Bốn loại biện tài

06 Tháng Giêng 201610:41(Xem: 7428)

BỐN LOẠI BIỆN TÀI
Quảng Tánh

 

thuyet phapBiện tài hay biện tài vô ngại là một trong những phẩm chất cần thiết của vị sứ giả Như Lai. Biện tài có nghĩa là tài hùng biện, biện luận tài giỏi, khả năng nói các pháp nghĩa một cách khéo léo trôi chảy, thuyết pháp lưu loát, có sức thuyết phục người nghe. Ở bất cứ thời đại hay hình thái xã hội nào, nếu đệ tử Phật thành tựu biện tài thì Phật pháp được xương minh.

Thế Tôn thành tựu đầy đủ bốn loại biện tài nên tự tại vô ngại truyền trao Chánh pháp cho trời người và chúng sinh được thấm nhuần ơn pháp. Hàng đệ tử của Ngài cũng thành tựu biện tài nên Chánh pháp được lưu truyền đến tận ngày nay. Mục tiêu tu học của người đệ tử Phật là tự lợi và lợi tha. Để lợi tha được viên mãn, biện tài là một trong những phương tiện cần yếu, nên Thế Tôn từng huấn thị “Hãy cầu phương tiện thành tựu bốn biện tài”.

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có bốn loại biện tài. Thế nào là bốn? Nghĩa là nghĩa biện, pháp biện, từ biện và ứng biện.

Thế nào gọi là nghĩa biện? Nghĩa biện là lời nói của người này, người kia như Trời, rồng, quỷ thần nói đều có thể phân biệt được nghĩa. Đó gọi là nghĩa biện.

Thế nào gọi là pháp biện? Như Lai thuyết mười hai bộ kinh. Nghĩa là Khế kinh, Kỳ dạ, Bổn mạt, Kệ, Nhân duyên, Thọ ký, Tự thuyết, Tạo tụng, Sanh kinh, Phương đẳng, Hợp tập, Vị tằng hữu; và các pháp hữu vi, pháp vô vi, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, các pháp thật không thể phá hoại, có thể tổng trì. Đó gọi là pháp biện.

Thế nào gọi là từ biện? Như chúng sanh ở trước có lời hay, dở; lời đàn ông, lời đàn bà; lời Phật, lời Phạm chí, Trời, rồng, quỷ thần; lời của A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la nói, tùy theo căn nguyên của họ mà thuyết pháp cho. Đó gọi là từ biện.

Thế nào gọi là ứng biện? Lúc đang thuyết pháp không có khiếp nhược, không sợ hãi, hay làm vui hòa bốn bộ chúng. Đó gọi là ứng biện.

Nay Ta sẽ dạy dỗ các thầy! Nên như Ma-ha Câu-hy-la. Vì sao thế? Câu-hy-la có bốn biện tài này, hay cùng bốn bộ chúng rộng phân biệt nói. Như ngày nay, Ta xem trong các chúng không có ai được bốn biện tài hơn Câu-hy-la. Như Lai có bốn biện tài này. Thế nên, hãy cầu phương tiện thành tựu bốn biện tài. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm Khổ lạc,
VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.92)

Trước hết là nghĩa biện, hiểu được nghĩa lời nói của mọi loài như kinh dạy là điều vạn nan. Có nhiều trường hợp, chúng ta nghe hết những gì người khác nói nhưng chưa chắc đã hiểu thâm ý họ muốn gì. Thành ra, ngoài sự nghe hiểu thông thường cần tinh tế và sâu sắc mới có thể cảm nhận, hiểu được ý người khác nói.

Pháp biện tức thông suốt giáo pháp. Nắm vững yếu nghĩa của giáo pháp, xuyên suốt từ tục đế đến chân đế, từ hữu vi đến vô vi, từ Nguyên thủy đến Phát triển. Nhờ thông hiểu giáo pháp mới có thể diễn đạt và truyền trao một cách sáng tỏ, nhất là dung thông các quan điểm dị biệt nhằm hoằng dương Chánh pháp hữu hiệu.

Từ biện là “tùy theo căn nguyên của họ mà thuyết pháp cho”. Có nhiều đối tượng nghe pháp với căn cơ, nhận thức, hoàn cảnh, tâm lý khác nhau. Nếu quán chiếu sâu sắc, chúng ta sẽ thấy họ đều có điểm chung, đó là khổ và nhu cầu giải khổ. Vận dụng tâm từ để yêu thương và thuyết pháp hợp căn cơ, khiến cho tất cả đều được thấm nhuần và lợi ích.

Ứng biện là nói pháp vô ngại, không có khiếp nhược, không sợ hãi, ứng đối lanh lợi khiến người nghe cảm phục, hoan hỷ tùy thuận theo. Người đệ tử Phật luôn ghi nhớ và thực hành lời dạy “Hãy cầu phương tiện thành tựu bốn biện tài”. Chúng ta không cầu trọn vẹn như Tôn giả Câu-hy-la, chỉ cần một phần biện tài của ngài thôi cũng góp phần không nhỏ trong việc hoằng dương Phật pháp trong bối cảnh xã hội hiện nay. 

Quảng Tánh

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
13 Tháng Bảy 2015(Xem: 5647)
Rõ ràng, trong thời hiện đại hiếm có người tu nào giữ được một, hai hay trọn hết các hạnh đầu-đà. Tuy vậy, công hạnh của bậc Thánh Đầu-đà đệ nhất nhắc nhở chúng ta về một đời sống giản dị, thanh bần, muốn ít và biết đủ. Làm sao để trong đời sống tu hành không bị vướng mắc nhiều quá vào ăn, mặc, ở hay ngũ dục, ngũ trần nói chung
06 Tháng Bảy 2015(Xem: 5029)
Nhân có sáu loại là năng tác nhân (kāraṇahetu), câu hữu nhân (sahabhūhetu), đồng loại nhân (sabhāgahetu), tương ưng nhân (saṃprayuktakahetu), biến hành nhân (sarvatragahetu), dị thục nhân (vipākahetu).
05 Tháng Bảy 2015(Xem: 5386)
Sẻ chia, cho đi một phần mình đang có, là hạnh tu phổ biến của hàng Phật tử. Nhờ cho đi, không cố nắm giữ mà thành tựu phước báo đủ đầy, an vui trong hiện tại và vị lai.
29 Tháng Sáu 2015(Xem: 6580)
Chúng ta sinh ra trong cõi Dục nên ái dục vốn sẵn trong thân tâm của mình. Ái dục nam nữ là nghiệp dĩ bình thường của chúng sanh. Trong đời sống thế tục, ái dục đem đến hạnh phúc khiến cho họ gắn kết không rời, có người không chỉ yêu thương nhau trong đời này mà còn nguyện ước gắn kết trong các đời sau.
22 Tháng Sáu 2015(Xem: 5799)
Lễ bái là một pháp tu phổ biến trong đạo Phật. Thường thì chúng ta lễ Phật, các vị Bồ-tát, chư vị Tổ sư để thể hiện sự tôn kính, lòng biết ơn, nguyện học tập theo công hạnh của các Ngài, nhất là để dẹp trừ bản ngã nhằm tiến tu đạo nghiệp.
15 Tháng Sáu 2015(Xem: 5117)
Hãy có tâm từ đối với đàn-việt; hằng lấy lòng từ hướng về đàn-việt; thân hành từ, miệng hành từ, ý hành từ, khiến cho vật bố thí của đàn-việt trọn không bị phí bỏ, được quả báo lớn, thành tựu phước đức lớn
07 Tháng Sáu 2015(Xem: 6131)
Say đắm lợi danh, rõ ràng là đi ngược với đạo giải thoát. Người tu mà vướng vào lợi danh càng nhiều thì tâm trí bị che phủ và u ám càng nặng, vì như Thế Tôn đã dạy, “bốn kết che đậy tâm người không khai mở được”. Từ xa xưa, Thế Tôn đã từng tha thiết: “Này các Tỳ-kheo, hãy cầu phương tiện diệt bốn kết này”.
28 Tháng Năm 2015(Xem: 6159)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
13 Tháng Năm 2015(Xem: 6000)
Ở đời có năm món hấp dẫn, khiến người ta đắm say, vui thích là tiền bạc, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống, ngủ nghỉ (ngũ dục). Cùng với ngũ dục là ngũ trần, năm khoái lạc của giác quan, mắt thích sắc đẹp, tai say tiếng hay, mũi mê hương thơm, lưỡi đắm vị ngon, thân ưa xúc chạm êm ái.
06 Tháng Năm 2015(Xem: 6151)
Thời Thế Tôn, nhiệm vụ trọng yếu của một Tỳ-kheo là tu học, khất thực và thuyết pháp. Cốt tủy của nội dung tu học là thiền định (tu) và nghe pháp (học). Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe pháp từ kim khẩu của Thế Tôn, nghe pháp từ chư vị Trưởng lão trong các hội chúng. Sau đó các Tỳ-kheo thường tụng đọc lại nội dung pháp thoại đã được nghe cho đến khi thuộc lòng.