Chương Bảy Pháp Chúng Học

28 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 11866)

ĐÀM-VÔ-ĐỨC TỨ PHẦN LUẬT 
TỲ-KHEO GIỚI BỔN

Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)

CHƯƠNG BẢY

PHÁP CHÚNG HỌC

Thưa các Đại đức, đây là một trăm pháp chúng học xuất từ Giới kinh, mỗi nửa tháng tụng một lần.

1. Phải bận Niết-bàn tăng cho tề chỉnh, cần phải học.

2. Phải khoác ba y cho tề chỉnh, cần phải học.

3. Không nên vắt ngược y khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.

4. Không nên vắt ngược y khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.

5. Không nên quấn y nơi cổ khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.

6. Không nên quấn y nơi cổ khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.

7. Không nên trùm đầu khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.

8. Không nên trùm đâu khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.

9. Không nên nhảy nhót khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.

10. Không nên nhảy nhót khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.

11. Không nên ngồi chồm hổm trong nhà bạch y, cần phải học.

12. Không nên chống nạnh khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.

13. Không nên chống nạnh khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.

14. Không nên uốn éo thân mình khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.

15. Không nên uốn éo thân mình khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.

16. Không nên khoác tay khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.

17. Không nên khoác tay khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.

18. Phải trùm kín thân thể khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.

19. Phải trùm kín thân thể khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.

20. Không nên nhìn ngắm ngang dọc khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.

21. Không nên nhìn ngắm ngang dọc khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.

22. Phải khẽ tiếng khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.

23. Phải khẽ tiếng khi ngồi trong nhà nhà bạch y, cần phải học.

24. Không được cười cợt khi đi vào nhà bạch y, cần phải học.

25. Không được cười cợt khi ngồi trong nhà bạch y, cần phải học.

26. Phải dụng ý khi thọ nhận thức ăn, cần phải học.

27. Thọ nhận thức ăn vừa ngang bát, cần phải học.

28. Thọ nhận canh vừa ngang bát, cần phải học.

29. Ăn cơm và canh đồng đều, cần phải học. 

30. Theo thứ tự mà ăn, cần phải học.

31. Không nên moi giữa bát mà ăn, cần phải học.

32. Tỳ-kheo không bịnh, không được vì mình yêu sách cơm canh, cần phải học.

33. Không nên dùng cơm che lấp canh để mong được thêm, cần phải học.

34. Không nên liếc nhìn vào trong bát người ngồi cạnh sanh tâm tị hiềm, cần phải học.

35. Phải chú tâm vào bát mà ăn, cần phải học.

36. Không nên ăn vắt cơm lớn, cần phải học.

37. Không nên há miệng lớn đợi cơm mà ăn, cần phải học.

38. Không nên ngậm cơm mà nói, cần phải học.

39. Không nên vắt cơm thảy vào miệng, cần phải học.

40. Không nên để cơm rơi rớt khi ăn, cần phải học.

41. Không nên búng má mà ăn, cần phải học.

42. Không nên nhai cơm có tiếng khi ăn, cần phải học.

43. Không nên hớp cơm có tiếng mà ăn, cần phải học.

44. Không nên lấy lưỡi liếm khi ăn, cần phải học.

45. Không nên rảy tay khi ăn, cần phải học.

46. Không nên dùng tay lượm cơm rơi mà ăn, cần phải học.

47. Không nên tay dơ cầm đồ đựng thức ăn, cần phải học.

48. Không nên đổ nước rửa bát trong nhà bạch y, cần phải học.

49. Không nên đại tiểu tiện, hỉ, nhổ lên rau cỏ tươi, trừ bịnh, cần phải học.

50. Không được đại tiểu tiện, hỉ nhổ trong nước sạch, trừ bịnh, cần phải học.

51. Không nên đứng mà đại tiểu tiện, trừ bịnh, cần phải học.

52. Không nên thuyết pháp cho người vắt ngược áo không cung kính, trừ người bịnh, cần phải học.

53. Không nên thuyết pháp cho người quấn áo nơi cổ, trừ người bịnh, cần phải học.

54. Không nên thuyết pháp cho người trùm đầu, trừ người bịnh, cần phải học.

55. Không nên thuyết pháp cho người quấn khăn trên đầu trừ người bịnh, cần phải học.

56. Không nên thuyết pháp cho người chống nạnh, trừ người bịnh, cần phải học.

57. Không nên thuyết pháp cho người mang dép da, trừ người bịnh, cần phải học.

58. Không nên thuyết pháp cho người mang guốc gỗ, trừ người bịnh, cần phải học.

59. Không nên thuyết pháp cho người ngồi trên ngựa, trừ người bịnh, cần phải học.

60. Không nên ngủ nghỉ trong tháp Phật, trừ vì canh giữ, cần phải học.

61. Không được chôn giấu tài vật trong tháp Phật, trừ muốn cho chắc chắn, cần phải học.

62. Không được mang dép da vào tháp Phật, cần phải học.

63. Không được tay cầm dép da đi vào trong tháp Phật, cần phải học.

64. Không được mang dép da đi nhiễu quanh tháp Phật, cần phải học.

65. Không được mang giày phú la vào trong tháp Phật, cần phải học.

66. Không được xách giày phú la vào trong tháp Phật, cần phải học.

67. Không được ngồi dưới tháp Phật mà ăn, cần phải học.

68. Không được khiêng tử thi đi qua dưới tháp Phật, cần phải học.

69. Không được chôn tử thi dưới tháp Phật, cần phải học.

70. Không được thiêu tử thi dưới tháp Phật, cần phải học.

71. Không được đối diện tháp Phật thiêu tử thi, cần phải học.

72. Không được thiêu tử thi quanh bốn phía tháp Phật, làm hôi thối xông vào, cần phải học.

73. Không được mang áo và giường người chết đi qua dưới tháp Phật, trừ đã giặt nhuộm xông hương, cần phải học.

74. Không được đại tiểu tiện dưới tháp Phật, cần phải học.

75. Không được đại tiểu tiện trước tháp Phật, cần phải học.

76. Không được đại tiểu tiện quanh bốn phía tháp Phật, khiến hôi thối xông vào, cần phải học.

77. Không được mang tượng Phật đến chỗ đại tiểu tiện, cần phải học.

78. Không được nhăn nhành dương (đánh răng, súc miệng) dưới tháp Phật, cần phải học.

79. Không được nhăn nhành dương (đánh răng, súc miệng) đối diện tháp Phật, cần phải học.

80. Không được nhăn nhành dương (đánh răng, súc miệng) quanh bốn phía tháp Phật, cần phải học.

81. Không được hỉ, nhổ dưới tháp Phật, cần phải học.

82. Không được hỉ, nhổ đối diện tháp Phật, cần phải học.

83. Không được hỉ, nhổ quanh bốn phía tháp Phật, cần phải học.

84. Không được ngồi duỗi chân về phía tháp Phật, cần phải học.

85. Không được đặt (thờ) tháp Phật (nhỏ) ở phòng dưới, mình ở phòng trên, cần phải học.

86. Không được thuyết pháp cho người ngồi mà mình đứng, trừ người bịnh, cần phải học.

87. Không được thuyết pháp cho người nằm mà mình ngồi, trừ người bịnh, cần phải học.

88. Không được thuyết pháp cho người ngồi chính giữa, còn mình ngồi một bên, trừ người bịnh, cần phải học.

89. Không được thuyết pháp cho người ngồi chỗ cao, còn mình ngồi chỗ thấp, trừ người bịnh, cần phải học.

90. Không được thuyết pháp cho người đi trước, còn mình đi phía sau, trừ người bịnh, cần phải học.

91. Không được thuyết pháp cho người ở chỗ kinh hành cao, còn mình ở chỗ kinh hành thấp, trừ người bịnh, cần phải học.

92. Không được thuyết pháp cho người ở giữa đường, còn mình ở bên đường, trừ người bịnh, cần phải học.

93. Không được nắm tay khi đi đường, cần phải học.

94. Không được leo lên cây cao quá đầu người, trừ khi có nhân duyên, cần phải học.

95. Không được bỏ bình bát vào trong đãy rồi xỏ vào đầu gậy, không cung kính, trừ người bịnh, cần phải học.

96. Không được thuyết pháp cho người cầm gậy, không cung kính, trừ người bịnh, cần phải học.

97. Không được thuyết pháp cho người cầm gươm, trừ người bịnh, cần phải học.

98. Không được thuyết pháp cho người cầm mâu, trừ người bịnh, cần phải học.

99. Không được thuyết pháp cho người cầm dao, trừ người bịnh, cần phải học.

100. Không được thuyết pháp cho người cầm dù, trừ ngườøi bịnh, cần phải học.

Thưa các Đại đức, tôi đã tụng xong một trăm pháp chúng học.

Nay hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (3 lần).

Các Đại đức trong đây thanh tịnh, vì im lặng. Việc ấy tôi ghi nhận như vậy.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
18 Tháng Ba 2016(Xem: 6551)
Trong bảy chúng, Tỳ kheo là bậc nhất. Trong ba tụ giới, Cụ Túc là đứng đầu. Người học Phật lấy giới luật làm nền tảng căn bản, là thềm thang đầu tiên để hướng chí đến quả vị giải thoát. Nếu không nghiêm trì Tịnh giới cho chuyên cẩn, thì cũng giống như đứng ở ngoài cửa mà chưa bước vào trong nhà Phật pháp. Giới luật không chỉ ngăn ngừa các điều ác chưa phát sanh, mà còn làm tăng trưởng thiện căn nơi hành giả. Vì thế, Tuyển Phật Trường là nơi chọn ra được những vị Sa di có bình cam lồ thật sạch để ngày mai đây tiếp nhận dòng nước giới pháp mà giới sư truyền trao.
08 Tháng Giêng 2016(Xem: 7186)
Từng nghe sanh tử là việc lớn, vô thường lại chóng mau, thật không đợi chờ người. Nếu không quyết tâm ngay đời này giải thoát thì làm sao thắng nỏi con quỷ vô thường giết người không ngừng trong mỗi niệm và giải quyết cho xong việc lớn sanh tử?
30 Tháng Bảy 2015(Xem: 11387)
Chúng ta đang thảo luận về tâm giác ngộ và một vị Bồ tát có nghĩa là gì, và chúng ta đã thấy rằng chỗ nào để thọ giới Bồ tát có trong sự tiến bộ của việc phát triển tâm giác ngộ, và những giai tầng của việc phát triển tâm giác ngộ.
29 Tháng Bảy 2015(Xem: 6480)
Giới tử phải thọ luật nghi Cận trú từ người khác chứ không thể tự thọ. Nếu sau này gặp phải các duyên khiến cho giới tử phạm phải việc ác (phạm giới duyên) thì nhờ sinh tâm hổ thẹn đối với thầy truyền giới mà có thể sẽ không phạm các giới đã thọ. Nếu không làm đúng theo các điều trên đây thì người thọ giới có thể có được hành động tốt (diệu hạnh) nhưng không thể đắc giới. Nếu làm đúng theo các điều trên thì luật nghi Cận trú sẽ có tác dụng rất lợi ích ngay cả đối với những người phạm phải ác giới thuộc về một ngày một đêm (như giết hại, trộm cắp, v.v.)[
20 Tháng Bảy 2015(Xem: 6609)
“Loại luật nghi này có tên là Cận trú (upavāsa) bởi vì, nhờ biểu hiện được lối sống phù hợp với lối sống của các A-la-hán (tadanuśikṣaṇāt), cho nên luật nghi này được đặt gần (upa) với A-la-hán. Có ý kiến khác cho rằng sở dĩ có tên Cận trú là vì nằm gần với loại luật nghi thọ trì suốt đời...... .
04 Tháng Bảy 2015(Xem: 6466)
Bồ Tát Anh Lạc Bản Nghiệp Kinh: “Nhược nhất thiết chúng sinh sơ nhập tam bảo hải dĩ tín vi bản, trụ tại phật gia dĩ giới vi bản”[1]: Hết thảy chúng sanh khi mới bắt đầu vào biển Tam bảo lấy tín làm gốc; khi sống trong ngôi nhà của Phật, thì lấy giới làm gốc. Học giới khởi sinh từ nơi tư tâm sở hay từ nơi ước muốn và thệ nguyện của một người tha thiết khất cầu pháp học giới để sống đời thanh tịnh....
02 Tháng Bảy 2015(Xem: 10816)
Những giới khinh của Bồ tát giới là để tránh khỏi 46 hành vi lỗi lầm (nyes-byas). Những hành vi lỗi lầm này được phân thành bảy nhóm gây thiệt hại, mỗi nhóm, liên hệ đến việc rèn luyện của chúng ta trong sáu ba la mật và với việc làm lợi ích cho người khác của chúng ta.
02 Tháng Năm 2015(Xem: 11301)
Giới là một hình thức vi tế không thấy trong sự tương tục tinh thần, là thứ hình thành thái độ. Một cách đặc biệt, nó là một sự kềm chế khỏi "một hành vi lỗi lầm", hoặc là một thứ tiêu cực một cách tự nhiên hay một việc mà Đức Phật ngăn cấm cho những cá nhân đặc thù đang tu tập để đạt đến những mục tiêu đặc biệt.