Nhân mùa an cư, nghĩ về lòng từ bi với loài vật

31 Tháng Năm 201403:18(Xem: 9274)
NHÂN MÙA AN CƯ, NGHĨ VỀ LÒNG TỪ BI VỚI LOÀI VẬT
Hồ Dụy

blankMùa an cư được gây dựng trên tinh thần “sống chung hòa hợp của chúng tăng tại một trú xứ”, “giúp tu sĩ trưởng thưởng về mặt tâm linh”, “tạo cơ hội để truyền chánh pháp”, “tránh giẫm đạp lên cây cỏ non, côn trùng”, v.v. Nghĩ về ý nghĩa của mùa An cư, xin gợi lại vài mẫu chuyện đời thường để hiểu hơn về lòng từ bi của Đức Phật trải rộng đến muôn loài vạn vật.


Nhà tôi có một căn gác nhỏ, trên lợp bia-rô nên rất nóng, dành để đựng đồ vật không thường dùng. Lần tôi lên đó tìm cuốn sách cũ. Ngạc nhiên tột độ. Một cái ổ nhỏ xinh nằm ngay ở thành cửa sổ, và hai chú chuột nằm gọn trong đó ngủ ngon lành. Tôi lặng đi, không muốn nhúc nhích, sợ chúng sẽ thức giấc vụt chạy. Lũ chuột thính tai thế mà không hay tôi đang đứng bên và có thể dùng thứ gì đó kết liễu cuộc sống của chúng. Tôi xuống kể lại câu chuyện này với người nhà, gọi chúng là đôi vợ chồng. Bẵng đi thời gian lâu, tôi lên lại căn gác và quên luôn chuyện này, đến nay cái ổ cũng biến đâu mất. Tôi không hề làm ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng, thật lạ là trong nhà chuột không sinh sôi thêm, không thấy phá phách gì.


Một chuyện khác, từ cô em hàng xóm. Cô kể. Sáng ấy đi thể dục (đúng hơn là hành thiền niệm Phật), về đến nhà cô liền múc nước tưới vạt rau trước hiên chỉ vài mét vuông. Lạ. Sao thấy cụm đất cứ trồi lên hụp xuống như con gì đang thở. Lấy cái que khơi thì giật mình, một con ba ba lớn bằng hai bàn tay. Điều đầu tiên là cô nhìn quanh, nhìn ra đường xem có ai không. Nhanh chóng, cô ém chú ba ba vào chậu nhốt lại trong nhà tắm. Rất hồi hộp. Cô ra đứng đường nghe ngóng. Thường mỗi sáng hai gia đình hàng xóm trước mặt nhà đều dậy quét dọn; cô ra nói chuyện nhằm dò xét có ai kêu mất con ba ba. Không. Đến trưa cô cũng dạo qua nhà họ uống nước, hỏi tình hình chợ búa thế nào, trưa nay có mua gì ngon không. Tuyệt nhiên không ai nhắc đến con ba ba trị giá. Về, cô chững lại nhận định. Nhà cô nằm giữa mấy ngôi nhà liền kề đều tường cao; chỉ có hai nhà trước mặt là không, còn những nhà khác thì xa. Vậy con ba ba này từ đâu tới? Hay nó thoát ra khỏi một trong dãy quán nhậu ngoài quốc lộ, đã bò cật lực suốt đêm để làm một cuộc giải thoát ngoạn mục. Nhưng tại sao nó không tạt vào nhà nào, lại rẽ ngang vào nhà cô - vốn là một Phật tử thuần thành duy nhất ở xóm. Hay ngẫu nhiên nó bò vào đây, và đã được cô chủ âm thầm mang đi phóng sanh.


Dĩ nhiên con người không cần phải hiểu ngôn ngữ của loài vật mới cảm thông với chúng. Bồ Tát thương loài vật như mẹ thương con. Phật xem hết thảy chúng sinh hữu tình đều là quyến thuộc của mỗi người từ vô thỉ, đều là Phật vị lai. Phương hại loài vật chính là phương hại quyến thuộc, là chưa hiểu chính mình cũng là Phật vị lai đồng đẳng. Thế nên Đức Phật luôn khuyên nên ăn chay để mở lượng từ bi vốn sẵn trong tâm mọi người.


Lạm bàn vào vấn đề ăn chay, thiết nghĩ chúng ta cần giải quyết mối tương quan giữa Con Người và Con Vật. Con người là động vật bậc cao. Con vật là động vật bậc thấp. Như vậy, giữa hai loài này khác trước hết ở chữ “cao” và “thấp”, nhưng đều là động vật, không nên tàn nhẫn phương hại nhau. Con vật do trí óc kém phát triển, sống theo bản năng tăm tối là điều dễ hiểu. Con người với trí thông minh vượt trội, lại vẫn nhiều người sống dựa vào bản năng nên nhân tâm tụt dốc.


Đức Phật không bảo người tu tại gia phải tuyệt đối ăn chay, mà trước hết khuyên người nên ăn theo Tam tịnh nhục: ăn thịt của con vật khi không giết nó, không thấy nó bị giết và không nghe tiếng nó kêu [cứu] khi bị giết. Tuy nhiên nếu một lòng hướng về Phật, một lòng nguyện được về Tây phương Cực Lạc thân cận cùng mười phương chư Phật thì việc tiến tới ăn chay cũng cần thiết lắm, bởi trước hết nó thể hiện sự tương ưng với tâm Phật.


Trường trai sức khỏe có đảm bảo? Ngày nay khoa học đã chứng minh, ăn mặn đương nhiên sức khỏe tăng nhanh so với ăn chay, song mầm bệnh nhiều hơn ăn chay. Ăn chay, tiết thực là cơ sở của trường sinh. Xét về nghiệp lực: ăn mặn trái với Đạo, ăn chay thì ngược lại. Ấy là chưa bàn đến vấn đề cốt lõi: nếu chay tịnh đạm bạc, ăn với tâm vui vẻ thì thức ăn ấy là dưỡng sinh. Còn trước mặt đủ sơn hào hải vị song ta ăn với tâm tham sân thì thảy đều có thể tiết ra độc tố. Dễ hiểu hơn, ai thực hành viên mãn Thập Thiện, thì vài cọng rau cũng đủ giúp họ khỏe mạnh và minh mẫn. Mỗi vận mạng đều tiệm tiến theo nghiệp quả mà bản thân tạo ra. Sống thuận với Đạo có thể cải tạo vận mạng, trái với Đạo thường tổn thọ.


Người tu có những chướng ngại cơ bản cần đả phá là vọng tưởng - chấp trước - phân biệt. Nếu căn cơ không thuộc hàng tiền “thất lai”, thường niệm “A Di Đà Phật” sẽ đẩy lùi vọng tưởng. Chấp trước lớn nhất là xem thân này đồng với ta (thật ra chỉ là “của ta” như áo quần), từ đó không tin nhân quả luân hồi. Muốn trừ chấp trước phải thâm nhập kinh điển Đại thừa, mà trước hết cần đọc/nghe giảng kinh Địa Tạng (như cuốn Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Giảng Ký của HT Tịnh Không), kinh Vô Lượng Thọ (cuốn chú giải Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh của Kim cang Thượng sư Hoàng Niệm Tổ), v.v. Phân biệt lớn nhất là cho con người thuộc hàng tối cao trong trời đất. Từ đó xem thường, đối xử tàn tệ với loài vật mà không biết rằng trong các đời quá khứ chúng ta cũng từng khoác vô số thân khác nhau thuộc Tam đồ.


Con người hơn loài vật nhưng không thể tự thân sống dưới nước và bay trên bầu trời cao rộng. Thừa nhận người cao hơn người cốt nơi trái tim chứ không ở cái đầu, nhưng con người lại phủ nhận tình thương vô hạn của con vật. Bởi chúng cũng chảy nước mắt khi bị lôi vào các lò mổ, chúng cũng xả thân cứu người, chúng cũng đứt ruột mà chết khi nhìn con bị thợ săn sát hạ... Việc các nhà ngoại cảm nhìn thấy người chết, sau bao nhiêu năm vẫn còn ở ngoài mồ, đã khiến nhiều người hoài nghi về luân hồi trong nẻo ác. Các vị Bồ Tát ứng thân cảnh báo: Con người nếu không tu tập, lúc mất đi muộn nhất sau 49 ngày đều theo nghiệp lực kéo vào trong lục đạo; việc họ còn ngoài mồ chỉ là tác dụng của “cái bóng” thần thức, không phản ánh đúng cảnh giới xấu họ đang phải chịu nhận.


Công phu tu tập của hành giả trước hết thể hiện rõ ở lượng từ bi nới rộng đến đâu. Nếu thấu lý con vật cũng có Phật tánh, dĩ nhiên khi tổn người hại vật chính là chưa thấm nhuần mưa Pháp, bởi ta và vật và tha nhân vốn không hai. Rộng hơn, theo tinh thần Kinh điển: vạn vật đều cùng một tự tánh câu thông khắp hư không trọn pháp giới; lẽ nào ta tự hủy hoại chính ta.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
28 Tháng Mười Một 2018(Xem: 6986)
23 Tháng Ba 2018(Xem: 5983)
18 Tháng Mười Một 2016(Xem: 7183)
24 Tháng Năm 2016(Xem: 7389)
Tôi muốn lý giải về 10 lời nguyện này. Trong kinh hoa nghiêm, Thiện Tài Đồng Tử trên con đừờng tìm Đạo gặp gỡ và tu tập qua 53 vị thày (biểu tượng 53 bước tu tập để thành Phật bằng con đường Bồ tát Đạo) Trãi qua tất cả từ những vị thày từ nhửng kỹ nữ ăn chơi tới những Bồ tát lớn nhât Vị thày đầu tiên là Văn Thù Bồ Tát , tượng trưng cho Căn bản trí- là cái trí căn bản nằm tiển ẩn trong mọi chúng sanh nhưng không hiển lộ vì bị ngăn che bởi nhửng nghiệp lực..Vị thày thứ 53 sau cùng là Phổ Hiền Bồ Tát (tượng trưng cho hậu đắc trí là cái trí hiểu và ứng dụng được căn bản trí để có thể độ được chúng sanh-ý niệm từ Duy thức học). Sự thể hiện của hậu đắc trí có thể cảm nghiệm từ lục độ bước qua thập độ- Lục độ là bố thí, trì giới,nhẫn nhục,tinh tấn,thiền định và trí huệ. Bước qua thập độ thêm phương tiện , nguyện , lực,trí…Ta thấy lục đệ lục độ là trí mà thập đệ thập độ cũng là trí.Nhưng sự khác nhau là giữa căn bản trí và hậu đắc trí.
28 Tháng Tư 2016(Xem: 6878)
Tỳ-kheo có một nghĩa là bố ma, làm cho ma phải khiếp sợ. Ma chướng trong đường tu rất nhiều, bên trong và bên ngoài, thường gọi là nội ma ngoại chướng. Nhưng kỳ thực, có người tu không làm cho ma khiếp sợ mà ngược lại sợ ma, đi theo và làm quyến thuộc của ma. Nghĩa là bên trong không hàng phục được phiền não, bên ngoài không qua được chướng ngại. Thời Phật tại thế, Tỳ-kheo Đề-bà-đạt-đa là một điển hình.
23 Tháng Ba 2016(Xem: 7093)
Không phải ngẫu nhiên mà Đức Phật xem việc gần gũi vua quan là nạn, và mạnh mẽ cảnh tỉnh chúng Tăng: “Gần gũi bậc vua chúa vương gia có mười việc phi pháp”. Phi pháp ở đây là không phù hợp với Chánh pháp, không giúp ích cho việc thành tựu mục tiêu phạm hạnh và giải thoát của hàng xuất gia.
22 Tháng Ba 2016(Xem: 7179)
Người xuất gia mang trên mình pháp tướng đầu tròn, áo vuông, nguyện hủy hình để khác biệt với thế thường, sống đời thoát tục. Chưa nói đến tâm giải thoát hay tuệ giải thoát vốn ẩn tàng, sâu kín bên trong, hãy xem các hình thức bên ngoài như uy nghi và ứng xử trong đời sống hàng ngày thì phần nào cũng biết được công phu của hàng xuất sĩ.
20 Tháng Giêng 2016(Xem: 7814)
Thường thì khi chưa thành tựu về một điều gì chúng ta cảm thấy không vui. Nhưng khi đã toại nguyện, đã có những gì mong ước thì cũng chỉ vui được một thoáng rồi qua nhanh. Thực chất thì chưa được hay đã được đều có nỗi khổ riêng, vì cái tâm mong muốn của con người dường như không có điểm dừng.
13 Tháng Giêng 2016(Xem: 8023)
Ai cũng biết xuất gia tu hành đúng Chánh pháp thì gieo trồng được nhiều công đức, phước báo. Nhưng thực tiễn thì không phải ai cũng được xuất gia, nên Thế Tôn mới trợ duyên cho hàng Phật tử tại gia phát tâm xuất gia gieo duyên, có thời hạn, ít nhất là một ngày đêm tập sự xuất gia như tu Bát quan trai chẳng hạn.