Pháp lễ chùa Phật

30 Tháng Mười Hai 201403:22(Xem: 8278)

PHÁP LỄ CHÙA PHẬT

Quảng Tánh


blankĐi chùa, dâng hương, lễ Phật là một trong những pháp tu căn bản của hàng Phật tử tại gia. Hàng xuất gia cũng nhờ lễ Phật mà nghiệp chướng tiêu trừ, công đức tăng trưởng, thành tựu đạo nghiệp. 

Có thể nói, lễ bái chư Phật, chư vị Bồ-tát được mọi người con Phật thực thi hàng ngày. Nhất là những ngày rằm vía thì hoạt động lễ bái càng nhộn nhịp hơn. Tuy nhiên, không phải ai lễ Phật cũng đúng với pháp thức lễ bái như Thế Tôn đã chỉ dạy. Vì thế, dù người đi chùa lễ Phật rất đông nhưng không phải ai cũng thành tựu phước báo, công đức.

Thế Tôn dạy, muốn được “phước lâu dài vô lượng” thì người lễ bái cần nương vào mười một pháp lễ chùa Phật.

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn lễ bái chùa tháp Như Lai, nên thực hành mười một pháp lễ chùa Phật. Thế nào là mười một? Hưng khởi tâm dõng mãnh vì có thể kham; ý không tán loạn vì thường nhất tâm; ... vì ghi nhớ chuyên tâm các pháp Chỉ; vì ghi nhớ chuyên tâm các pháp Quán; các niệm hằng dứt vì nhập chánh định; ý biết vô lượng vì có trí tuệ; ý khó quán sát do hình tướng Như Lai; ý vắng lặng trạm nhiên vì oai nghi Như Lai; ý không chạy nhảy vì danh xưng Như Lai; ý không tưởng tượng do sắc tướng Như Lai; Phạm âm khó bì kịp do âm hưởng nhu nhuyến.

Các Tỳ-kheo! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn lễ bái chùa tháp Như Lai, đầy đủ mười một pháp này. Lễ chùa tháp của Như Lai thì được phước lâu dài vô lượng. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập III, phẩm Lễ Tam bảo, 

VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.476)


Rõ ràng, theo sự chỉ dạy của Thế Tôn, người Phật tử lễ bái chùa Phật được vô lượng phước đức mà không nhất thiết phải cầu xin bất cứ điều gì. Phải chăng, trong quá trình lễ Phật, chúng ta quá chú trọng vào khấn nguyện và cầu xin nên đã vô tình không đi vào trọng tâm của việc lễ bái, vì thế mà ít thành tựu như ý nguyện.

Thì ra, lễ Phật là một phương thức tu tập chứ không phải để cầu nguyện, xin được ban ơn. Thành tâm quy kính trước Thế Tôn, buông bỏ hết sự đời, thân tâm chuyên nhất hướng về Tam bảo. Chỉ và Quán có mặt ngay trong lúc thực hành lễ lạy. Chỉ là dừng các suy nghĩ buồn vui, được mất, thành bại trong đời. Ngay lúc đó, nhờ tâm được dừng lại và buông bỏ mà ta gần với Phật hơn, cả hai đều vắng lặng, tịch tĩnh. Quán là nhập tâm vào Thế Tôn, niệm 10 đức hiệu, thấy 32 tướng tốt, uy nghi đĩnh đạc, từ bi và trí tuệ tròn đầy, âm thanh thật dễ nghe và nhu nhuyến của Ngài. Phật lúc này không còn là pho tượng mà chính là hiện thân trung thực và sống động mà người lễ bái có thể giao cảm được.

Nhờ tiếp xúc được với Thế Tôn nên “cảm ứng đạo giao nan tư nghì” xảy ra. Dù những phút giây ấy thật ngắn ngủi nhưng đã khiến cho lòng người lễ Phật nhẹ hẫng, đau buồn rơi rụng, tha thứ và yêu thương được phục hồi. Nên mỗi lần lễ Phật trong tĩnh lặng và chậm rãi, có thành tâm và quán niệm sâu sắc chính là một lần được gột rửa thân tâm, làm mới lại chính mình.

Quan sát thực tế hiện nay, người đi lễ Phật khá nhiều nhưng vội quá, đông quá và cầu xin nhiều thứ quá mà không thực hành lễ lạy đúng pháp thức của nhà Phật. Thế nên, người lễ Phật cần chọn một không gian yên tĩnh, lễ bái chậm rãi, đem hết tâm thành cung kính lạy Phật. Ai tiếp xúc được với Phật thì chắc chắn người ấy sẽ thành tựu công đức, được “phước lâu dài vô lượng”.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
28 Tháng Mười Một 2018(Xem: 6959)
23 Tháng Ba 2018(Xem: 5972)
18 Tháng Mười Một 2016(Xem: 7162)
24 Tháng Năm 2016(Xem: 7373)
Tôi muốn lý giải về 10 lời nguyện này. Trong kinh hoa nghiêm, Thiện Tài Đồng Tử trên con đừờng tìm Đạo gặp gỡ và tu tập qua 53 vị thày (biểu tượng 53 bước tu tập để thành Phật bằng con đường Bồ tát Đạo) Trãi qua tất cả từ những vị thày từ nhửng kỹ nữ ăn chơi tới những Bồ tát lớn nhât Vị thày đầu tiên là Văn Thù Bồ Tát , tượng trưng cho Căn bản trí- là cái trí căn bản nằm tiển ẩn trong mọi chúng sanh nhưng không hiển lộ vì bị ngăn che bởi nhửng nghiệp lực..Vị thày thứ 53 sau cùng là Phổ Hiền Bồ Tát (tượng trưng cho hậu đắc trí là cái trí hiểu và ứng dụng được căn bản trí để có thể độ được chúng sanh-ý niệm từ Duy thức học). Sự thể hiện của hậu đắc trí có thể cảm nghiệm từ lục độ bước qua thập độ- Lục độ là bố thí, trì giới,nhẫn nhục,tinh tấn,thiền định và trí huệ. Bước qua thập độ thêm phương tiện , nguyện , lực,trí…Ta thấy lục đệ lục độ là trí mà thập đệ thập độ cũng là trí.Nhưng sự khác nhau là giữa căn bản trí và hậu đắc trí.
28 Tháng Tư 2016(Xem: 6869)
Tỳ-kheo có một nghĩa là bố ma, làm cho ma phải khiếp sợ. Ma chướng trong đường tu rất nhiều, bên trong và bên ngoài, thường gọi là nội ma ngoại chướng. Nhưng kỳ thực, có người tu không làm cho ma khiếp sợ mà ngược lại sợ ma, đi theo và làm quyến thuộc của ma. Nghĩa là bên trong không hàng phục được phiền não, bên ngoài không qua được chướng ngại. Thời Phật tại thế, Tỳ-kheo Đề-bà-đạt-đa là một điển hình.
23 Tháng Ba 2016(Xem: 7078)
Không phải ngẫu nhiên mà Đức Phật xem việc gần gũi vua quan là nạn, và mạnh mẽ cảnh tỉnh chúng Tăng: “Gần gũi bậc vua chúa vương gia có mười việc phi pháp”. Phi pháp ở đây là không phù hợp với Chánh pháp, không giúp ích cho việc thành tựu mục tiêu phạm hạnh và giải thoát của hàng xuất gia.
22 Tháng Ba 2016(Xem: 7160)
Người xuất gia mang trên mình pháp tướng đầu tròn, áo vuông, nguyện hủy hình để khác biệt với thế thường, sống đời thoát tục. Chưa nói đến tâm giải thoát hay tuệ giải thoát vốn ẩn tàng, sâu kín bên trong, hãy xem các hình thức bên ngoài như uy nghi và ứng xử trong đời sống hàng ngày thì phần nào cũng biết được công phu của hàng xuất sĩ.
20 Tháng Giêng 2016(Xem: 7802)
Thường thì khi chưa thành tựu về một điều gì chúng ta cảm thấy không vui. Nhưng khi đã toại nguyện, đã có những gì mong ước thì cũng chỉ vui được một thoáng rồi qua nhanh. Thực chất thì chưa được hay đã được đều có nỗi khổ riêng, vì cái tâm mong muốn của con người dường như không có điểm dừng.
13 Tháng Giêng 2016(Xem: 8016)
Ai cũng biết xuất gia tu hành đúng Chánh pháp thì gieo trồng được nhiều công đức, phước báo. Nhưng thực tiễn thì không phải ai cũng được xuất gia, nên Thế Tôn mới trợ duyên cho hàng Phật tử tại gia phát tâm xuất gia gieo duyên, có thời hạn, ít nhất là một ngày đêm tập sự xuất gia như tu Bát quan trai chẳng hạn.