Tránh xa thầy tà, bạn xấu

30 Tháng Sáu 201402:25(Xem: 6919)

TRÁNH XA THẦY TÀ, BẠN XẤU

Quảng Tánh


blankLà người con Phật, ai cũng nguyện trọn đời quy y Tăng và nhất quyết không quy y thầy tà, bạn xấu. Dĩ nhiên, với tâm từ, chúng ta không trách móc hay oán hận hoặc tẩy chay bất cứ vị thầy, bạn nào không xứng đáng nhưng quyết không thân cận, hợp tác với họ, vì Thế Tôn đã từng khuyến cáo “chớ cùng ác tri thức tùng sự”.

Thời Thế Tôn tại thế, bấy giờ Đề-bà-đạt-đa manh tâm hại Phật, chia rẽ Tăng đoàn. Trong một lần khất thực, lúc sắp chạm mặt với Đề-bà-đạt-đa, Thế Tôn đã quyết định tránh duyên, không gặp vì một lẽ đơn giản là “kẻ ác này chẳng nên gặp gỡ”. Dĩ nhiên là Thế Tôn đã tìm đủ mọi cách để giáo huấn Đề-bà-đạt-đa hồi tâm, phục thiện nhưng không kết quả thì phải tránh duyên mà thôi. Pháp thoại dưới đây đã cho chúng ta một bài học về ứng xử tuyệt vời đối với “thầy tà, bạn xấu”.

“Một thời Phật ở thành La-duyệt tại vườn trúc Ca-lan-đà, cùng với năm trăm đại chúng Tỳ-kheo.

Bấy giờ Thế Tôn đến giờ, đắp y ôm bát vào thành La-duyệt khất thực. Lúc đó, Đề-bà-đạt-đa cũng vào thành khất thực. Đề-bà-đạt-đa đi vào trong ngõ xóm, Phật cũng đến chỗ đó. Nhưng Phật từ xa trông thấy Đề-bà-đạt-đa đến liền muốn thối lui mà đi.

Khi ấy A-nan bạch Phật: Cớ sao muốn xa lìa xóm này?

Thế Tôn bảo: Nay Đề-bà-đạt-đa ở xóm này, nên Ta tránh đi.

A-nan bạch Phật: Thế Tôn! Há sợ Đề-bà-đạt-đa sao?

Thế Tôn bảo: Ta chẳng sợ Đề-bà-đạt-đa, nhưng kẻ ác này chẳng nên gặp gỡ.

A-nan thưa: Nhưng, bạch Thế Tôn! Có thể khiến cho Đề-bà-đạt-đa này tới phương khác.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ này: Ta trọn không tâm này/ Khiến Đề-bà ra đi/ Rồi sẽ tự tạo hạnh/ Và tự ở chỗ khác.

A-nan bạch Phật: Nhưng Đề-bà-đạt-đa có lỗi với Thế Tôn.

Thế Tôn bảo: Người ngu hoặc chẳng nên gặp gỡ.

Bấy giờ Thế Tôn nhìn A-nan mà nói kệ: Chẳng nên thấy người ngu/ Chớ cùng ngu làm việc/ Cũng chớ nói năng cùng/ Nói những việc thị phi.

Khi ấy, A-nan lại dùng kệ đáp Thế Tôn: Người ngu làm gì được? Người ngu có lỗi gì? Ngay cho cùng nói chuyện/ Lại có những lỗi nào?

Thế Tôn lại dùng kệ đáp A-nan: Người ngu tự tạo hạnh/ Chỗ làm là phi pháp/ Chánh kiến trái luật thường/ Tà kiến ngày càng thêm.

Thế nên, A-nan, chớ cùng ác tri thức tùng sự. Vì cớ sao? Cùng ác tri thức tùng sự thì không tín, không giới, không văn, không trí. Cùng thiện tri thức tùng sự thì tăng thêm công đức, giới thành tựu đầy đủ. Như vậy, A-nan, hãy học điều này!

Bấy giờ A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Địa chủ,

VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.432)

Đúng là “tránh voi chả xấu mặt nào”! Với một người mà ta đã cảm nhận sâu sắc, đã nhiều lần trải nghiệm về họ là “không chơi được” thì tốt nhất là phải tránh xa. Ngay cả như Thế Tôn mà không muốn dây vào hạng ác tri thức như Đề-bà-đạt-đa thì huống gì chúng ta. Không phải Thế Tôn bất lực trong việc này, nhưng có lẽ, đó là cách thức giáo hóa thực tiễn và sinh động nhất cho hậu thế chúng ta về cách thức ứng xử với thầy tà, bạn xấu.

Nhẫn nhịn một tí, tránh duyên một tí, và có thể chịu thua thiệt một tí nhưng chắc chắn ta sẽ bình an. Trong bối cảnh đời sống tu học vốn không ít uẩn khúc, thăng trầm thì đối đầu hay va chạm thêm chỉ là chuyện bất đắc dĩ. Nếu chúng ta tự thấy mình chưa đủ duyên giáo hóa người xấu thì hãy tránh duyên. Thị phi, phân bua, biện biệt đúng sai, luận tranh hơn thiệt… chỉ làm cho sự việc càng rối thêm, chướng ngại sự chuyên tâm thiền định.

Không những tránh mặt, Thế Tôn còn xác quyết là không thân cận, bất hợp tác với người ác tri thức. Dù cho họ có nhân danh là ai, giữ chức phận gì trong đạo hay ngoài đời, hứa hẹn giúp ta nhiều điều tốt lành… nhưng nếu thực sự biết họ là ác tri thức thì quyết không tùng sự, bất hợp tác. Vì sao? Vì kết quả cuối cùng của “liên minh” này có thể được nhiều điều (đối với thế gian) nhưng chắc chắn là trắng tay với đạo quả. Thế Tôn nói thẳng là về sự mất trắng này là “không tín, không giới, không văn, không trí”, điều này cũng đồng nghĩa với quả báo không lành nơi ác đạo, tam đồ.

Thế nên, người nào hay hội chúng nào mà thiếu kém phẩm chất thanh tịnh và hòa hợp của Tăng-già, không giúp cho chúng ta tiến bộ trên đường đạo thì phải tránh xa, mạnh dạn nói không hợp tác với họ. Ngược lại, chúng ta cần quyết tâm nương tựa lâu dài nơi các bậc thiện tri thức để tu học, nếu thực sự muốn “tăng thêm công đức, giới thành tựu đầy đủ”.

Nguyên văn kinh văn:
ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM
KINH TĂNG NHẤT A HÀM
Việt dịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997

XXIII. Phẩm Địa chủ

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở thành La-duyệt tại vườn trúc Ca-lan-đà, cùng với năm trăm đại chúng Tỳ-kheo.

Bấy giờ Thế Tôn đến giờ, đắp y ôm bát vào thành La-duyệt khất thực. Lúc đó, Đề-bà-đạt-đa cũng vào thành khất thực. Đề-bà-đạt-đa đi vào trong ngõ xóm, Phật cũng đến chỗ đó. Nhưng Phật từ xa trông thấy Đề-bà-đạt-đa đến liền muốn thối lui mà đi.

Khi ấy A-nan bạch Phật:

- Cớ sao muốn xa lìa xóm này?

Thế Tôn bảo:

- Nay Đề-bà-đạt-đa ở xóm này, nên Ta tránh đi.

A-nan bạch Phật:

- Thế Tôn! Há sợ Đề-bà-đạt-đa sao?

Thế Tôn bảo:

- Ta chẳng sợ Đề-bà-đạt-đa, nhưng kẻ ác này chẳng nên gặp gỡ.

A-nan thưa:

- Nhưng, bạch Thế Tôn! Có thể khiến cho Đề-bà-đạt-đa này tới phương khác.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ này:

Ta trọn không tâm này,
Khiến Đề-bà ra đi,
Rồi sẽ tự tạo hạnh
Và tự ở chỗ khác.

A-nan bạch Phật:

- Nhưng Đề-bà-đạt-đa có lỗi với Thế Tôn.

Thế Tôn bảo:

- Người ngu hoặc chẳng nên gặp gỡ.

Bấy giờ Thế Tôn nhìn A-nan mà nói kệ:

Chẳng nên thấy người ngu,
Chớ cùng ngu làm việc,
Cũng chớ nói năng cùng,
Nói những việc thị phi.

Khi ấy, A-nan lại dùng kệ đáp Thế Tôn:

Người ngu làm gì được?
Người ngu có lỗi gì?
Ngay cho cùng nói chuyện,
Lại có những lỗi nào?

Thế Tôn lại dùng kệ đáp A-nan:

Người ngu tự tạo hạnh,
Chỗ làm là phi pháp,
Chánh kiến trái luật thường,
Tà kiến ngày càng thêm.

Thế nên, A-nan, chớ cùng ác tri thức tùng sự. Vì cớ sao? Cùng ác tri thức tùng sự thì không tín, không giới, không văn, không trí. Cùng thiện tri thức tùng sự thì tăng thêm công đức, giới thành tựu đầy đủ. Như vậy, A-nan, hãy học điều này!

Bấy giờ A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

(http://dieungu.org/p13273a31635/4/tu-pham-23-den-pham-24)
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
15 Tháng Giêng 2015(Xem: 5907)
Trong các pháp thoại của Thế Tôn, những hình ảnh trực quan luôn được vận dụng để minh họa cho thính chúng dễ hiểu, dễ liên hệ, nhận rõ ý nghĩa những lời dạy của Ngài. Nước sông Hằng đã được Thế Tôn dùng để chỉ cho nước mắt của chúng sanh khóc thương nhau trong những lần tử biệt sanh ly, chuyển lưu sanh tử trong nhiều đời kiếp.
06 Tháng Giêng 2015(Xem: 6468)
Trong Tam tạng giáo điển nhà Phật, giới luật có vai trò rất quan trọng, được xếp thành một tạng riêng, tạng Luật. Trong nội dung tu tập của hàng đệ tử Phật, dù tu theo bất cứ pháp môn nào, cả xuất gia lẫn tại gia, đều phải thành tựu giới; nhân giới mà sanh định, nhân định mà phát tuệ.
03 Tháng Giêng 2015(Xem: 8558)
Xưa, Đức Thế Tôn dạy các đệ tử: “Chớ ngủ hai đêm, dưới cùng một gốc cây”. Lời dạy, thoạt nghe có vẻ ngộ nghĩnh, gần như chẳng quan trọng gì, nhưng khi được Thầy chỉ rõ hơn, đệ tử mới biết rằng, một lời, dù đơn sơ, từ kim khẩu Đức Thế Tôn, đều là một bài pháp.
03 Tháng Giêng 2015(Xem: 7301)
Lịch sử là một vở kịch mà trong đó các diễn viên luôn thay đổi và trình diễn không ngừng. Trên sân khấu đó, cái nhìn của người thưởng ngoạn- cũng là diễn viên- được nhận diện khác biệt giữa Tây phương và Đông phương.
30 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 8252)
Đi chùa, dâng hương, lễ Phật là một trong những pháp tu căn bản của hàng Phật tử tại gia. Hàng xuất gia cũng nhờ lễ Phật mà nghiệp chướng tiêu trừ, công đức tăng trưởng, thành tựu đạo nghiệp.
21 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 5892)
Tuổi tác rất quan trọng nhưng phẩm hạnh còn quan trọng hơn rất nhiều đối với nhân cách của một người. Nhất là trong nhà đạo thì phẩm hạnh đặc biệt được xem trọng. Chính phẩm hạnh và tuệ giác đã tạo nên tính cách trưởng lão chứ không phải là tuổi tác. Thế Tôn đã xác quyết điều này như tinh thần pháp thoại dưới đây:
17 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 6789)
Cuộc đời này có vui không? Có, nhưng vui thì ít mà khổ thì nhiều, vui rất khó tìm mà lại dễ mất, vui không bao giờ là quà tặng cho số đông. Nhờ có chút niềm vui trong năm dục mà an ủi phận người, tiếp thêm nghị lực và sức sống cho con người. Tuy có vui nhưng Đức Phật dạy niềm vui ấy thật mong manh,
07 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 6838)
Chúng ta đều biết, người ta sống ở đời mỗi người đều có một thế mạnh, sở trường và sở đoản khác nhau. Biết khai thác và phát huy thế mạnh đồng thời biết khắc phục và tránh né những thế yếu của mình là nền tảng của mọi thành công.
04 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 7863)
Người tu tuy mang hạnh nguyện “xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo”, nhưng sau nhiều năm tu học nhờ công đức làm lợi mình lợi người nên phước báo ngày càng lớn lên. Phước báo có công năng diệu kỳ, dù người tu không vọng cầu nhưng tứ sự (thực phẩm, y phục, thuốc men, sàng tòa) luôn đầy đủ, sung mãn. Và cũng từ đây, lợi dưỡng cùng cung kính bắt đầu đoanh vây đời sống xuất gia.
03 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 7372)
Vì sao người tu phải tránh “những điều luận bàn của thế tục”? Thực ra luận bàn để trau dồi và nâng cao tri thức thế gian cũng rất tốt, cần thiết cho cuộc sống nhưng nó không dẫn người tu đến các pháp lành, không đi đến Phạm hạnh, không đến được chỗ tịch diệt. Đây là chỗ người tu hướng đến giải thoát, Niết-bàn cần hết sức lưu tâm. Người tu thì nên nói chuyện tu, không nói chuyện đời mà chỉ “bàn luận về mười việc công đức”, chính là lời căn dặn của Thế Tôn.