Lòng Bi

18 Tháng Hai 201300:00(Xem: 13131)

LÒNG BI
Nguyễn Thế Đăng

long-bi-300x286Lòng bi là tình thương đối với nỗi khổ của người khác .

Làm người, ai trong chúng ta mà chưa có một giọt nước mắt Ngay cả những con thú tiến hóa khá cao, chúng đã biết buồn biết chảy nước mắt. Hay nước mắt là dấu hiệu cho thấy có một loại thú nào đã tiến hóa khá cao? Có phải ngày nay, chỉ số xúc cảm EQ là một trong hai tiêu chuẩn cái kia là chỉ số thông minh IQ, để đánh giá con người đã tiến hóa đã phát triển đến mức độ nào ?

Nơi nào có nước mắt, nơi đó có khổ đau, nơi đó có lòng bi.

Số phận của chúng ta là sanh già, bệnh, chết; trải qua cuộc sống mong manh ấy ai mà chưa từng khóc vì mình và vì người khác? Nơi nào có nước mắt nơi đó có khổ đau, và nơi đó có lòng bi.

Con người luôn luôn sống trong một hoàn cảnh hữu hạn, bất toại nguyện: muốn mà không được, thương yêu cũng phải chia lìa, oán ghét mà phải sống chung, thất vọng lo âu, sợ hãi ….Trong cỗi con người này, có đủ cảnh khổ trong tất cả các loài trong vũ trụ.

Trên trái đất này, có một nơi nào, có một ngày nào mà không có chiến tranh, bệnh tật, thiên tai, chết chóc? Trong xã hội từ xưa đến nay, luôn luôn có một số người chưa từng nghèo. Nhưng chưa có một ai trong tâm chưa từng khổ.

Khổ đau nằm nơi trung tâm số phận con người, âm thầm dệt nên những chất liệu cấu tạo thành con người. Thế nên hạnh phúc tương đối, ngắn ngủi mà người bình thường có được, chỉ là sự trá hình của khổ đau. Có những người háo thắng khoe khoang tự mãn, kiêu ngạo thậm chí độc ác… những tính tình “dễ ghét”, nhưng không phải thế đâu. Những tính tính dễ ghét đó chỉ là những phản ứng biểu lộ bên ngoài của những khổ đau bên trong. Người thật sự bình an, hạnh phúc thì không có những biểu lộ khó ưa đó. Cho nên thấy ai đáng ghét thì hãy thương cho họ, họ cần lòng từ bi để thoát khỏi những vết thương ẩn kín trong lòng khiến cho nhân cách của họ trở thành méo mó, tàn tật. Dù họ có đáng ghét tới đâu họ chỉ là người thua cuộc thất bại, là nạn nhân của những bệnh tật trong tâm của mình. Rồi cuối cùng họ chỉ là người thất bại nạn nhân của cái chết.

Xã hội tiêu thụ hiện đại tìm cách che dấu khổ đau, tìm cách quảng cáo cho sự hời hợt của một xã hội tiêu thụ. Những bức hình trong sách báo, toàn là những gương mặt tươi cười, mãn nguyện, đẹp đẽ. Nhưng những bức hình thật thường được giải Pulitzer: chỉ là những khuôn mặt của chiến tranh, chết đói nghèo khổ, thiên nhiên bị tàn phá …

Có một giây phút nào không có ai khổ đau trong thành phố này ? Thề nên có một giây phút nào nên dừng lòng bi ? Và có phải, lòng bi cần được mở rộng và đào sâu cho đến ngày không còn con người trên trái đất này.

Lòng bi còn cần được đào sâu và mở rộng đến những sinh thể thấp kém hơn, chẳng hạn như thù vật. Chúng không có đủ điều kiện để tìm hạnh phúc cho chúng. Chó mèo trong nhà thì cho gì ăn nấy, cho ngủ chỗ nào thì ngủ chỗ đó. Chúng không đủ trí thông minh, ngôn ngữ để hiểu hòng có thể phát triển thoát ra khỏi thân phận thấp hèn của mình. Ở dưới loài thú vật, còn có những cảnh giới khổ đau hơn nữa, nặng nề hơn nữa mà kinh điển đã nói.

Lòng bi thật sự chỉ có khi có trí đi kèm. Đó là khi thấy con người dù có là gì đi nữa thì vẫn luôn luôn mắc lưới trong vòng mười hai duyên sanh: vô minh sinh hành, hành sinh thức… cho đến già, chết. Mỗi người chính là vòng duyên sanh này, đời này sang đời khác. Dù có sống thế nào, có được gì có mất gì; cũng chỉ là dệt thêm tấm lưới duyên sanh của sanh tử mà thôi. Thấy được như vậy, lòng bi tự nhiên được sanh khởi, có được lòng bi với một người thì có được lòng bi với nhiều người. Mà chúng sanh thì vô biên nên lòng bi cũng trở thành vô biên.

Thấy được khổ đau của người khác (Chân Lý về Khổ ) là có lòng bi .

Thấy được nguyên nhân khổ đau của người khác, (Chân Lý về Tập), lòng bi càng hiện diện sâu rộng hơn nữa.

Thấy được trạng thái chấm dứt của khổ đau (Chân Lý về Diệt), lòng bi càng cụ thề và có động lực.

Thấy được và đi trên con đường chữa lành, diệt khổ cho người khác (Chân Lý về Đạo, con đường), lòng bi trở thành hiện thực và hoạt động hơn nữa.

Cũng chính lòng bi làm động lực mở mang trí tuệ để thấu hiểu và sử dụng được 4 chân lý này hầu cứu giúp người khác.

Lòng bi cho số phận con người không phải là ngẫu hứng, chợt dấy lên bất ngờ rồi sau đó biến mất. Đó phải là một thực tại của đời sống mỗi người. Thực tại đó nâng cấp cho cuộc sống mỗi người để được hoàn thiện hơn. Lòng bi ấy phải là một cái tâm trải dài suốt số phận con người, thậm chí trải dài qua những kiếp đời của một con người. Và nếu lòng bi ấy dành tặng cho nhiều con người thì hẵn nó càng rộng sâu hơn nữa. Rộng sâu cho tới mức trở thành lòng bi vô lượng ( Bi vô lượng tâm ), một trong bốn tâm vô lượng

Thấy rõ sự khổ đau, tương tục của chúng sanh, mà chúng sanh thì vô biên, nên chúng ta cần thấy rằng lòng bi không bao giờ là đủ, là thừa. Trái lại , lòng bi luôn luôn thiếu, vĩnh viễn thiếu.

Như thế lòng bi không chỉ là một bổn phận với đồng loại, với đồng nghiệp sanh tử . Lòng bi còn mở cho chúng ta đến sự giải thoát; lòng bi giải thoát khỏi số phận hữu hạn của mình bằng sự bao la vô hạn của nó ( Bi vô lượng tâm ).

Sống được với lòng bi, chúng ta sẽ cởi mở cuộc sống hạn hẹp của mình trở nên rộng lớn hơn, sâu thẳm hơn. Cho đến biết đâu một ngày nào đó nó trải rộng đến vô hạn, sâu thẳm đến vô hạn. Lúc ấy chúng ta biết , thương ai cũng là thương mình.

Sự dại dột nhất hóa ra là làm khổ người khác và không biết thương người ■


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
15 Tháng Giêng 2015(Xem: 5905)
Trong các pháp thoại của Thế Tôn, những hình ảnh trực quan luôn được vận dụng để minh họa cho thính chúng dễ hiểu, dễ liên hệ, nhận rõ ý nghĩa những lời dạy của Ngài. Nước sông Hằng đã được Thế Tôn dùng để chỉ cho nước mắt của chúng sanh khóc thương nhau trong những lần tử biệt sanh ly, chuyển lưu sanh tử trong nhiều đời kiếp.
06 Tháng Giêng 2015(Xem: 6468)
Trong Tam tạng giáo điển nhà Phật, giới luật có vai trò rất quan trọng, được xếp thành một tạng riêng, tạng Luật. Trong nội dung tu tập của hàng đệ tử Phật, dù tu theo bất cứ pháp môn nào, cả xuất gia lẫn tại gia, đều phải thành tựu giới; nhân giới mà sanh định, nhân định mà phát tuệ.
03 Tháng Giêng 2015(Xem: 8557)
Xưa, Đức Thế Tôn dạy các đệ tử: “Chớ ngủ hai đêm, dưới cùng một gốc cây”. Lời dạy, thoạt nghe có vẻ ngộ nghĩnh, gần như chẳng quan trọng gì, nhưng khi được Thầy chỉ rõ hơn, đệ tử mới biết rằng, một lời, dù đơn sơ, từ kim khẩu Đức Thế Tôn, đều là một bài pháp.
03 Tháng Giêng 2015(Xem: 7301)
Lịch sử là một vở kịch mà trong đó các diễn viên luôn thay đổi và trình diễn không ngừng. Trên sân khấu đó, cái nhìn của người thưởng ngoạn- cũng là diễn viên- được nhận diện khác biệt giữa Tây phương và Đông phương.
30 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 8252)
Đi chùa, dâng hương, lễ Phật là một trong những pháp tu căn bản của hàng Phật tử tại gia. Hàng xuất gia cũng nhờ lễ Phật mà nghiệp chướng tiêu trừ, công đức tăng trưởng, thành tựu đạo nghiệp.
21 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 5891)
Tuổi tác rất quan trọng nhưng phẩm hạnh còn quan trọng hơn rất nhiều đối với nhân cách của một người. Nhất là trong nhà đạo thì phẩm hạnh đặc biệt được xem trọng. Chính phẩm hạnh và tuệ giác đã tạo nên tính cách trưởng lão chứ không phải là tuổi tác. Thế Tôn đã xác quyết điều này như tinh thần pháp thoại dưới đây:
17 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 6789)
Cuộc đời này có vui không? Có, nhưng vui thì ít mà khổ thì nhiều, vui rất khó tìm mà lại dễ mất, vui không bao giờ là quà tặng cho số đông. Nhờ có chút niềm vui trong năm dục mà an ủi phận người, tiếp thêm nghị lực và sức sống cho con người. Tuy có vui nhưng Đức Phật dạy niềm vui ấy thật mong manh,
07 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 6838)
Chúng ta đều biết, người ta sống ở đời mỗi người đều có một thế mạnh, sở trường và sở đoản khác nhau. Biết khai thác và phát huy thế mạnh đồng thời biết khắc phục và tránh né những thế yếu của mình là nền tảng của mọi thành công.
04 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 7863)
Người tu tuy mang hạnh nguyện “xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo”, nhưng sau nhiều năm tu học nhờ công đức làm lợi mình lợi người nên phước báo ngày càng lớn lên. Phước báo có công năng diệu kỳ, dù người tu không vọng cầu nhưng tứ sự (thực phẩm, y phục, thuốc men, sàng tòa) luôn đầy đủ, sung mãn. Và cũng từ đây, lợi dưỡng cùng cung kính bắt đầu đoanh vây đời sống xuất gia.
03 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 7372)
Vì sao người tu phải tránh “những điều luận bàn của thế tục”? Thực ra luận bàn để trau dồi và nâng cao tri thức thế gian cũng rất tốt, cần thiết cho cuộc sống nhưng nó không dẫn người tu đến các pháp lành, không đi đến Phạm hạnh, không đến được chỗ tịch diệt. Đây là chỗ người tu hướng đến giải thoát, Niết-bàn cần hết sức lưu tâm. Người tu thì nên nói chuyện tu, không nói chuyện đời mà chỉ “bàn luận về mười việc công đức”, chính là lời căn dặn của Thế Tôn.