- Mục Lục Chi Tiết
- 01 Cương Yếu Giới Luật (01-17)
- 02 Cương Yếu Giới Luật (18-45)
- 03 Cương Yếu Giới Luật (46-50)
- 04 Cương Yếu Giới Luật (51-56)
- 05 Cương Yếu Giới Luật (57-85)
- 06 Bồ-tát Giới - Bồ-tát Danh Và Thiệt
- 07 Xuất Gia Hoằng Phật Đạo
- 08 Giới Là Bậc Thầy Cao Cả Nhất
- 09 Khai Đạo Giới Tử Thọ Bồ-tát Giới
- 10 Thọ Giới Là Làm Cho Phật Pháp Miên Trường Giữa Thế Gian
Thích
Thiện Siêu
CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo - 2002
KHAI ĐẠO GIỚI TỬ
THỌ BỒ TÁT GIỚI
Chư vị Giới tử,
Cùng một danh từ
Bồ-tát, nhưng phân biệt ra có: Sơ phát tâm Bồ-tát, Gia hạnh Bồ-tát, Địa thượng
Bồ-tát, Địa hậu Bồ-tát khác nhau. Như hôm nay, các vị phát tâm thọ giới Bồ-tát,
là chỉ mới phát tâm thôi, chưa làm gì xứng đáng với sự phát tâm ấy, chưa hoàn
thành những giới hạnh của một vị Bồ-tát thì chỉ được gọi là Sơ phát tâm Bồ-tát.
Từ đó, tu tập trải qua các giai đoạn Tín, Trụ, Hạnh, Hướng, tu luyện theo những
pháp môn Đại thừa mà đức Phật đã chỉ dạy thì gọi là Gia hạnh Bồ-tát. Nhờ sự gia
hạnh đó mà vô minh sẽ diệt bớt, chân như sẽ được chứng thành, dần dần nhập vào
Sơ địa, Nhị địa, Tam địa, Tứ địa, cho đến Thập địa. Những Bồ-tát ở địa vị này
được gọi là Địa thượng Bồ-tát.Các vị ấy, sau khi đã thành tựu Đắng giác, Diệu
giác, vẫn tùy duyên hóa độ chúng sinh dưới nhiều hình thức, dưới nhiều căn cơ,
dưới nhiều phương tiện. Tính cách tùy duyên hóa độ, không trú Niết-bàn của các
đức Phật, gọi là Địa hậu Bồ-tát. Vậy cùng một danh từ Bồ-tát nhưng có Sơ phát
tâm Bồ-tát, Gia hạnh Bồ-tát, Địa thượng Bồ-tát, Địa hậu Bồ-tát khác nhau. Hiểu
rõ như thế chúng ta mới có một ấn tượng rõ rệt để phát tâm một cách vững chắc,
tu hành một cách sáng suốt. Địa vị đã khác nhau như thế, thì tại sao chúng ta
cũng được gọi là Bồ-tát, các vị Gia hạnh, Địa thượng, Địa hậu cũng gọi là
Bồ-tát cả? Bởi vì tuy cấp bậc khác nhau, nhưng có mộl điểm đồng nhất, đó là
Bồ-đề tâm. Bắt đầu phát Bồ-đề tâm là phát tâm thượng cầu hạ hóa (trên cầu được
giác ngộ, dưới cầu hóa độ chúng sinh). Tâm đó phát ra giờ phút nào thì chính
giờ phút đó, chúng ta được gọi là Bồ-tát. Tâm ấy bền chắc mãi mãi, suốt thời
gian không gian không bao giờ lay chuyển, cho đến khi trải qua các địa vị Gia
hạnh, Địa thượng, Địa hậu vẫn một tâm Bồ-đề ấy, không khác gì một sợi chỉ xuyên
các hột chuỗi. Nhìn vào địa vị thì có Sơ phát tâm Bồ-tát, Gia hạnh Bồ-tát, Địa
thượng Bồ-tát, Địa hậu Bồ-tát khác nhau. Chúng ta không thể nào sánh bằng đức
Quán Thế Âm, đức Đại Thế Chí; chúng ta cũng không thể nào sánh bằng những vị
Bồ-tát trên các địa vị Tín, Trụ, Hạnh, Hướng ở Thập địa... nhưng bên trong vẫn
là một tâm Bồ-đề xuyên suốt tất cả. Vì cái tâm Bồ-đề xuyên suốt tất cả đó mà
tất cả đều được mang danh từ Bồ-tát, căn cứ vào sự phát Bồ-đề tâm. Như đức Bổn
sư Thích-ca của chúng ta, lúc ban sơ cũng là một chúng sinh lăn lộn trong vòng
luân hồi đau khổ. Một hôm nọ, như bao nhiêu chúng sinh khác trong cảnh địa
ngục, phải vất vả kéo xe mà còn bị ngục tốt hành hạ, Ngài phát tâm mong sao cho
mình được mạnh khỏe để kéo thay cho tất cả những chúng sinh khác để họ khỏi bị
hành hạ. Bắt đầu từ đó, Ngài phát một tâm lợi tha. Tâm ấy là căn bản, rồi từ
đấy chuyển nghiệp tiến tu, cho đến khi thành Phật, tâm Bồ-đề ấy vẫn không dứt
đoạn. Cũng vì sự phát lâm ấy là một sự phát tâm rộng lớn, căn cứ vào Đại thừa
tánh, nên Kinh thường tán thán rằng những người nào phát Bồ-đề tâm tức là đã
thành giác ngộ, không cần trải qua các địa vị, vì đã cầm chắc trong tay quả vị
giác ngộ rồi. Bởi thế, sự phát Bồ-đề tâm trở thành Bồ-tát là một điều hết sức
quan trọng.
Khi đức Phật dạy
các giới pháp Sa-di và Tỳ-kheo, khi chúng ta lãnh thọ các giới pháp ấy, là
chúng ta đã trở thành những người xuất gia với những giới luật và tư cách đã
đầy đủ lắm rồi. Nhưng còn phương diện lợi tha, hành đạo rộng rãi vô biên nữa
nên Phật mới căn cứ vào tâm địa giác là giác tánh có sẵn ở trong tất cả chúng
sinh cũng như nơi đức Phật và Bồ-tát. Tất cả đều có tâm địa giác, nhưng ở chúng
ta thì không thành tâm địa giới, bởi vì tâm địa giác ở chúng ta không được để
ý, không được khai thác, không được khuếch truơng, không được hiểu biết. Tâm
địa giác nơi chúng ta luôn bị vùi lấp dưới những hành vi sai quấy, những nghiệp
chướng nặng nề, những tâm niệm ích kỷ, nên không thành Đại thừa tâm địa giới.
Phật thấy chúng sinh đã có tâm địa giác nhưng chưa có tâm địa giới, nên mới căn
cứ vào tâm địa giác đó mà chế ra những điều mục tu hành để thành tựu tâm địa
giới. Tâm địa giới ấy gọi là Đại thừa Bồ-tát tâm địa giới mà hôm nay các vị sắp
thọ. Tâm địa chúng ta vốn có khả năng ngăn ngừa tất cả điều ác, Phật từ đó chế
ra Nhiếp luật nghi giới. Tâm địa chúng ta vốn đủ khả năng làm mọi điều lợi ích,
chuyển nghiệp, căn cứ vào đó Phật chế ra Nhiếp thiện pháp giới. Tâm địa chúng
ta vốn là giác tánh bình đẳng, lợi lạc hữu tình, từ bi hỉ xả, quảng đại vô
biên, vô lậu, Phật căn cứ vào đó chế ra Nhiếp chúng sinh giới (Nhiêu ích hữu
tình giới). Tu tập theo Nhiếp luật nghi giới, chúng ta ngăn ngừa mọi tội lỗi ba
nghiệp thân miệng ý. Tu tập theo Nhiếp thiện pháp giới, chúng ta làm mọi việc
lành, ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh hay tám muôn bốn nghìn pháp môn mà đức
Phật đã chỉ giáo cho chúng ta tu hành. Nhiếp luật nghi giới là 10 giới trọng
cấm và 48 giới khinh mà kinh Phạm Võng đã đề ra và lát nữa đây các vị sẽ thọ.
Tám vạn bốn nghìn pháp môn là những pháp môn phụng thờ Tam Bảo, thừa sự Như
Lai, không phải một hai đức Phật mà vô lượng đức Phật. Với một tâm Đại thừa quả
cảm, dõng mãnh tinh tấn phụng thờ Tam Bảo mà khi gặp đức Phật Đề-sa đi ngang
qua, Ngài (Bồ-tát Thích-ca văn) đã say sưa chiêm ngưỡng đức Phật trong bảy
ngày; một cái chân giơ lên, không để xuống mà không biết; mắt không nháy mà
không hay. Lúc đó Ngài chỉ thấy việc tán dương đức Phật là sung sướng, quý báu
hơn tất cả, thời gian không có nữa đối với Ngài. Nhiếp thiện pháp giới có vô số
phương pháp tu tập, nhưng nói tóm Tứ nhiếp, Lục độ là những phương pháp viên
mãn nhất để lợi lạc chúng sinh. Cuối cùng, vượt lên trên tất cả Nhiếp luật nghi
giới, Nhiếp thiện pháp giới là Nhiếp chúng sinh giới. Đây là một điều nhằm vào
sự cứu độ chúng sinh, lợi lạc hữu tình. Trong Sa-di giới, Tỳ-kheo giới, sự cứu
độ này được coi nhẹ, nhưng ở Bồ-tát giới thì rất trọng. Vì lẽ, một tâm Bồ-đề
“thượng cầu hạ hóa” là một tâm nhìn xa, thấy rộng, biết sâu không phải là một
tâm còn hạn cuộc trong một chúng sinh, trong một thân ngũ uẩn. Tâm đó vượt
ngoài biên cương của một thể xác để nhìn khắp tất cả chúng sinh cùng chung một
tâm địa giác như mình, khổ đau như mình, cùng chung một khả năng giác ngộ như
mình, để theo niệm đại bi đồng thể đó mà cứu độ tất cả. Tu tập theo đó là Nhiếp
chúng sinh giới.
Nói tóm lại,
Bồ-tát giới chia ra từng đề mục, 10 giới trọng, 48 giới khinh, nhưng tóm tắt có
ba mục chính yếu gọi là:
1. Nhiếp luật nghi
giới: ngăn ngừa tất cả tội lỗi.
2. Nhiếp thiện
pháp giới: làm tất cả việc lành.
3. Nhiếp chúng
sinh giới: làm những việc ích lợi chúng sinh.
Trong Tỳ-kheo hay
Sa-di giới, đức Phật dạy chúng ta chú trọng vào việc giải thoát sinh tử luân
hồi. Sự giải thoát sinh tử này nhằm vào bản thân, nên giới cấm đầu tiên, đức
Phật răn chúng ta bất dâm, rồi mới đến bất đạo, bất sát, bất vọng. Dục là căn
bản của vô lượng sinh tử luân hồi. Còn nước ái dục thì gốc luân hồi còn sinh
mãi; nước ái dục hết thì gốc luân hồi sẽ phải cháy khô. Thấy rõ như vậy, nên
đức Phật dạy người xuất gia, muốn cầu giải thoát thì phải chú trọng đến việc
diệt trừ ái dục. Do đó, giới trọng đầu tiên của Tỳ-kheo là bất dâm, rồi mới đến
bất đạo, bất sát, bất vọng. Trong Bồ-tát giới, không phải chỉ ngó vào mình mà
xoay cái nhìn vào chúng sinh, cho nên giới trọng đầu tiên là bất sát rồi mới
đến bất đạo, bất dâm, bất vong. Trong Tỳ-kheo thì bất dâm đứng đầu, trong
Bồ-tát giới thì bấl sát đứng đầu, vì Bồ-tát xem việc cứu chúng sinh trọng hơn
việc giải thoát luân hồi sinh tử của bản thân. Vì sự sai biệt ấy, nên nếu muốn
hoàn thành cả hai khía cạnh tự giác giác tha, tự lợi lợi tha thì phải thọ cả
giới Sa-di, Tỳ-kheo và Bồ-tát. Cũng chính vì lẽ đó, mà sau khi thọ Sa-di giới,
Tỳ-kheo giới, các vị đã hăng hái thọ thêm Bồ-tát giới.
Cái nhìn đã khác,
mục đích đã khác, cho nên những điều mục tu hành ở Bồ-tát giới cũng khác. Chẳng
hạn, ở giới Sa-di, uống rượu là một trọng tội, nhưng qua giới Bồ-tát, bán rượu
là một trọng tội, đem ruợu mời kẻ khác là một trọng tội, vì lẽ trong khi uống
rượu, mình chỉ mất phần tự lợi, còn bán rượu hay mời rượu là làm hại bao
nhiêu người khác. Đó là cách phân biệt để thấy rõ sự khác biệt, sự liên hệ giữa
hai giới. Vậy nhằm vào việc giải thoát bản thân, chúng ta nên giữ giới Tỳ-kheo,
nhằm mục đích lợi tha thì nên giữ giới Bồ-tát.
Giới Bồ-tát luôn
luôn nhìn đến chúng sinh dưới những khía cạnh đau khổ mà chúng sinh phải gánh
chịu. Chính những đau khổ đó, mình cũng mắc phải, nhưng kẻ không có Bồ-đề tâm
thì không bao giờ biết. Bằng vào sự khổ của mình mà thông cảm với nỗi khổ của
người khác; bằng vào sự ưa muốn của mình mà cảm thông sự ưa muốn của kẻ khác;
do đó, cứ muốn chúng ta sống mà không biết đến kẻ khác chết, cứ muốn chúng ta
vui mà không kể gì đến kẻ khác khổ. Vì thiếu tâm Bồ-đề nên không bao giờ có
được sự thông cảm đại đồng đó mà thuật ngữ Phật giáo gọi là đồng thể đại bi.
Người thọ giới Bồ-tát luôn luôn đem tâm Bồ-đề thông cảm với mọi chúng sinh qua
những cạnh khía an lạc, khổ đau để cứu giúp tất cả Đó là yếu điểm của tâm
Bồ-đề, của giới bổn Bồ-tát.
Giới Bồ-tát muốn
thọ trì, truớc hết phải phát Bồ-đề tâm, vì đây là giới mà đức Phật đã căn cứ
vào tâm địa giác để chế ra. Có Bồ-đề tâm thì giới ấy mới được thành tựu; mất
Bồ-đề tâm thì giới ấy không thể hành trì. Bồ-đề tâm là tâm viên mãn, tâm giải
thoát, tâm giác ngộ, tâm vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh, vô thọ giả, như trong
kinh Kim Cang Phật dạy: “Dĩ vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh, vô thọ giả, tu nhất
thiết thiện pháp tức đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề; nhược hữu ngã, nhân,
chúng sinh, thọ giả, tức thị ma nghiệp”.
Nhờ phát Bồ-đề tâm
mà chúng ta có thể thành tựu được trí giác sáng suốt, không bị vô minh mù quáng
che lấp. Cho nên những vị Bồ-tát có khi làm những việc long trời lở đất mà
chúng ta không thể làm, nếu không sáng suốt. Và giả như có nhắm mắt làm càn cho
long trời lở đất thì lại thành ra tai nạn. Bởi thế, phát Bồ-đề tâm cũng là tôi
luyện trí Bát-nhã để có thể nhìn thấy mọi khía cạnh của việc làm lợi lạc chúng
sinh. Phát Bồ-đề tâm, hành Bồ-tát giới là phát bốn hoằng thệ nguyện:
– Chúng sinh vô
biên thệ nguyện độ,
– Phiền não vô tận
thệ nguyện đoạn,
– Pháp môn vô
lượng thệ nguyện học,
– Phật đạo vô
thượng thệ nguyện thành.
Bốn đại nguyện là
duyên theo Bốn đế mà phát ra. Một người muốn giữ trọn Bồ-tát giới phải phát
Bồ-đề tâm, lập bốn đại nguyện. Từ căn bản đó mới phát sinh, thành tựu các giới
đức viên mãn.
(Khai đạo Giới tử thọ Bồ-tát giới tại giới đàn Vĩnh Gia, năm 1970).