Cốt Lõi Kinh Kim Cang Và Duy Thức

28 Tháng Mười Một 201811:03(Xem: 6975)

CỐT LÕI KINH KIM CANGDUY THỨC
Thích Minh Không


kinh kim cangRằm tháng 10 Mậu Tuất..

Kinh kim cangduy thức từ trên 2000 năm nay đã được bàn ngang bàn dọc rất nhiều do đó ngày hôm nay tôi chỉ đưa ra một cái nhìn cá nhân vào cốt lõi cúa 2 môn học thọat nhìn thì tương phản nhưng thật ra bổ túc và ôm ngoàm nhau như âm và dương, có và không. Trước khi đi vào chủ đề, tôi cũng nhấn mạnh và nhắc lại  tính chất bất định  và vô lượng nghĩa của phật pháp : nền tảng là giúp ta tiến triễn trên đường Đạo nhưng cái mà ta cho là chân lý có thể khác nhau tùy theo mỗi người, và ngay cả một con người cũng thay đối cái nhìn qua thời gian qua quá trình tu tập. Chúng ta chỉ là những người mù sờ voi cho đến khi nào mở mắt (giác ngộ) thì mới thấy Chân Lý toàn vẹn.

Cốt lõi của kinh kim cangtâm bình đẵng. Bình đẵng giữa con người với con người, bình đẵng giữa con ngườichúng sinh khác, bình đẵng giữa chúng sinh và chư Phật. Bình đẵng là vì đồng nhất về thể tánh dù rằng khác nhau về tướng trạng và nghiệp thức. Nhưng thực hiện được tâm bình đẵng là thể hiện được tánh không.Nhưng không thể nào hiểu tánh không nếu cứ bám víu vào những cái có ; bám vào những gì gọi là sở đắc dù là vật chất hay tâm linh. Khi nhìn về tánh không nào là tánh không duyên khởi hay chân không diệu hữu vv..thì cũng khó mà sống được tinh thần tánh không. Có thể giản dị hơn khi nói rằng tánh không nói lên cái không nắm bắt được, cái vô sở hữu của mọi pháp từ vật chất tới tâm linh, từ đó phát triễn tâm xả bỏ, thực hiện tinh thần ‘ưng vô sở trụ…Cốt lõi của kinh kim cang nằm ở sự hiểu tứ tướng (hay tứ kiến) : tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả.

Tướng ngã là tướng chấp ngã  ; do tướng chấp ngã nên sản sinh ra chấp nhân tức là người khác, sinh ra chấp chúng sinhtượng trưng cho những không gian ; bị ràng buộc vào một không gian nào đó ;  sinh ra chấp thọ giả là tượng trưng cho thời gian bị ràng buộc trong một thời hạn nhất định. Nói tóm lại vì cái nhân chấp ngã mà sinh ra các quả ; quả chấp ngãý thức phân biệt ta - người và nói rộng ra là ý thức nhị nguyên nhìn nhận những xấu tốt, thiện ác, lợi hại vv…, quả chúng sinhý thức biện biệt này cột chặc và giới hạn vào những không gian của lục đạo luân hồi (25 cảnh giới ), quả thọ giả là quả tượng trưng cho thời gian tức là cũng bị cột chặc vào thời gian mà không thoát được dù ngay cả sinh ra trong cõi trời đời sống có thể tới hàng vạn năm hoặc trong thoáng chốc như vài loài sinh vật…

Như vậy từ sự chấp ngãý thức phân biệt dẫn ta đi lòng vòng hết kiếp này tới kiếp khác, sinh tử tiếp nối.

Cốt lõi của duy thức nhằm ở sự khẵng định ở nơi 8 thức tâm vương ( và cũng có thể hiểu rộng ra là ở mọi tâm thức dù là tâm sở…) được cấu thành do 4 yếu tố : kiến phần, tướng phần, tự chứng phần, chứng tự chứng phần. Kiến phần hay gọi là chủ thể hay gọi là năng. Tướng phần hay gọi là đối tượng hay gọi là sở. Tự chứng phầnchứng tự chứng phầnnghiệp thức và chia ra biệt nghiệp ( cái nghiệp riêng) và cộng nghiệp ( cái nghiệp chung của loài đó hay của nhóm đó). Tám thức tâm vương là nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt, thân , ý, mạt na thức, a lại da thức ( còn gọi là tàng thức).Thí dụ như nhãn thức hình thành qua căn mắt tiềp xúc với sắc trần nhưng vẫn nằm trong vòng kiềm toả của nghiệp chẵng hạn cộng nghiệp là nghiệp loài người ( nhãn thức hình thành giới hạnmột độ xa gần , sáng tối, hay đối tượng sắc của loài người…)  và biệt nghiệp là nghiệp riêng của người đó ( mỗi cá nhânnhãn thức khác nhau nhưng cũng không vượt qua được cái khả năng cuả cộng nghiệp) Trong kinh có diễn tả mắt con người thấy sông là nước trong khi loài ngạ quỷ thấy sông là lửa trong khi loài trời thấy sông là lưu ly, là ngọc quý…Cũng vậy nhĩ thức ở cộng nghiệp loài người, căn nhĩ sẽ chỉ nghe được những âm thanh ở những tần số và décibel nhất địnhbiệt nghiệp là những khả năng riêng cho cá nhân đó. Ở đây tôi cũng nhấn mạnh là nghiệp tác đông không phải chỉ đơn thuầnvật lý mà là toàn bộ tâm thức. Cũng vì vậy mà có người thích loài hoa này trong khi người khác thích loài hoa khác. Sự cảm nhận về chân, thiện, mỹ trong biêt nghiệp đưa đến những cái nhìn khác nhau, những quan niệm khác nhau.Và những thức tâm vương khác cũng như vậy.Đó là cái cộng nghiệp riêng của từng loài và biệt nghiệp riêng của từng cá nhân.               

Cũng cùng một cái nhìn như vậy, trong đại thừa khởi tín luận,ngài Mã Minh đã nói về tam tế : năng, sở, nghiệp…năng tương ưng với kiến phần, sở tương ưng với tướng phần, nghiệp tương ưng với chứng phầnchứng tự chứng phần. Nghiệp mà Mã Minh nói tới được  chia chẻ  thành biệt nghiệp và cộng nghiệp trong duy thức. Trong cái biệt nghiệp còn chia chẻ thành chánh báoy báo. Chánh báo chính là cái thân và tâm của chính mình còn y báo là cái môi trường mà mình sống trong đó. Cộng nghiệp thì cũng có thể nhìn qua nhiều mức độ chẵng hạn cộng nghiệp là loài người ; cộng nghiệp là người VN ; cộng nghiệp là dân chúng cùng sống ở một thành phố nào đó và từ đó tương ưng những biệt nghiệp khác nhau.                                                                                                        

    Khi nói về thập bát giới ; 6 căn ( nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý) tiếp xúc với 6 trần ( sắc, thanh hương, vị, xúc, pháp)  qua 6 thức ( nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức) thì 6 thức này hình thành do cộng nghiệp và biệt nghiệp. Và rồi tất cả những gì xảy ra trong cuộc đời này đều không ra khỏi ‘thập bát giới’ này. Nên hiểu chữ giới trong thập bát giới là cái giới hạn mà ta không thoát ra được khi chưa giác ngộ, khi chưa giải thoát                                                                                                                                                                                                                                                                              

Kinh kim cang là tiền đề để đi vào tánh không : gọi là tìền đề vì bước đầu kinh kim cang bắt đầu bằng thể hiện tánh huyễn ; cái vô thường thoáng chốc ( sát na vô thường) như trong câu : nhất thiết hữu vi pháp, như mộng,huyễn,bào, ảnh ; như lộ diệc như điện ; ưng tác như thị quán ( các pháp hữu vi như mộng,như huyễn,như bọt nước,như sương mai,như điện chớp ; cần phải quán như vậy.). Nhưng trong cái sát na vô thường đó thì luôn luôn có mặt cái thường hằng bất biến là chủ thể. Thường, lạc, ngã, tịnh trong kinh đại bát niết bàn nói lên những tính chất của tính chân như đó.  King kim cang cũng có nói nhiều về tính giả danh theo công thức như cái đó không phải là cái đó nên gọi là cái đó…núi không phải là núi nên gọi là núi vv... Đó là tiến trình : có-không-không-có.                                                                                                       Duy thức thể hiện tánh có, tùng tướng nhập tánh là theo cái tướng mà đi vào cái tánh. Duy thức phân tích những trạng thái của tâm, chỉ rõ những nguyên nhânđiều kiện của sự hình thành và tiêu diệt của từng trạng thái tâm thức. Kim cang hòa nhập với duy thức thể hiện tinh thần vừa là ‘tánh không duyên khởi ‘  vừa là ‘ chân không diệu hữu ‘ Cái diệu hữu cuả duy thức hình thành từ 94 tâm hữu vi đi tới  6  tâm pháp vô vi. Rồi thì nhờ sự tu tập bằng cách tác động trên những chủng tử để chuyển hoá thì từ từ  các thức tâm vương chuyển ra thuần tịnh và từ đó chuyển hoá thành trí. Tiền ngũ thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức) chuyển ra ‘ thành sở tác trí’ . Ý thức chuyển thành ‘diệu quan sát trí. Mạt na thức chuyển thành ‘bình đẵng tánh trí (tâm chấp ngã trở thành vô ngã) A lại da thức chuyển thành ‘đại viên cảnh trí ‘ . Có thể nói tứ trí này là ‘diệu hữu ‘ cuả ‘không’.                                                                                                                                                                                           

Trên đây là vài cái nhìn riêng về cốt lõi của kinh kim cangduy thức. Mong rằng các đạo hữu tự đào sâu và soi rọi theo tinh thần ‘tự đốt đuốc lên mà đi ‘.           
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
06 Tháng Giêng 2015(Xem: 6511)
Trong Tam tạng giáo điển nhà Phật, giới luật có vai trò rất quan trọng, được xếp thành một tạng riêng, tạng Luật. Trong nội dung tu tập của hàng đệ tử Phật, dù tu theo bất cứ pháp môn nào, cả xuất gia lẫn tại gia, đều phải thành tựu giới; nhân giới mà sanh định, nhân định mà phát tuệ.
03 Tháng Giêng 2015(Xem: 8621)
Xưa, Đức Thế Tôn dạy các đệ tử: “Chớ ngủ hai đêm, dưới cùng một gốc cây”. Lời dạy, thoạt nghe có vẻ ngộ nghĩnh, gần như chẳng quan trọng gì, nhưng khi được Thầy chỉ rõ hơn, đệ tử mới biết rằng, một lời, dù đơn sơ, từ kim khẩu Đức Thế Tôn, đều là một bài pháp.
03 Tháng Giêng 2015(Xem: 7367)
Lịch sử là một vở kịch mà trong đó các diễn viên luôn thay đổi và trình diễn không ngừng. Trên sân khấu đó, cái nhìn của người thưởng ngoạn- cũng là diễn viên- được nhận diện khác biệt giữa Tây phương và Đông phương.
30 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 8284)
Đi chùa, dâng hương, lễ Phật là một trong những pháp tu căn bản của hàng Phật tử tại gia. Hàng xuất gia cũng nhờ lễ Phật mà nghiệp chướng tiêu trừ, công đức tăng trưởng, thành tựu đạo nghiệp.
21 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 5925)
Tuổi tác rất quan trọng nhưng phẩm hạnh còn quan trọng hơn rất nhiều đối với nhân cách của một người. Nhất là trong nhà đạo thì phẩm hạnh đặc biệt được xem trọng. Chính phẩm hạnh và tuệ giác đã tạo nên tính cách trưởng lão chứ không phải là tuổi tác. Thế Tôn đã xác quyết điều này như tinh thần pháp thoại dưới đây:
17 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 6819)
Cuộc đời này có vui không? Có, nhưng vui thì ít mà khổ thì nhiều, vui rất khó tìm mà lại dễ mất, vui không bao giờ là quà tặng cho số đông. Nhờ có chút niềm vui trong năm dục mà an ủi phận người, tiếp thêm nghị lực và sức sống cho con người. Tuy có vui nhưng Đức Phật dạy niềm vui ấy thật mong manh,
07 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 6862)
Chúng ta đều biết, người ta sống ở đời mỗi người đều có một thế mạnh, sở trường và sở đoản khác nhau. Biết khai thác và phát huy thế mạnh đồng thời biết khắc phục và tránh né những thế yếu của mình là nền tảng của mọi thành công.
04 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 7889)
Người tu tuy mang hạnh nguyện “xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo”, nhưng sau nhiều năm tu học nhờ công đức làm lợi mình lợi người nên phước báo ngày càng lớn lên. Phước báo có công năng diệu kỳ, dù người tu không vọng cầu nhưng tứ sự (thực phẩm, y phục, thuốc men, sàng tòa) luôn đầy đủ, sung mãn. Và cũng từ đây, lợi dưỡng cùng cung kính bắt đầu đoanh vây đời sống xuất gia.
03 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 7391)
Vì sao người tu phải tránh “những điều luận bàn của thế tục”? Thực ra luận bàn để trau dồi và nâng cao tri thức thế gian cũng rất tốt, cần thiết cho cuộc sống nhưng nó không dẫn người tu đến các pháp lành, không đi đến Phạm hạnh, không đến được chỗ tịch diệt. Đây là chỗ người tu hướng đến giải thoát, Niết-bàn cần hết sức lưu tâm. Người tu thì nên nói chuyện tu, không nói chuyện đời mà chỉ “bàn luận về mười việc công đức”, chính là lời căn dặn của Thế Tôn.
23 Tháng Mười Một 2014(Xem: 7462)
Sự tu tập trong Phật giáo, cốt tủy vẫn là “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Nghĩa là tự lực và tha lực luôn tương tác, hỗ trợ nhau trong tu tập nhưng tự lực vẫn là chính, trọng tâm của việc thực hành giáo pháp. Người tu muốn thành công phải theo thứ lớp, tuần tự từ thấp lên cao. Trước phải có lòng tin, không rời kinh điển rồi sau mới tự mình thân chứng và đến nơi các Thánh quả.