Chương 27: Quán Tà Kiến

03 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 15526)

LONG THỌ BỒ TÁT Nāgārjuna
TRUNG LUẬN Mādhyamaka-Sāstra

Hán dịch: Tam tạng Pháp sư CƯU-MA-LA-THẬP Kumārajīva
Việt dịch THÍCH NỮ CHÂN HIỀN
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo - Hà Nội PL. 2546 - DL. 2003

CHƯƠNG XXVII: QUÁN TÀ KIẾN

Hỏi: Đã nghe pháp Đại thừa phá tà kiến, nay muốn nghe pháp Thanh văn phá tà kiến.

Đáp:

Tôi ở đời quá khứ,

Là có hay là không?

Thế gian thường, các kiến,

Đều y đời quá khứ.[1] [1] 

Tôi ở đời vị lai,

Là tác, là vô tác.

Chấp hữu biên, vô biên,

Đều y đời vị lai. [2] 

Nay tôi ở đời quá khứ là có hay là không? Là vừa có vừa không? là chẳng phải có chẳng phải không? Đó gọi là những kiến chấp thường v.v.. ;đều y đời quá khứ. Tôi ở đời vị lai là tạo tác hay không tạo tác? Là vừa tạo tác vừa không tạo tác? chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác? Ấy là những tà kiến hữu biên, vô biên v.v.. căn cứ đời vị lai. Những tà kiến như thế, bởi nhân duyên gì mà gọi tà kiến? Điều ấy nay sẽ nói:

Đời quá khứ có tôi,

Điều ấy không thể được.

Tôi trong đời quá khứ,

Không làm tôi đời nay. [3] 

Nếu nói ngã tức thị,

Mà thân có tướng khác.

Nếu như lìa thân này,

Chỗ nào riêng có ngã?[2] [4] 

Lìa thân không, có ngã,

Điều ấy là đã thành.

Nếu nói thân tức ngã,

Hoặc đều không có ngã.[3] [5] 

Nhưng thân không là ngã,

Vì thân tướng sanh diệt.

Làm sao cho cái thọ,

Mà làm thành Thọ giả? [6] 

Nếu lìa thân có ngã,

Điều ấy tất không đúng.

Không thủ mà có ngã,

Nhưng thật không thể được. [7] 

Nhưng nay không lìa thủ,

Mà chẳng phải chính thủ.

Chẳng không thủ chẳng không,

Đây tức nghĩa quyết định. [8] 

Tôi có mặt trong đời quá khứ; điều ấy tất không đúng. Vì sao? Tôi trong đời trước, không phải là tôi hiện nay. Vì có lỗi về thường hằng. Nếu chấp thường có thì vô lượng lỗi. Vì sao? Như người do nhân duyên tu phước làm trời sau đó làm người; nếu tôi đời trước tức là tôi đời nay thì trời tức là người. Lại, vì người bởi nhân duyên gây nghiệp tội lỗi làm Chiên-đà-la, sau làm Bà-la-môn; nếu tôi đời trước tức là tôi hiện nay thì Chiên-đà-la tức là Bà-la-môn. Thí như người Bà-la-môn ở nước Xá-vệ tên là Đề-đạt đi đến thành Vương xá nó cũng gọi là Đề-đạt, không vì đến thành Vương xá mà có tên khác. Nếu trước làm trời sau làm người, thời trời tức là người, Chiên-đà-la tức Bà-la-môn. Song điều ấy không đúng. Vì sao? Trời không phải là người, Chiên-đà-la không phải là Bà-la-môn. Có những lỗi về sự thường hằng như vậy.

Nếu nói tôi đời trước không trở thành tôi hiện nay, như người khi giặt áo gọi là người giặt, khi cắt cỏ gọi là người cắt; nhưng người giặt cùng người cắt tuy hành động có khác nhưng thân không khác. Như thế, tôi khi thọ thân trời gọi là trời, tôi lúc thọ thân người gọi là người, tôi không khác mà thân có khác. Điều ấy không đúng. Vì sao? Nếu chính là người, không thể nói trời làm người. Nay người giặt y và người cắt cỏ là khác hay là không khác? Nếu không khác người giặt y tức là người cắt cỏ, như thế trời đời trước chính là người, Chiên-đà-la, chính là Bà-la-môn, nếu thế tôi cũng có lỗi thường. Nếu là khác, người giặt y, tức không trở thành người cắt cỏ, như thế, trời không trở thành người, tôi cũng vô thường. Vô thường thì không có tướng tôi; thế nên không được nói “chính là” (tức thị).

Hỏi: Tôi chính là một, song vì nhơn bởi thủ mà phân biệt là trời, là người. Thủ là thân ngũ ấm; vì nhân duyên nghiệp cho nên phân biệt là trời, là người, là Chiên-đà-la là Bà-la-môn mà tôi thật chẳng phải trời, người, Chiên-đà-la, Bà-la-môn. Thế nên, không có những sai lầm như vậy.

Đáp: Điều ấy không đúng. Vì sao? Nếu thân là là trời, là người, là Chiên-đà-la là Bà-la-môn chứ chẳng phải là tôi, tất khi lìa thân mà có ngã riêng biệt. Nay tạo tội phước, sanh tử qua lại, đều chính là thân ấy mà chẳng phải là tôi. Vì nhân duyên tạo tội bị đọa trong ba nẽo. Là do nhân duyên làm phước được sanh vào ba đường lành. Nếu những buồn, vui, giận, mừng, lo sợ v.v.. đều là thân ấy mà chẳng phải là tôi thì cần có tôi làm gì? Như trị tội kẻ thế tục, không liên hệ người xuất gia. Nhơn duyên ngũ ấm tương tục tội phước không mất cho nên có giải thoát. Nếu đều là thân ấy nhưng chẳng phải là tôi, thì cần có tôi làm gì?

Hỏi: Tội phước v.v.. là y chỉ ở ngã; vì ngã có sở tri, thân không sở tri, tri tức là ngã. Nhơn duyên khởi nghiệp tội, phước là pháp tạo, nên biết phải có tác giả. Tác giả là ngã, thân là sở dụng của ngã cũng là nơi sở trú của ngã. Thí như ông chủ nhà dùng cỏ, nước, đất, bùn, gạch v.v.. làm nhà, tùy theo sự ưa thích của mình mà xây dựng ngôi nhà có tốt hay xấu; ngã cũng như thế, tùy theo sự tạo tác, tu thiện v.v.. mà có thân tốt, xấu. Sáu đường sanh tử đều do ngã tạo nên, thế nên, thân tội phước đó đều thuộc ở ngã. Ví như ngôi nhà chỉ thuộc của ông chủ nhà, không thuộc người khác.

Đáp: Dụ ấy không đúng. Tại sao? Vì ông chủ nhà có hình tướng, có xúc chạm, có khí lực cho nên có thể sửa sang nhà. Ngã mà ông nói không có hình dáng, xúc chạm nên không có sức tạo tác. Tự nó không có sức tạo tác cũng không thể bảo người khác tạo tác. Nếu trong thế gian có một pháp nào không hình tướng, không xúc chạm mà có thể tạo tác được thì tôi có thể tin nhận, biết có tác giả; song điều ấy không đúng. Nếu ngã là tác giả thì lẽ ra không nên tự tạo những việc khổ; nếu là người nghĩ nhớ, nên nghĩ điều vui thích không thể quên mất. Nếu ngã không tạo khổ mà khổ miễn cưỡng sanh; thì ngoài ra tất cả cũng tự phát sanh, chẳng phải cái do tôi tạo. Nếu người thấy là tôi, thì khi mắt nhìn thấy sắc; mắt tức là ngã. Nếu mắt thấy sắc nhưng nó không phải là tôi thì trái với lời trước của ông, nói rằng người thấy là ngã. Nếu người thấy là ngã; ngã tất không thể nghe ra tiếng v.v.. Tại sao? Vì mắt là người thấy, không thể nghe tiếng vậy. Thế nên nói rằng ngã thấy, điều ấy không đúng. Nếu nói như người cắt cỏ dùng liềm để cắt cỏ, ngã cũng như thế, dùng tay v.v.. để làm các công việc như vậy. Dụ ấy không đúng. Vì sao? Nay rời liềm, riêng có người cắt cỏ; nhưng lìa thân tâm, các căn, không thể riêng có tác giả. Nếu nói, tác giả tuy chẳng phải sở đắc các thứ mắt, tai v.v…nhưng cũng có tạo tác, thì người thạch nữ có thể sinh con. Như thế tất cả các căn đều nên không có ngã. Nếu nói, mắt bên hữu nhìn thấy sự vật mà mắt bên trái nhận biết, nên biết riêng có người thấy; điều ấy không đúng. Tại sao? Nay, tay bên hữu quen làm, mà tay bên trái thì không thể; thế nên không riêng có tác giả. Nếu riêng có tác giả thì điều mà tay mặt quen làm, tay trái cũng làm được, mà thật không thể; thế nên không có tác giả. Lại nữa, người chủ trương ngã có tạo tác[4] nói rằng thấy người khác ăn quả me, trong miệng chảy nước miếng; đó là tướng ngã, điều ấy không đúng. Tại sao? Vì đó là niệm lực, không phải sức của ngã vậy; do không phải sức của ngã, lại cũng tức là nhơn duyên phá ngã. Như người ở trong đám đông biết hổ thẹn lúc chảy nước miếng mà nước miếng vẫn chảy; không được tự tại, nên biết không có ngã.

Lại nữa, nếu có tội lỗi điên đảo. Đời trước là cha đời nay là con, thì cha và con, ngã là một, nhưng thân có khác. Như từ một nhà đến một nhà, cha vẫn là cha, không do vào nhà khác mà có khác. Nếu có ngã thì cả hai (cha và con) tức là một; như thế thì có đại lỗi.

Nếu nói, vô ngã trong năm ấm tương tục; cũng có lỗi ấy. Điều đó không đúng. Vì sao? Năm ấm tuy tương tục, nhưng có khi hữu dụng, hoặc có lúc vô dụng. Như nước nho, người giữ giới nên uống; nhưng cũng nuớc ấy đem làm rượu, không nên uống; nếu là rượu thuốc để trị bịnh thì được uống. Năm ấm tương tục cũng vậy, có lúc hữu dụng, có lúc vô dụng. Nếu thủy chung một ngã, có lỗi như vậy; nhưng năm ấm tương tục không có lỗi như thế. Song ngũ ấm hòa hiệp giả danh là ngã, không có quyết định. Như kèo và đòn tay phối hợp làm nhà, ngoài đòn tay và kèo không riêng có nhà.. Cũng vậy, năm ấm hòa hợp cho nên có ngã. Nếu lìa năm ấm, thật không riêng có ngã. Thế nên ngã chỉ có giả danh, không quyết định có thật.

Ông, trước nói, lìa thủ, riêng có người chấp thủ[5]. Do thủ mà phân biệt kẻ chấp thủ là trời, là người; ấy đều không đúng. Nên biết, chỉ có thủ, không riêng người chấp thủ. Nếu lìa thủ, riêng có ngã, điều ấy không đúng. Nếu lìa thủ có ngã, làm thế nào có thể được nói đó là tướng của ngã? Nếu không có tướng để có thể nói, thì lìa thủ không có ngã. Nếu nói, lìa thân không có ngã, nhưng chính thân là ngã; điều đó cũng không đúng. Vì sao? Thân có tướng sanh diệt, ngã không phải thế.

Laị nữa, làm sao cho rằng thủ tức là người chấp thủ? Nếu bảo, lìa thủ có người chấp thủ; điều ấy cũng không đúng. Nếu không chấp thủ năm ấm mà có người chấp thủ thì nên lìa năm ấm riêng có người chấp thủ. Nhãn căn v.v.. khả đắc (có ngã) mà thật bất khả đắc; thế nên ngã không lìa thủ, không tức là thủ, cũng chẳng phải không thủ, cũng lại chẳng phải là không. Đây là nghĩa quyết định. Thế nên, phải biết, đời quá khứ có ngã, điều ấy không đúng. Vì sao?

Ngã quá khứ không tạo,

Điều ấy tất không đúng.

Ngã trong đời quá khứ,

Khác nay cũng không đúng. [9] 

Nếu nói ngã có khác,

Lìa kia nên có nay.

Ngã trú ở quá khứ,

Mà ngã nay tự sanh. [10] 

Như thế thì đoạn diệt,

Mất hết nghiệp quả báo.

Kia tạo mà đây thọ,

Có những lỗi như thế. [12] 

Trước không mà nay có,

Trong đây cũng có lỗi.

Ngã tất là tác pháp,

cũng chính là vô nhơn. [13]

Ngã trong đời quá khứ không tạo ra ngã hiện nay, điều ấy không đúng. Vì sao? Ngã đời quá khứ và ngã hiện nay không khác. Nếu ngã ngày nay ngã đời quá khứ khác thì nên lìa ngã kia, có ngã này. Lại ngã đời quá khứ cũng nên trú ở đó, còn thân này thì tự sinh ra. Nếu thế, rơi vào cực đoan đoạn diệt, mất những quả báo của nghiệp. Lại người kia tạo tội, người này chịu quả báo; có những vô lượng lỗi như thế. Lại, ngã ấy, là trước không nay có, cũng có lỗi. Ngã tất là tác pháp (tự tạo ra) cũng là không nhơn mà sanh. Thế nên ngã quá khứ không tạo ngã hiện nay; điều ấy không đúng.

Lại nữa:

Như trong đời quá khứ,

Chấp có ngã không ngã.

Hoặc cộng hoặc bất cộng,

Điều ấy đều không đúng. [14] 

Như thế, suy tìm tà kiến liên hệ đời quá khứ: có, không; vừa có vừa không; chẳng phải có, chẳng phải không; những tà kiến đó, trước dùng mọi cách đã nói sai lầm rồi, nên đều không đúng.

Ngã ở đời vị lai,

Có tạo hay không tạo;

Kiến chấp như thế đó,

Đều đồng thời quá khứ. [15] 

Ngã trong đời vị lai là tạo hay không tạo, bốn cú nghĩa như thế cũng như lỗi trong đời quá khứ, cần phải hiểu theo đó.

Lại nữa:

Nếu trời tức là người,

Đó là cực đoan thường.

Trời như vậy không sanh; 

Vì pháp thường, không sanh. [16]

Nếu trời tức là người; như thế là thường. Nếu trời không sanh vào loài người, làm sao được gõi là người? Vì pháp thường, là không sanh. Như vậy, là không đúng.

Nếu trời khác với người,

Như thế là vô thường.

Nếu trời mà khác người,

Thì tất không tương tục. [17] 

Nếu trời và người là khác, như thế là vô thường. Vô thường thì phạm các sai lầm của cực đoan đoạn diệt. Lỗi như trước đã nói. Nếu trời và người có khác, như thế thì không tương tục. Nếu có tương tục, không được nói là khác. Lại nữa:

Nếu nữa trời, nữa người,

Thì rơi vào nhị biên,

Thường cùng với vô thường;

Điều ấy thì không đúng. [18] 

Nếu chúng sanh, phân nữa thân là trời, nữa thân là người; nếu thế, tất là vừa thường vừa vô thường: phân nữa trời là thường, phân nữa người là vô thường, song điều ấy không thể. Tại sao? Vì có lỗi một thân mà hai tướng.

Lại nữa:

Nếu thường và vô thường,

Hai sự thể mà thành;

Như thế thì nên thành,

Phi thường, phi vô thường. [19] 

Nếu thường và vô thường, cả hai đều tựu thành, nhiên hậu mới tựu thành phi thường phi vô thường, vì cùng với thường vô thường trái nhau. Nay thật sự thường và vô thường không thành, thế nên phi thường phi vô thường, cũng không thành. Lại nữa, hiện nay sanh từ vô thỉ, ấy cũng không thành. Vì sao?

Pháp quyết định có đến,

Và quyết định có đi;

Sanh tử tất vô thủy.

Mà thật không việc này. [20] 

Pháp nếu quyết định có chỗ đến và có chỗ đi thì sanh tử hẳn là vô thủy. Pháp ấy, bằng trí tuệ mà suy tìm, không thể có từ chỗ nào đến và sẽ đi về đâu; cho nên sanh tử vô thỉ; điều ấy không đúng.

Lại nữa:

Nay nếu không có thường,

Làm sao có vô thường?

Vừa thường vừa vô thường?

Phi thường phi vô thường? [21]

Nếu vậy, bằng trí tuệ mà tìm kỹ, không có pháp nào có thể được nhận thức như là thường, thế thì ai sẽ có cái vô thường? Vì nhân bởi thường mà có vô thường; nếu cả hai đều không, làm thế nào có vừa thường vừa vô thường? Nếu không có thường và vô thường, làm sao có phi thường phi vô thường? Vì nhơn vừa thường vừa vô thường mà có phi hữu thường phi vô thường. Thế nên căn cứ đời quá khứ với bốn cú nghĩa thường v.v.. là bất khả đắc. Y chỉ đời vị lai với bốn cú nghĩa hữu biên, vô biên v.v..; điều ấy không thể được. Vì sao? Nay sẽ nói:

Hoặc thế gian hữu biên,

Làm sao có đời sau?

Nếu thế gian vô biên,

Làm gì có đời sau? [22] 

Nếu thế gian hữu biên, không thể có đời sau. Nhưng nay thật có đời sau. Vậy nên, thế gian hữu biên, không đúng. Nếu thế gian vô biên, cũng không thể có đời sau, mà thật có đời sau; vậy nên, thế gian vô biên, cũng không đúng. Lại nữa, hai biên ấy là bất khả đắc. Vì sao?

Năm ấm thường tương tục,

Cũng như ngọn đèn cháy.

Vì vậy, nên thế gian,

Không hữu biên, vô biên. [23] 

Từ năm ấm lại sanh năm ấm. Năm ấm ấy thứ tự tiếp nối nhau, như các duyên hòa hợp có ngọn đèn cháy; nếu các duyên không hết thì ngọn đèn không tắt; nếu các duyên hết thì đèn tắt. Thế nên, không thể nói, thế gian hữu biên hay vô biên.

Lại nữa:

Nếu năm ấm trước hoại,

Không nhơn năm ấm này,

Lại sanh năm ấm khác,

Thế gian tất hữu biên. [24] 

Nếu ấm trước không hoại,

Cũng không nhơn ấm này,

Mà sanh năm ấm sau,

Thế gian tất vô biên. [25] 

Nếu năm ấm trước hoại diệt, không nhơn năm ấm này để sanh năm ấm sau; như vậy, tất thế gian là hữu biên. Nếu năm ấm trước hoại diệt rồi lại không sanh năm ấm khác, ấy gọi là biên tế. Biên tế là thân cuối cùng. Nếu năm ấm trước không hoại diệt thì không nhơn năm ấm này mà sanh năm ấm sau, thế gian tất vô biên, ấy là thường. Nhưng thật không phải. Thế nên, thế gian vô biên. Điều ấy không đúng. Thế gian có hai thứ, quốc độ thế gian và chúng sanh thế gian. Ở đây, là chúng sanh thế gian.

Lại nữa: Như trong Luận “Tứ bách quán”[6] nói:

Pháp, người nói, người nghe,

Ba chân thật, khó có.

Như thế tất sanh tử,

Phi hữu biên vô biên. [26]

Vì nhân duyên không được pháp chân thật, nên sanh tử qua lại không có biên tế. Hoặc giả có khi được nghe chân pháp, đắc đạo; không thể nói không biên tế. Nay sẽ lại phá vừa hữu biên vừa vô biên.

Thế gian nữa hữu biên,

Thế gian nữa vô biên;

Thế gian vừa hữu biên

Vừa vô biên, không đúng. [27] 

Nếu thế gian nữa hữu biên, nữa vô biên thì có thể vừa hữu biên vừa vô biên. Nếu vậy, thì một pháp có hai tướng; điều ấy không đúng. Vì sao?

Kia chấp thủ năm ấm,

Làm sao một phần phá,

Và một phần không phá?

Điều ấy tất không đúng. [28] 

Thủ cũng lại như thế,

Làm sao một phần phá,

Và một phần không phá?

Điếu ấy tất không đúng. [29] 

Năm ấm bị chấp thủ ấy, làm thế nào một phần bị phá một phần không bị phá? Cùng một sự thể, không thể vừa thường vừa vô thường. Thủ cũng như thế, làm sao một phần bị phá, một phần không bị phá? Vì có lỗi về hai tướng thường và vô thường. Thế nên, thế gian vừa hữu biên vừa vô biên; ấy tất không đúng. 

Nay sẽ hủy phá kiến chấp, phi hữu biên, phi vô biên.

Vừa hữu biên, vô biên,

Hai điều ấy nên thành;

Phi hữu, phi vô biên,

Điếu này mới được thành. [30] 

Trái với hữu biên mà có vô biên; trái với dài mà có ngắn; trái với cái có và không thì mới có cái vừa có vừa không. Trái với cái vừa có vừa không thì mới có cái phi có cái phi không. Nếu cái vừa hữu biên vừa vô biên quyết định tựu thành thì mới có phi hữu biên phi vô biên. Tại sao? Vì tương đãi vậy. Trên đã phá cú nghĩa thứ ba là vừa hữu biên vừa vô biên, nay làm thế nào có phi hữu biên phi vô biên? Bởi vì không đối đãi nhau. Như thế suy tìm hữu biên, vô biên v.v.. bốn kiến chấp y chỉ đời vị lai đều không thể.

Lại nữa:

Vì tất cả pháp không,

Thế gian thường vân vân,

Ở xứ nào thời nào,

Ai khởi các kiến đó? [31] 

Trên đã dùng pháp Thanh văn phá các kiến chấp. Nay đây trong pháp Đại thừa nói các pháp từ xưa đến nay cứu kính Không tánh, trong pháp tánh Không như thế, không người, không pháp, không nên sanh tà kiến, chánh kiến. 

Xứ là chỉ đất đai. Thời chỉ cho số ngày tháng năm. Ai [7]là chỉ về người. Đó là thể của những kiến chấp. Nếu có kiến chấp hữu thường vô thường v.v.. , thì quyết định phải có người xuất sanh kiến chấp này. Vì phá ngã cho nên không người sanh khởi kiến chấp ấy. Sắc pháp có nơi chốn được thấy bằng hiện thực, còn có thể bị phá, huống là thời gian phương sở. Nếu có những tà kiến thì nên có quyết định thật, nếu có định thật thì không nên phá. Từ trước đến đây đã dùng mọi cách để phá; thế nên phải biết kiến chấp không có tự thể cố định, làm thế nào được sanh? Như bài tụng nói: “Chỗ nào, thời nào, ai khởi cá kiến chấp ấy.” 

Đại Thánh chúa Cù-đàm,

Thương tưởng nói pháp này;

Đoạn tất cả kiến chấp,

Con nay cúi đầu lễ. 

Tất cả kiến chấp, lược nói năm thứ, nói rộng thì 62 kiến chấp. Vì để đoạn trừ những kiến chấp mà nói pháp. Đức Đại Thánh Chúa Cù Đàm là người trí tuệ vô lượng, vô biên bất khả tư nghì, thế nên con cúi đầu đảnh lễ. 

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Chương Quán Tà Kiến là chương cuối cùng trong bộ T.Q.L. Ngài Long Thọ Bồ Tát mục đích muốn để chương này sau cùng là muốn nhắc hành giả nghiên cứu chân lý Phật giáo. Sở dĩ chúng sanh say đắm trong lục đạo sanh tử luân hồi, chính là do nhận thức sai lầm, nhận giả làm chân, thấy tà làm chánh, chấp các pháp vô thường cho là thường. Nếu nhận thức sai lầm, cực đoan thiên vị, thì tâm hồn được thanh thoát. Muốn chấm dứt tà kiến, thì phải nhận định rằng các pháp đều do nhân duyên sanh, không thật có. Như trong chương I giải bày.

[2] Phạn: sa evàtmeti tu bhaved upàdànaư viziwyate, upàdànavinirmukta àtmà te katamahï punahï, Nếu cho rằng ‘Nó là tự ngã’ thế thì nó khu biệt với thủ. Nếu tách biệt thủ, làm sao có tự ngã của ngươi?

[3] .Hai câu 416, 417, Long Thọ Bồ Tát đem cái ngã thời quá khứ và thân ngã hiện tại và cái ngã vị lai, dùng để phân tích cái ngã thời nào có thật, hay không thật. Nó là thường tồn hay đoạn diệt; Nó là thuộc hữu biên, có gia hạn, hay vô biên không ngằn mé? Ngã quá khứ có đồng với thân hay khác với thân ngã hiện tại… Ngã quá khứ hiện tại, nó có thể tạo cái ngã tương lai không?

Kết Luận: Đức Phật thuyết pháp giáo hóa, có sự, có lý, có tánh, có tướng. Đứng về phương diện sự tướng, thì muôn sự muôn vật ngoại cảnh không phải không có. Nhưng đứng về lý tánh, thì tất cả các pháp là Chân không tánh không bao la pháp giới, không pháp nào đứng ngoài mà có. 

[4] Để bản: hữu ngã. Tống-Nguyên-Minh: hữu ngã tác.

[5] Hán: thọ và thọ giả.

[6] Tứ bách quán luận, hay Tứ bách luận, tác phẩm của Thánh Thiên (Àrya-Deva). Cát Tạng phân vân không biết bài tụng này do chính Long Thọ tự dẫn hay do người chú giải trích dẫn. Trong bản Phạn hiện không ghi bài kệ này.

[7] Xứ, thời và ai: Các từ trong bài kệ được giải thích.

HẾT

Chân Thành Cảm Tạ Sư Bà Thích Nữ Chân Hiền Đã Trao Tặng Thư Viện Hoa Sen Cuốn Sách Này Nhân Dịp Ban Biên Tập Đến Thăm Sư Bà Vào Đầu Xuân Giáp Thân 2004 tại Huế (Tâm Diệu)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn