế mới xứng đáng và không uổng phí một đời tu. Tổ đã thúc đẩy mạnh mẽ để chúng ta một bề thẳng tiến, kế đây Ngài dạy tu:

“Tức ý vong duyên bất dữ chư trần tác đối. Tâm không cảnh tịch, chỉ vị cửu trệ bất thông”. Dứt ý quên duyên đừng cùng với trần cảnh làm đối đãi, tức “tâm cảnh không đến nhau”. Chữ “cảnh tịch” ở đây có nghĩa tâm không duyên theo cảnh. Nếu ở giữa chợ mà tâm không duyên theo cảnh thì đó là “cảnh tịch”. Còn nếu ở núi non vắng vẻ mà tâm cứ nhớ đây nhớ kia thì đó là cảnh ồn. Cảnh vắng hay ồn là do tâm duyên hay không duyên vậy. Xưa nay, tâm vốn rỗng rang, trần cảnh vốn lặng lẽ. Chỉ vì quên chơn theo vọng lâu ngày bị các duyên che lấp, mất bản tâm khiến phải lăng xăng trong sáu nẻo. Bây giờ chỉ cần dừng vọng tưởng là dừng bước luân hồi. Đến đây Ngài nhắc:

Chánh Văn:

“Thục lãm tư văn, thời thời cảnh sách, cưỡng tác chủ tể, mạc tuẫn nhân tình. Nghiệp quả sở khiên, thành nan đào tỵ. Thanh hòa hưởng thuận, hình trực ảnh đoan, nhân quả lịch nhiên, khởi vô ưu cụ”.

Dịch:

Hãy đọc kỹ văn này, thường tự nhắc nhở. Cố gắng làm chủ chớ theo tình người. Nghiệp quả kéo lôi thật khó trốn tránh. Tiếng hòa thì vang thuận; hình thẳng thì bóng ngay. Nhân quả rõ ràng há không lo sợ.

Giảng:

“Thục lãm tư văn, thời thời cảnh sách, cưỡng tác chủ tể, mạc tuẫn nhân tình”. Tổ dạy chúng ta phải thường đọc lại bản văn này cho thuộc lòng để luôn tự đánh thức mình. Phải cố gắng tự chủ đừng chạy theo tình người. Tình người là sao? Là nay, chỗ này thỉnh Thầy đi tụng giùm con một thời kinh. Mai, chỗ nọ thỉnh Thầy đi cúng giùm con một đám v.v…không đi sợ Phật tử buồn cứ như vậy xách gói đi hoài thì làm sao có thì giờ để tu? Cho nên mình phải tự chủ đừng chạy theo tình người, mới có thể tiến tu được.

“Nghiệp quả sở khiên, thành nan đào tỵ. Thanh hòa hưởng thuận, hình trực ảnh đoan, nhân quả lịch nhiên, khởi vô ưu cụ”, một khi nghiệp quả đã buộc ràng thì khó mà trốn tránh. Gây nhơn lành thì được quả tốt, cũng như tiếng êm ái thì âm vang cũng nhẹ nhàng, hình ngay thì bóng thẳng. Nhơn quả theo nhau rõ ràng như vậy. Nếu đời này tu hành chưa giải thoát được thì biết chúng ta gây nhân gì phải gặt quả nấy. Thế nên người biết tu phải dè dặt.

Chánh Văn:

“Cố kinh vân, giả sử bách thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ”.

Dịch:

Cho nên kinh nói: “Giả sử trăm nghìn kiếp, nghiệp đã tạo không bao giờ mất. Nhân duyên khi gặp gỡ, quả báo lại phải chịu.

Giảng:

Đây là Tổ dẫn trong kinh Nhân Quả. Giả sử chúng ta đã tạo nghiệp, dù trãi qua trăm ngàn kiếp, nghiệp đó cũng không mất. Khi hội đủ duyên thì quả báo sẽ đến và chúng ta phải nhận chịu. Đôi khi chúng ta tưởng những việc chúng ta đã làm sẽ qua mất theo thời gian, nhưng thật sự nó không mất mà âm hưởng vẫn còn. Như tiếng nói phát ra chúng ta tưởng là mất, nhưng thật sự nó vang ra và còn lưu lại đâu đó. Điều này bây giờ khoa học đã giúp chúng ta thấy rõ. Những hành động của chúng ta cũng thế. Tuy nhiên, không mất mà mất, mất mà không mất. Giả sử như khi chúng ta có quyền thế, đối với những người xung quanh lắm lúc ta có những lời lẽ hay hành động khinh miệt đối với họ. Lúc đó tuy bên ngoài vì sợ uy lực của ta nên họ không dám buồn trách, nhưng trong lòng họ nhớ mãi. Đến một ngày nào đó, chúng ta sa cơ thất thế, người kia có uy thế hơn, bấy giờ họ sẽ trả thù. Chừng ấy mới thấy nhơn quả rõ ràng. Là người tu biết rõ lý nhân quả thì chúng ta phải dè dặt từng hành động, từng lời nói vậy.

Chánh Văn:

“Cố tri tam giới hình phạt oanh bạn sát nhân. Nổ lực cần tu mạc không quá nhật”.

Dịch:

Nên biết, ba cõi hình phạt trói buộc hại người. Gắng sức lo tu chớ luống qua ngày tháng.

Giảng:

Ba cõi là chỗ chúng sanh thọ quả báo, nên nói: “Ba cõi hình phạt”. Phiền não vọng tưởng là sợi dây trói buộc, là giặc thù cướp mất huệ mạng (hay như trong nhà Thiền gọi là “gia bảo”) của chúng ta, nên nói “trói buộc hại người”. Đến đây Tổ kết thúc và nhắc nhở hết sức thiết tha.

Chánh Văn:

“Thâm tri quá hoạn, phương nãi tương khuyến hành trì. Nguyện bách kiếp thiên sanh, xứ xứ đồng vi pháp lữ, nãi vi minh viết:”

Dịch:

Biết rõ lỗi lầm nên mới khuyên nhau tu tập. Nguyện trăm kiếp ngàn đời, chỗ chỗ cùng (nhau) làm bạn pháp, bèn làm bài minh rằng:

Giảng:

Sở dĩ Tổ khuyên như vậy, vì Ngài đã thấy rõ lỗi lầm đó nên mới khuyên chúng ta tu tập theo lời Tổ dạy. Ngài nguyện trăm kiếp ngàn đời nơi nơi chỗ chỗ đồng làm bạn pháp với chúng ta để nhắc chúng ta cùng tu cùng sớm thành Phật đạo. Và đây cũng là sở nguyện của tất cả người tu vậy. Để toát yếu lại Ngài làm bài minh:

Chánh Văn:

“Huyễn thân mộng trạch

Không trung vật sắc

Tiền tế vô cùng

Hậu tế ninh khắc?”

Dịch:

Thân huyễn nhà mộng

Vật sắc trong không

Mé trước không cùng

Mé sau đâu biết?

Giảng:

 Tổ nhắc chúng ta nên thấy thân này là huyễn hóa, cõi này như cõi mộng. Tất cả hình ảnh sự vật trước mắt ta chẳng khác nào hoa đốm giữa hư không. Tất cả đều là huyễn hóa do nhân duyên sanh, mà nhân duyên thì trùng trùng điệp điệp nên mé trước không cùng, mé sau không thể tính hết.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn