Tránh xa thầy tà, bạn xấu

30 Tháng Sáu 201402:25(Xem: 6971)

TRÁNH XA THẦY TÀ, BẠN XẤU

Quảng Tánh


blankLà người con Phật, ai cũng nguyện trọn đời quy y Tăng và nhất quyết không quy y thầy tà, bạn xấu. Dĩ nhiên, với tâm từ, chúng ta không trách móc hay oán hận hoặc tẩy chay bất cứ vị thầy, bạn nào không xứng đáng nhưng quyết không thân cận, hợp tác với họ, vì Thế Tôn đã từng khuyến cáo “chớ cùng ác tri thức tùng sự”.

Thời Thế Tôn tại thế, bấy giờ Đề-bà-đạt-đa manh tâm hại Phật, chia rẽ Tăng đoàn. Trong một lần khất thực, lúc sắp chạm mặt với Đề-bà-đạt-đa, Thế Tôn đã quyết định tránh duyên, không gặp vì một lẽ đơn giản là “kẻ ác này chẳng nên gặp gỡ”. Dĩ nhiên là Thế Tôn đã tìm đủ mọi cách để giáo huấn Đề-bà-đạt-đa hồi tâm, phục thiện nhưng không kết quả thì phải tránh duyên mà thôi. Pháp thoại dưới đây đã cho chúng ta một bài học về ứng xử tuyệt vời đối với “thầy tà, bạn xấu”.

“Một thời Phật ở thành La-duyệt tại vườn trúc Ca-lan-đà, cùng với năm trăm đại chúng Tỳ-kheo.

Bấy giờ Thế Tôn đến giờ, đắp y ôm bát vào thành La-duyệt khất thực. Lúc đó, Đề-bà-đạt-đa cũng vào thành khất thực. Đề-bà-đạt-đa đi vào trong ngõ xóm, Phật cũng đến chỗ đó. Nhưng Phật từ xa trông thấy Đề-bà-đạt-đa đến liền muốn thối lui mà đi.

Khi ấy A-nan bạch Phật: Cớ sao muốn xa lìa xóm này?

Thế Tôn bảo: Nay Đề-bà-đạt-đa ở xóm này, nên Ta tránh đi.

A-nan bạch Phật: Thế Tôn! Há sợ Đề-bà-đạt-đa sao?

Thế Tôn bảo: Ta chẳng sợ Đề-bà-đạt-đa, nhưng kẻ ác này chẳng nên gặp gỡ.

A-nan thưa: Nhưng, bạch Thế Tôn! Có thể khiến cho Đề-bà-đạt-đa này tới phương khác.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ này: Ta trọn không tâm này/ Khiến Đề-bà ra đi/ Rồi sẽ tự tạo hạnh/ Và tự ở chỗ khác.

A-nan bạch Phật: Nhưng Đề-bà-đạt-đa có lỗi với Thế Tôn.

Thế Tôn bảo: Người ngu hoặc chẳng nên gặp gỡ.

Bấy giờ Thế Tôn nhìn A-nan mà nói kệ: Chẳng nên thấy người ngu/ Chớ cùng ngu làm việc/ Cũng chớ nói năng cùng/ Nói những việc thị phi.

Khi ấy, A-nan lại dùng kệ đáp Thế Tôn: Người ngu làm gì được? Người ngu có lỗi gì? Ngay cho cùng nói chuyện/ Lại có những lỗi nào?

Thế Tôn lại dùng kệ đáp A-nan: Người ngu tự tạo hạnh/ Chỗ làm là phi pháp/ Chánh kiến trái luật thường/ Tà kiến ngày càng thêm.

Thế nên, A-nan, chớ cùng ác tri thức tùng sự. Vì cớ sao? Cùng ác tri thức tùng sự thì không tín, không giới, không văn, không trí. Cùng thiện tri thức tùng sự thì tăng thêm công đức, giới thành tựu đầy đủ. Như vậy, A-nan, hãy học điều này!

Bấy giờ A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Địa chủ,

VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.432)

Đúng là “tránh voi chả xấu mặt nào”! Với một người mà ta đã cảm nhận sâu sắc, đã nhiều lần trải nghiệm về họ là “không chơi được” thì tốt nhất là phải tránh xa. Ngay cả như Thế Tôn mà không muốn dây vào hạng ác tri thức như Đề-bà-đạt-đa thì huống gì chúng ta. Không phải Thế Tôn bất lực trong việc này, nhưng có lẽ, đó là cách thức giáo hóa thực tiễn và sinh động nhất cho hậu thế chúng ta về cách thức ứng xử với thầy tà, bạn xấu.

Nhẫn nhịn một tí, tránh duyên một tí, và có thể chịu thua thiệt một tí nhưng chắc chắn ta sẽ bình an. Trong bối cảnh đời sống tu học vốn không ít uẩn khúc, thăng trầm thì đối đầu hay va chạm thêm chỉ là chuyện bất đắc dĩ. Nếu chúng ta tự thấy mình chưa đủ duyên giáo hóa người xấu thì hãy tránh duyên. Thị phi, phân bua, biện biệt đúng sai, luận tranh hơn thiệt… chỉ làm cho sự việc càng rối thêm, chướng ngại sự chuyên tâm thiền định.

Không những tránh mặt, Thế Tôn còn xác quyết là không thân cận, bất hợp tác với người ác tri thức. Dù cho họ có nhân danh là ai, giữ chức phận gì trong đạo hay ngoài đời, hứa hẹn giúp ta nhiều điều tốt lành… nhưng nếu thực sự biết họ là ác tri thức thì quyết không tùng sự, bất hợp tác. Vì sao? Vì kết quả cuối cùng của “liên minh” này có thể được nhiều điều (đối với thế gian) nhưng chắc chắn là trắng tay với đạo quả. Thế Tôn nói thẳng là về sự mất trắng này là “không tín, không giới, không văn, không trí”, điều này cũng đồng nghĩa với quả báo không lành nơi ác đạo, tam đồ.

Thế nên, người nào hay hội chúng nào mà thiếu kém phẩm chất thanh tịnh và hòa hợp của Tăng-già, không giúp cho chúng ta tiến bộ trên đường đạo thì phải tránh xa, mạnh dạn nói không hợp tác với họ. Ngược lại, chúng ta cần quyết tâm nương tựa lâu dài nơi các bậc thiện tri thức để tu học, nếu thực sự muốn “tăng thêm công đức, giới thành tựu đầy đủ”.

Nguyên văn kinh văn:
ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM
KINH TĂNG NHẤT A HÀM
Việt dịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997

XXIII. Phẩm Địa chủ

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở thành La-duyệt tại vườn trúc Ca-lan-đà, cùng với năm trăm đại chúng Tỳ-kheo.

Bấy giờ Thế Tôn đến giờ, đắp y ôm bát vào thành La-duyệt khất thực. Lúc đó, Đề-bà-đạt-đa cũng vào thành khất thực. Đề-bà-đạt-đa đi vào trong ngõ xóm, Phật cũng đến chỗ đó. Nhưng Phật từ xa trông thấy Đề-bà-đạt-đa đến liền muốn thối lui mà đi.

Khi ấy A-nan bạch Phật:

- Cớ sao muốn xa lìa xóm này?

Thế Tôn bảo:

- Nay Đề-bà-đạt-đa ở xóm này, nên Ta tránh đi.

A-nan bạch Phật:

- Thế Tôn! Há sợ Đề-bà-đạt-đa sao?

Thế Tôn bảo:

- Ta chẳng sợ Đề-bà-đạt-đa, nhưng kẻ ác này chẳng nên gặp gỡ.

A-nan thưa:

- Nhưng, bạch Thế Tôn! Có thể khiến cho Đề-bà-đạt-đa này tới phương khác.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ này:

Ta trọn không tâm này,
Khiến Đề-bà ra đi,
Rồi sẽ tự tạo hạnh
Và tự ở chỗ khác.

A-nan bạch Phật:

- Nhưng Đề-bà-đạt-đa có lỗi với Thế Tôn.

Thế Tôn bảo:

- Người ngu hoặc chẳng nên gặp gỡ.

Bấy giờ Thế Tôn nhìn A-nan mà nói kệ:

Chẳng nên thấy người ngu,
Chớ cùng ngu làm việc,
Cũng chớ nói năng cùng,
Nói những việc thị phi.

Khi ấy, A-nan lại dùng kệ đáp Thế Tôn:

Người ngu làm gì được?
Người ngu có lỗi gì?
Ngay cho cùng nói chuyện,
Lại có những lỗi nào?

Thế Tôn lại dùng kệ đáp A-nan:

Người ngu tự tạo hạnh,
Chỗ làm là phi pháp,
Chánh kiến trái luật thường,
Tà kiến ngày càng thêm.

Thế nên, A-nan, chớ cùng ác tri thức tùng sự. Vì cớ sao? Cùng ác tri thức tùng sự thì không tín, không giới, không văn, không trí. Cùng thiện tri thức tùng sự thì tăng thêm công đức, giới thành tựu đầy đủ. Như vậy, A-nan, hãy học điều này!

Bấy giờ A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

(http://dieungu.org/p13273a31635/4/tu-pham-23-den-pham-24)
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
06 Tháng Năm 2015(Xem: 6172)
Thời Thế Tôn, nhiệm vụ trọng yếu của một Tỳ-kheo là tu học, khất thực và thuyết pháp. Cốt tủy của nội dung tu học là thiền định (tu) và nghe pháp (học). Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe pháp từ kim khẩu của Thế Tôn, nghe pháp từ chư vị Trưởng lão trong các hội chúng. Sau đó các Tỳ-kheo thường tụng đọc lại nội dung pháp thoại đã được nghe cho đến khi thuộc lòng.
27 Tháng Tư 2015(Xem: 5669)
Cuộc sống luôn luôn bao gồm hai mặt thiện ác và chánh tà lẫn lộn. Kỳ vọng về một mô hình hay đoàn thể lý tưởng, thuần thiện ở thế gian là điều không thể. Nên phải quan sát cuộc sống thật kỹ càng để phân biệt rõ người nào là thiện, kẻ nào là ác; việc gì là chánh, việc gì là tà để rồi từ đó có ứng xử thích hợp.
21 Tháng Tư 2015(Xem: 5680)
Con người là một hợp thể của năm uẩn, sắc (thân - vật chất) và thọ, tưởng, hành, thức (tâm - tinh thần). Thân và tâm tuy khác biệt nhau nhưng có mối quan hệ khắng khít, tác động và hỗ tương lẫn nhau.
12 Tháng Tư 2015(Xem: 5966)
Lời dạy của Thế Tôn thật rõ ràng “Nhận lợi dưỡng của người thật là chẳng phải dễ, khiến người chẳng đến được chỗ vô vi”. Nên chỉ xem lợi dưỡng là phương tiện sống và hành đạo mà thôi, quyết không dính mắc và không bị nó nhận chìm. Nhận chân và thực hành được lời dạy này của Phật thì may ra đời tu mới nhẹ nhàng, thanh thản, chỗ vô vi mới có thể dự phần. Còn nếu dính mắc quá nhiều vào lợi dưỡng và cung kính thì dù có là ai và địa vị nào đi nữa cũng chỉ dừng ở hữu `vi mà thôi.
06 Tháng Tư 2015(Xem: 6916)
Ai cũng biết ham mê ngủ nghỉ là không tốt. Nhưng nếu không ngủ được lại là một đại họa. Ngủ ngon và đủ giấc giúp phục hồi sức khỏe, trí óc minh mẫn, tinh thần sảng khoái, cuộc sống tươi vui hơn. Thế nhưng đời sống hiện đại đã khiến những giấc ngủ ngon ngày càng trở nên xa xỉ, đối với không ít người, đó là niềm mơ ước xa vời. Có lẽ vì thế mà trước lúc đi ngủ người ta thường chúc ngủ ngon, rồi sau khi thức dậy, điều quan tâm đầu tiên cũng là ngủ có ngon giấc.
31 Tháng Ba 2015(Xem: 7052)
Rõ ràng Pháp vương và Pháp chủ là những tôn hiệu để chỉ Đức Phật. Tăng thống, Tăng chủ thì có thể vẫn là phàm tăng hoặc á thánh, còn Pháp vương và Pháp chủ thì chắc hẳn là bậc Giác ngộ, bậc Thánh A-la-hán trở lên. Nên thiển nghĩ, việc thiết định hay diễn dịch các chức danh trong Tăng đoàn cần phù hợp với tinh thần kinh điển và thuận hợp với lịch sử phát triển Phật giáo.
25 Tháng Ba 2015(Xem: 7693)
Có sanh ra ắt sẽ có già suy và bệnh chết. Ai rồi cũng đến lúc về già, sức vóc không còn tươi đẹp và khỏe mạnh như xưa. Âu đó cũng là quy luật thường nhiên sanh già bệnh chết.
17 Tháng Ba 2015(Xem: 6793)
Trong ba ác nghiệp của thân, khẩu, ý thì khẩu nghiệp (nói gian dối, nói chia rẽ, nói hung ác, nói dua nịnh) là dễ gây tạo nhất. Nhiều người cứ nghĩ lời nói gió bay nên nói không cần suy xét, nói cho đã miệng mà không ngờ những lời hư vọng ấy có tác hại không nhỏ đến mình và người. Nhất là khi đề cập hay bình phẩm về người tu hành,
08 Tháng Ba 2015(Xem: 7455)
Hẳn ai cũng biết, một trong những bổn phận căn bản của người xuất gia là thuyết pháp, đem lời vàng vi diệu của Thế Tôn chia sẻ an lạc đến với mọi người.
02 Tháng Ba 2015(Xem: 8487)
Như Lai phủ nhận vai trò lãnh đạo Tăng đoàn của Ngài hẵn có lý do. Trước nhất, Tăng già (Sangha) là một tổ chức nhưng dựa trên nền tảng thanh tịnh và hòa hợp mà hoàn toàn không có giáo quyền. Thứ đến, giải thoát và giác ngộ là nỗ lực phấn đấu để thăng chứng của tự thân mỗi Tỷ-kheo