Phật Dạy Khổ Vui Trong Đời Sống Ngũ Dục

31 Tháng Mười Hai 201408:33(Xem: 6913)

PHẬT DẠY KHỔ VUI TRONG ĐỜI SỐNG NGŨ DỤC
Thích Đạt Ma Phổ Giác


blank
Ngũ dục là 5 sự ham muốn của một chúng sinh, thích được thỏa mãn đầy đủ năm trần cảnh nên cũng gọi là ngũ trần.

1- Tài dục: Ham muốn tiền bạc của cải, vàng ngọc, tài sản vật chất.
2- Sắc dục: đắm say đam mê sắc đẹp mỹ miều.
3- Danh dục: Tham muốn địa vị, quyền cao chức trọng, danh thơm tiếng tốt.
4- Thực dục: Tham muốn ăn uống cao lương mỹ vị ngon nhiều.
5- Thùy dục: Tham muốn ngủ nghỉ nhiều.

Sắc dục: Ham muốn sắc đẹp, ưa thích tướng tốt. Thinh dục: Ham muốn tiếng hay, dịu ngọt….Hương dục: Ham muốn mùi thơm ngạt ngào….Vị dục: Ham muốn đồ ăn thức uống ngon ngọt…Xúc dục: Ham muốn sự đụng chạm êm ái, dễ chịu….

Người đắm say đam mê theo ngũ dục quá đáng, giống như con chó gặm khúc xương khô, như kẻ cầm lửa đi ngược gió, như ngậm máu phun người dơ miệng mình, như chứa rắn độc trong nhà, hưởng thụ ngũ dục không có chừng mực, điều độ sẽ làm khổ não chúng ta trong hiện tại và mai sau.

Trong Kinh Di GIÁO đức Phật dạy: Tỳ Kheo các ông! Đã có thể an trụ trong giới rồi, phải biết kiềm chế ngũ căn chẳng để buông lung theo ngũ dục. Thí như người chăn trâu, cầm roi nhìn nó, chẳng cho phạm vào lúa mạ người, nếu chúng ta để ngũ căn tức mắt tai mũi lưỡi thân…chạy theo ngũ dục… sẽ gây tai hại rất nặng, cũng như ngựa chứng chẳng dùng dây cương chế ngự, chính nó sẽ đưa ta sa vào hầm hố, chông gai…

Ngũ dục lạc là năm đối tượng con người thường tiếp xúc, được Đức Phật nói đến trong rất nhiều bản kinh. Đức Phật thường nhắc nhở các hàng đệ tử, phải có thái độ thận trọng đối với ngũ dục, Ngài không khuyến khích lìa bỏ ngũ dục một cách thái quá, để sống đời sống khổ hạnh ép xác, vì hai lối sống cực đoan ấy đều không đưa đến an lạc, hạnh phúc trong hiện tại và mai sau.
 
Thế gian ai cũng muốn mưu cầu hạnh phúc để hưởng thụ ngũ dục lạc gồm có tiền tài, sắc đẹp, danh vọng địa vị, ăn uống thoải mái và ngủ nghỉ tự do, tùy theo phước báo của mỗi người mà có sự sung mãn hay nghèo nàn trong hưởng thụ. Hưởng thụ ngũ dục như là nhu cầu cần thiết của đời sống con người và ai cũng nghĩ rằng đó là điều kiện mang lại hạnh phúc.
 
Đức Phật thường nhắc nhở tất cả mọi người phải biết sự tác hại của ngũ dục, không nên tham cầu quá đáng. Tiền bạc hay của cải vật chất là phương tiện để nuôi sống chúng ta tồn tại, nhưng nó do ta làm ra chính vì vậy khi ăn uống, ta phải quan niệm ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn. Rồi kế đến là ngủ nghỉ nó cũng là nhu cầu cần thiết, nếu chúng ta chỉ đam mê ham làm giàu để hưởng thụ dục lạc về sắc đẹp thì sức khỏe sẽ bị tàn phá nhanh chóng và tuổi thọ suy giảm.
 
Đức Phật khuyến khích mọi người hãy nên giảm bớt ham muốn quá đáng, tham cầu trong khả năng của mình, biết tiết độ trong mọi nhu cầu để có sự an lạc thảnh thơi, mà không bị những lo lắng, thất vọng, sợ hãi…làm mình phiền não khổ đau.
 
Tâm mong cầu, tham muốn các dục là động lực thúc đẩy con người tích cực làm việc để có đời sống ổn định. Vì thế sự tham muốn, mong cầu về các dục khiến cho con người khổ não nhiều hơn là an vui.
 
Khi chúng ta tham muốn điều gì cũng mang đến niềm vui, hạnh phúc cho chính mình, chẳng hạn như ta cảm thấy thích thú khi ăn ngon mặc đẹp; sung sướng khi ở nhà cao cửa rộng; thoải mái khi đầy đủ các tiện nghi; vui vẻ hạnh phúc khi có vợ đẹp con xinh, và được quyền cao chức trọng, có nhiều tiền của, kẻ hầu, người hạ v.v…
 
Đức Phật chỉ khuyên nhủ chúng ta hãy nên muốn ít biết đủ, có nghĩa là chúng ta biết tiết chế, biết điều hòa để có được sự thảnh thơi an lạc, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Và tránh được những hệ lụy khỗ đau, trong lo lắng, sợ hãi, thất vọng…do tham muốn quá độ.
 
Tiền bạc của cải là phương tiện trao đổi để sử dụng hữu ích trong mối quan hệ của đời sống như ăn uống, ngủ nghỉ là nhu cầu cần thiết của con người. Về cơ bản, con người là chúng sinh cõi dục, do dục mà được sinh ra và hiện hữu, con người cần có các nhu cầu ăn, mặc, ở, bệnh, nghỉ ngơi, giải trí, hoạt động đi lại, giao tiếp và thưởng thức các cảm xúc khoái lạc giác quan v.v…Con người không thể sống mà không ăn uống, ngủ nghỉ, vui chơi giải trí, thư giãn sau khi làm việc.
 
Tài sản của cải vật chất vốn là huyết mạch để bảo tồn sự sống cho tất cả mọi người. Mạch nhảy, máu lưu thông chạy khắp cơ thể nên con người mới sống và tồn tại. Tài là khả năng con người có được nhờ học hỏi, nghiên cứu, tìm tòi, luyện tập và biết vận dụng phát huy vào trong đời sống để mưu cầu hạnh phúc.
 
Ở đời ai cũng có tài dù nhiều hay ít tùy theo khả năng mỗi người. Từ tài năng đó con người làm ra đồng tiền để nuôi sống bản thân, gia đình và góp phần xây dựng an vui, hạnh phúc cho xã hội. Tài sản nói chung bao gồm tất cả phương tiện vật chất liên quan đến đời sống con người, trong đó có vàng, bạc, tiền, nhà cửa và ruộng đất.
 
Ngày xưa, khi con người chưa biết xài tiền nên chỉ trao đổi hàng hóa bằng các phương tiện vật chất để đáp ứng nhu cầu sinh sống. Sau này con người văn minh, tiến bộ nên chế ra tiền để làm phương tiện cân bằng giá trị vật chất, tiền là đầu mối quan trọng làm con người đam mê phát huy tài năng để có được nhiều tiền.
 
Mặt phải, trái của sự giàu có
 
Ai cũng có ước mơ mình sau này trở nên giàu có, trừ những người đã đang sống trong những gia đình khá giả. Và ai cũng có thể ước mơ mình có khối tài sản khổng lồ, nhưng căn biệt thự với sân vườn đẹp mắt, có hồ bơi, các loại xe sang, máy may riêng để thỏa mãn những gì mình mong muốn.

Vậy, điều gì đã xảy ra với những người đã đạt được những gì họ tham vọng và mong muốn.
Tiền có thể mang lại những đổi thay trong cuộc sống, theo hai hướng tích cực và tiêu cực. Một gia đình khi làm ăn được lợi nhuận càng nhiều thì tham vọng càng lớn “ thuyền to sóng lớn”. Tuy nhiên có nhiều người rất ham thích tiền, mê tiền đến nỗi lãng quên trách nhiệm đối với gia đình, người thân.

Người có nhiều tiền của chỉ mang lại sự thoải mái về các phương diện vật chất, nhưng rất lo lắng và sợ hãi, cho nên họ hay tìm kiếm các thầy tướng số để chỉ bày cách gìn giữ của cải. Họ không biết rằng, hiện tại giàu có là do biết gieo trồng phước báo nhiều đời, nên ngày nay mới có được như vậy.

Sự thoải mái về vật chất đủ đầy, không tạo nên hạnh phúc hay sự mãn nguyện thậm chí có thể làm cho chúng ta rất nhiều kẻ ganh ghét, tật đố muốn hãm hại vì quy luật cạnh tranh để tồn tại. Sống thoải mái về mọi phương diện vật chất là điều tốt, nhưng cảm nhận được bình yên, hạnh phúc mới là lý tưởng sống lâu dài.

Sự giàu có cũng làm lộ ra bản chất của con người, nếu chúng ta là một người hiểm độc, việc trở nên giàu có sẽ khiến người đó trở nên mưu ma chước quỷ hơn. Ngược lại, nếu chúng ta là người nhân từ đức độ thì việc giàu có đó, sẽ đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội.

Sự giàu có cũng làm ảnh hưởng đến mối quan hệ với gia đình, bè bạn và xã hội. Một số người sẽ trông đợi sự giúp đỡ của chúng ta để được hưởng lợi ích, và ta cũng nên suy nghĩ những người này có quý mến mình thật sự không? “Hay họ chỉ đến vì tiền".

Phần lớn mọi người đều cho rằng sự giàu có mang lại nhiều lợi ích thiết thực hơn cho gia đình họ. Tuy nhiên có nhiều tiền vẫn tốt hơn, khi chúng ta bệnh tật phải cần có một số tiền lớn để giải phẫu, nhờ vậy có thể thoát được chết chóc đau thương. Có tiền để giúp đỡ gia đình người thân và rộng hơn nữa là để đóng góp lợi ích cho xã hội khi cần thiết.

Sự thoải mái trong đời sống vật chất với đầy đủ tiện nghi, không thể đem đến hạnh phúc thật sự hay sự mãn nguyện lâu dài, bởi vì lòng tham lam của con người như giếng sâu không đáy, nó sẽ làm cho ta bất an lo lắng và sợ bị hao hụt, mất mát.

Khi chúng ta đã quen với nếp sống cao sang quyền quý, mọi nhu cầu đều có người phục dịch, sẽ làm cho cái ngã của ta lớn thêm, bởi ta nghĩ rằng mình là trung tâm của vũ trụ, là thầy thiên hạ, là ta, là của ta….,nên ta càng cống cao ngã mạn chẳng coi ai ra gì.
Nếu ta biết sữ dụng đồng tiền đúng chỗ thì sẽ đem lại lợi lạc cho chính mình, gia đình người thân và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hôi. Chính vì thế, tiền là huyết mạch của sự sống để mọi người phấn đấu gầy dựng bằng tài năng của chính mình, qua sự làm việc đóng góp.
 
Có nhiều người nghĩ có tiền là hạnh phúc, thật ra tiền chỉ đem lại sự sung mãn về vật chất, nó không phải là yếu tố chính trong hạnh phúc. Tiền là vật vô tri do con người tạo ra, nhiều người không hiểu nên bị đồng tiền sai sử, chi phối mà làm những điều xấu ác.
 
Do nhu cầu sự sống, ai cũng cần phải có tiền để nuôi sống bản thân và gia đình, nhưng đồng tiền làm ra phải bằng mồ hôi, nước mắt của chính mình. Thật ra, ai cũng ước mơ đáng quý và trân trọng, lớn lên có một việc làm ổn định, có vợ hoặc chồng và có con để xây dựng hạnh phúc gia đình và góp phần an sinh đời sống cho xã hội.
 
Kinh Pháp Cú dạy:
 
            Dầu mưa bằng tiền vàng, 
            Các dục khó thỏa mãn.
            Dục đắng nhiều ngọt ít,
            Biết vậy là bậc Trí.
 
Phật còn đưa ra một ví dụ khác: “Người đam mê đắm say chạy theo ngũ dục quá đáng thì chẳng khác gì người khát nước mà uống nước muối, càng uống càng thêm khát.
 
Chính vì vậy, Phật dạy chúng ta phải biết muốn ít, biết đủ để ngăn ngừa lòng tham lam của mình, khi nào chúng ta cảm thấy đủ thì sẽ an ổn, nhẹ nhàng. Nên Kinh dạy: “Ái dục là cội gốc của luân hồi sinh tử”. Hầu như tất cả những nỗi khổ niềm đau, tội ác trên thế gian này đều do ái dục và lòng tham muốn quá độ mà ra.
 
Một đời sống có ý nghĩa và giá trị, là một đời sống không quá lệ thuộc vào phương tiện vật chất, nhưng không thể không có tiền bạc và tài sản, vì nó là phương tiện để nuôi sống chúng ta. Để đảm bảo một đời sống tốt đẹp, hài hòa, Phật dạy người cư sĩ có quyền làm ra tiền bạc, của cải một cách chính đáng; nghĩa là từ sự tinh cần, siêng năng bằng đôi bàn tay và khối óc của mình để tạo dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho bản thân, gia đình, người thân và đóng góp lợi ích thiết thực xã hội.
 
Tuy nhiên, sự giàu có về vật chất chỉ đáp ứng nhu cầu đầy đủ sự sung túc cho con người, hạnh phúc thật sự trong cuộc sống không phải là người có nhiều tài sản, tiền bạc, quyền uy, thế lực, nhà cao cửa rộng, mà chính là tự do không bị ràng buộc bởi tham lam, sân hận, và si mê. Đó là một thứ hạnh phúc chân thật lâu dài, dù chúng ta có nhiều tiền bạc vẫn không thể mua bán, đổi chát được.
 
Do đó, ngoài việc có nhiều tiền bạc, của cải để có cơ hội phục vụ tốt cho gia đình, đóng góp cho đời, chúng ta cần phải thăng hoa đời sống tinh thần, phát huy con người tâm linh, nên thường sống trong chánh niệm tỉnh giác, mở rộng tấm lòng từ bi thương xót muôn loài bằng tình người trong cuộc sống.
 
Nhờ vậy chúng ta biết vun bồi xây dựng tài sản tâm linh, nên các tâm tư mê muội không có cơ hội xen vào như toan tính, hơn thua, tranh chấp, hận thù, tàn sát giết hại lẫn nhau, làm tổn thương nhân loại.
 
Tiền bạc, của cải có thể giúp ta giải quyết nhiều thứ trong cuộc đời, nên trước tiên ai muốn bảo tồn sự sống là cần phải có tiền. Nhưng tiền bạc, của cải khi có thì ta phải biết sử dụng như thế nào cho hợp lý? Một người công dân muốn sống an vui, hạnh phúc thì phải biết sử dụng bốn yếu tố căn bản sau đây:
 
Có công ăn việc làm ổn định nuôi sống bản thân và luôn thường xuyên trau dồi công việc nghề nghiệp được tốt đẹp. Tiền bạc làm ra bằng nghề nghiệp chân chính và phải biết cách gìn giữ không để thất thoát. Phải biết chi tiêu cân đối, hài hòa, không nên hoang phí quá mức, tiền làm ra ít mà muốn xài nhiều; hoặc tiền bạc làm ra nhiều mà không dám xài vào việc có lợi ích, thành ra bỏn sẻn.
 
Tiền bạc và tài sản là phương tiện để con người sinh sống, phục vụ cho cá nhân có nhu cầu ăn, mặc, ở hằng ngày. Muốn vậy, trước hết ta phải có một việc làm ổn định về lâu về dài, nhưng nghề nghiệp mình chọn không làm tổn hại cho nhân loại. Các nghề nên tránh như mua bán vũ khí, nô lệ, phụ nữ; các chất gây say, gây nghiện như rượu, xì ke, ma túy; chế tạo thuốc độc hoặc trực tiếp sát sinh hại vật bằng nhiều hình thức…
 
Có nhiều người vì sĩ diện bản ngã muốn chứng tỏ đẳng cấp giàu sang bằng người hoặc hơn người, nên đã vay nợ xây dựng nhà cửa khang trang dù nhu cầu không cần thiết, do đó lún sâu vào nợ nần, dẫn đến tán gia bại sản bởi họ không biết bằng lòng với hiện tại.
 
Đa số chúng ta ai cũng nghĩ có thật nhiều tiền bạc và của cải là hạnh phúc, đó là điều lầm lẫn quá lớn của nhân loại, nên khi có quyền lực trong tay thì tìm cách vơ vét, gom góp về cho riêng mình, nhưng tiền bạc làm ra từ sự phi pháp đó rất khó mà tồn tại lâu dài.
 
Khi có nhiều tiền thì phải hưởng thụ, vui chơi trác táng, dễ dẫn đến sa đọa làm mình và người khổ đau, làm mất hạnh phúc gia đình và tác hại xấu đến xã hội. Tiền làm ra không bằng mồ hôi, nước mắt của chính mình thường bị năm nhà cuốn trôi. Nhà lũ lụt, nhà hỏa hoạn, nhà trộm cướp, nhà vua quan tịch thâu, nhà con cái bất hiếu, phá sản và các tai nạn bất ngờ khác.
 
Chính vì để thỏa mãn lòng tham dục thì con người phải lao đầu vào gian khổ để tranh giành được mất, hơn thua mà tạo thêm nghiệp si mê không có ngày thôi dứt. Ví dụ, như trước đây chung ta có một chiếc xe máy, rồi chúng ta ước mơ muốn có xe hơi, khi được xe hơi rồi lại muốn xe siêu sang hiện đại. Con người ta sẽ khó dừng lại khi mình không chịu bằng lòng với hiện tại, vì lòng tham con người như giếng sâu không đáy.
 
Nói như vậy, không phải để chúng ta bi quan mà không chịu cố gắng siêng năng làm ăn nữa. Chúng ta vẫn làm việc phục vụ, nhưng bằng cả khối óc và con tim, bằng mồ hôi xương máu của mình, để không làm tổn hại người khác.
 
Hơn nữa, tiền của tuy cần thiết cho cuộc sống nhưng đâu phải lúc nào nó cũng mang lại hạnh phúc và an lạc cho chúng ta đâu? Thực tế cho thấy, có những gia đình lúc còn nghèo khó thì mọi người sống rất hoà thuận, vui vẻ với nhau, nhưng đến khi giàu có rồi thì tình cảm vợ chồng, con cái, anh em lại bị sức mẻ và đổ vỡ, bởi lòng tham quá độ.
 
Vì lòng tham lam quá đáng mà con người ta có thể nhẫn tâm làm tổn hại người khác, để có tiền nhanh chóng. Một số người đã tán tận lương tâm làm ăn phi pháp như mua bán vũ khí, mua bán phụ nữ, mua bán xì ke, ma túy vì lợi nhuận quá cao, tạo ra nhiều băng nhóm tội phạm gây hiểm họa cho loài người, dẫn đến sự thiệt hại lớn lao của nhân loại, về mặt vật chất lẫn tinh thần.
 
Người Phật tử chân chính vì lòng từ bi thương xót chúng sinh nên không được kinh doanh, mua bán các loại chết người đó. Tiền bạc tài sản nếu sử dụng không đúng mục đích thì trở thành rắn độc, nhưng thiếu nó lấy gì để chúng ta sinh sống mà dấn thân phục vụ, hoằng pháp lợi sinh.
 
Mục đích của cuộc sống không phải là giàu có, nhiều tiền của mới là hạnh phúc, mà chúng ta phải biết bằng lòng với những gì đang có trong hiện tại, không nên đua đòi bắt chước làm bằng người, khi ta không có khả năng và điều kiện.
 
Tiền bạc chính là người đầy tớ tốt khi ta biết làm chủ đồng tiền, sử dụng vào việc chi tiêu hằng ngày tùy theo hoàn cảnh của mỗi cá nhân và gia đình. Sức mạnh của đồng tiền thật ghê gớm, nó có thể làm cho con người say mê, điên đảo bất chấp mọi thủ đoạn.
 
Người có tiền nếu biết sử dụng đúng cách vẫn đỡ hơn người không có tiền, như khi có bệnh hoặc giải quyết một số vấn đề cấp thiết. Người có tiền có bệnh không, có già không, có chết không? Nếu có thì phải có khổ. Tuy nhiên, người có tiền, có phước vẫn đỡ hơn người nghèo khó, bất hạnh ở chỗ sung túc, đầy đủ về vật chất.
 
Người tham muốn quá đáng dù tiền kho bạc đống, nhà ngang dãy dọc, đất ruộng cò bay thẳng cánh, cũng chưa cho là vừa, mà vẫn còn mong muốn được nhiều hơn nữa. 
 
Do đó, người giàu hay kẻ nghèo đều phải biết tu tâm dưỡng tánh thì sẽ chuyển hóa được bất hạnh, khổ đau trở thành an vui, hạnh phúc, ngay tại đây và bây giờ. Tiền bạc nói cho cùng, cũng chỉ là phương tiện để trao đổi hài hòa các nhu cầu cần thiết trong xã hội. Nếu ta không biết dùng tiền đúng chỗ, đúng nơi, hoang phí một cách vô bổ để phục vụ cho cá nhân và cộng đồng xã hội thì tiền bạc đó trở thành vô nghĩa.
 
Chính vì thế, đồng tiền làm ra phải chân chính, nếu không thì vô cửa trước lòn cửa sau hoặc có mà không đóng góp vào việc lợi ích cho mọi người, thì ta sẽ trở thành kẻ tham lam bỏn sẻn, keo kiết.
 
Chúng ta có thể sống an lạc, hạnh phúc khi biết đủ và sẵn sàng làm lợi ích cho nhiều người. Ông bà chúng ta cũng thường dạy hãy nên gieo nhân tốt giúp người cứu vật, để lại phước đức cho con cháu sau này: 
 
            “Bởi chưng kiếp trước khéo tu,
            Ngày nay con cháu võng dù thênh thang.”

Kế đến là sắc đẹp: Sắc là các màu sắc, hình dáng mà mắt tiếp xúc nhìn thấy mọi hình ảnh sự vật rồi sinh tâm phân biệt đẹp xấu, từ đó muốn chiếm hữu, nhất là lòng ham muốn về nam sắc, nữ sắc là đầu mối dẫn chúng sinh luân hồi trong sinh tử trong vô số kiếp.

Từ ngàn xưa cho đến nay tình ái vẫn là thứ dễ làm cho con người mù quáng và si mê nhất, nên dễ dàng gây ra nhiều tội lỗi, do đó, rất nhiều câu chuyện thương tâm xảy ra làm đau lòng nhân thế. Cảnh nhồi da xáo thịt làm mất đi nhân cách của một con người, con giết cha, mẹ giết con, vợ giết chồng rồi kẻ tình địch giết hại lẫn nhau vì ghen tuông vô cớ. Con người càng ngày làm mất đi giá trị đạo đức do không tin sâu nhân quả, nên dễ dàng gây ra nhiều tội lỗi và làm khổ đau cho nhau.

     Ai cũng có thể biết tình yêu đưa đến hôn nhân nhằm phát triển giống nòi nhân loại và bảo vệ truyền thống gia tộc, nhưng lại là đầu mối của nhiều hệ lụy khổ đau, bởi sự yêu thương trong ích kỷ của riêng mình. Khi mới yêu, ai cũng cố gắng che dấu khiếm khuyết của mình để được người tình yêu mến, khi đã lấy nhau rồi thói quen xấu mới lòi ra, nhà Phật gọi là tập khí.

     Tập khí tức những thói quen từ những suy nghĩ rồi hành động, được huân tập lập đi lập lại nhiều lần. Bởi vì huân tập lâu ngày cho nên nó có sức mạnh chi phối, sai sử chúng ta dù biết đó là tác hại, như người đam mê sắc dục ham của lạ, có thể làm tan vỡ hạnh phúc gia đình mình hoặc người khác, nhất là những người giàu sang và có địa vị trong xã hội.         

     Thật ra tình dục không phải là chuyện xấu, nó luôn gắn liền với con người từ vô thủy kiếp đến nay. Đã là chúng sinh thì phải ăn, phải ngủ, phải làm việc và thụ hưởng các cảm giác khoái lạc giác quan.

     Con người là một sinh vật cao cấp, hơn hẳn các loài khác về mọi phương diện, nếu biết suy nghĩ, nói năng và hành động hướng thiện bằng trái tim yêu thương và hiểu biết, thì sẽ giúp ích cho nhân loại sống an vui, hạnh phúc.

     Ngược lại vì tình cảm riêng tư muốn chiếm hữu trong sự ganh ghét, ích kỹ sẽ gây khổ đau cho nhau. Chính vì thế, mà loài người luôn đứng ở vị trí cao quý vì biết cách làm chủ bản thân, nếu vì lòng tham cho riêng mình thì cùng hung cực ác, nếu vì lợi ích chung cho nhân loại thì không có loài nào sánh bằng.   

     Thế gian là một trường đời hỗn hợp, ai biết tu nhân tích đức thì sống an vui hạnh phúc, ai không biết thì cam chịu khổ đau trong si mê sa đoạ. Hạnh phúc hay khổ đau đều do mình tạo lấy, không ai có quyền ban phước giáng họa, mà chính mình là chủ nhân ông của bao điều họa phúc, được gây ra từ thân, miệng, ý, của mỗi người.

     Phật dạy người cư sĩ tại gia có quyền lấy vợ lấy chồng, nhưng phải thủy chung một chồng một vợ, không được dan díu và quan hệ bất chính với vợ chồng người khác. Ngoại tình là nguyên nhân dẫn đến ghen tuông vô cớ và phá hoại hạnh phúc gia đình người khác.
     Trong tình yêu ghen tuông luôn gắn liền với ích kỷ và nó là trạng thái tâm lý không thể tách rời nhau, có yêu thương là có ghen ghét. Bao nhiêu vụ án xảy ra làm đau lòng nhân thế với những cái chết thật đáng tiếc và vô lý làm sao, chỉ vì ghen tuông trong mù quáng. Bởi vì chúng ta yêu thương trong sự lợi dụng lẫn nhau, mà không có tình yêu thương chân thật, nên dẫn đến hẹp hòi, ích kỹ làm tan vỡ hạnh phúc gia đình.

Trong tình ái do bảo vệ cái ta ích kỹ hoặc ghen tuông vô cớ, dễ làm con người mù quáng gây nhiều đau khổ cho nhau. Tình yêu bản chất vốn không xấu xa tội lỗi, ai cũng muốn mình được an vui, hạnh phúc trong đời sống lứa đôi, nhưng vì chúng ta không có sự hy sinh và chia sẻ cho nhau, ta không biết bao dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ, vì sự tham lam ích kỷ của ta.

Sắc đẹp là điều ai cũng ưa thích và muốn chiếm hữu mãi mãi, không muốn rời xa. Người đời phần nhiều thường đua chen, giành giựt chạy theo sắc đẹp mà đôi khi quên cả chính mình.
 
Người tham muốn sắc đẹp, thì suốt đời giong ruổi đi tìm, thấy ai có nhan sắc xinh đẹp thì say mê đắm đuối chẳng muốn rời xa. Một khi đã thỏa mãn được dục vọng, thì lại ruồng bỏ người đẹp nầy để chạy theo người đẹp khác, khiến mình mất hết cả nhân cách. 
 
Một ví dụ: Khi tôi nhìn thấy một cô gái xinh đẹp, hình tướng thon thả, dáng điệu dễ nhìn. Người có trí huệ sẽ biết biết tư duy, nghiệm xét đam mê sắc đẹp sẽ làm tan nhà nát cửa. Gái đẹp thường ham giàu sang phú quý và khó chung thủy, nếu chúng ta muốn chiếm hữu thì phải hao tốn tiền của và mất mát nhiều thứ, còn làm cho mình hao tỗn tinh thần vì lo sợ người khác chiếm đoạt.
 
Người đẹp thường hay kiêu ngạo và chấp vào thân mình là thật có và lâu dài, nên lúc nào cũng trau chuốt làm đẹp, thậm chí phải tốn tiền thẩm mỹ để được mọi người ham thích khen ngợi. Các diễn viên điện ảnh, minh tinh màn bạc, người mẫu, hoa hậu khó bao giờ sống chung thủy một vợ, một chồng bởi vì họ quá chấp ngã, ai không cung phụng chiều chuộng đúng mức thì dễ dàng bị leo cây.
 
Chính vì vậy, ai đã sở hữu được thân hình bốc lửa và xinh đẹp thì hãy nhớ khéo tu tập, đến khi nhan sắc tàn phai sẽ rất khổ tâm, lúc này chẳng ai thèm quan tâm đến, sống cô đơn quạnh quẻ một mình mà đau khổ vô cùng vì tiếc nuối quá khứ, một thời oanh liệt nay giờ còn đâu.
 
Người quá xinh đẹp và người quá xấu cũng đều có một nỗi khổ riêng, đẹp quá nhiều người tìm đến tìm cách dụ dỗ, chiếm đoạt dẫn đến ghen tuông thù địch lẫn nhau. Người quá xấu không ai thèm dòm ngó đến, nên rất là mặc cảm tự ti sống trong tủi hờn và đau khổ.

Người tham muốn danh vọng, thì suốt đời giong ruổi theo quyền cao, chức trọng, danh thơm tiếng tốt. Họ bằng mọi thủ đoạn để lòn cúi hết chỗ này đến chỗ khác, cố mong được địa vị cao sang. Họ lao tâm, khổ trí, tìm đủ mọi cách để nắm giữ cho được cái danh vọng, hư ảo nhằm đạt được quyền lợi tối cao. 
 
Ngày xưa, con người cảm thấy bé nhỏ với bầu vũ trụ bao la này nên đa số đặt niềm tin vào một đấng tối cao có quyền ban phước, giáng họa. Từ đó, các ông vua phong kiến lợi dụng danh nghĩa mình là Thiên-tử thay trời trị vì thiên hạ.
 
Đất nước và con người đều thuộc quyền sở hữu của nhà vua. Tất cả mọi người đều phải trung thành tuyệt đối. Vua muốn phong quan tiến chức cho ai thì phong, muốn giết ai thì giết; kẻ dưới không có quyền khiếu nại, nếu vua bảo chết mà không chịu nghe gọi là bất trung; với một quyền lực như vậy, ông vua được hưởng tất cả mọi nhu cầu cần thiết theo sự kính trọng tột cùng của mọi người.
 
Làm vua quả thật không đơn giản tí nào, vì người đó vô số kiếp đã từng phục vụ và đóng góp cho nhân loại quá nhiều, nên ngày nay mới được hưởng phước làm vua. Quyền lực thời phong kiến xem ông vua là con trời, và cả đất nước con người thuộc quyền sở hữu của nhà vua.
 
Ở thời đại cổ xưa, con người rất tin tưởng vào đấng thần linh, thượng đế mà không dám chống trái vì sợ thần linh giận dữ, trừng phạt. Ngày nay, con người văn minh tiến bộ vượt bậc nên thấy chế độ phong kiến quân chủ độc tôn không còn phù hợp với thời kỳ khoa học hiện đại, do đó đã thay đổi cơ chế quyền lực thành dân chủ nhiều đảng để cùng cạnh tranh làm việc, phục vụ, đóng góp lợi ích cho xã hội, được dân bầu từng nhiệm kỳ một.
 
Nếu vị lãnh đạo nào có khả năng làm lợi ích cho đất nước nhiều thì được bầu thêm một nhiệm kỳ mới, nhưng tối đa chỉ hai nhiệm kỳ rồi nhường chỗ cho người khác, do đó tình trạng tham nhũng, lạm phát của công rất ít khi xảy ra.
 
Cơ chế dân chủ hay ở chỗ nếu mình nắm ghế quyền lực mà không đủ khả năng để giúp ích mọi người thì tự xin từ chức, hoặc nếu lạm dụng quyền hạn tham nhũng thì có ban hành pháp truy tố theo pháp luật hiện hành đem lại công bằng, lợi ích cho xã hội.
 
Lịch sử nhân loại với không biết bao triều đại đã lợi dụng, quyền cao chức trọng để được ăn trên ngồi trước, bóc lột tham nhũng hà hiếp dân chúng gây đau thương tổn hại cho nhiều người. Chúng ta nếu biết áp dụng con người tâm linh của chính mình, mới có đủ khả năng giúp nhân loại vượt qua rào cản của si mê, tội lỗi nhờ hiểu biết chân chính và thương yêu mọi người trong bình đẳng. Ai làm người cũng nên biết thao thức, trăn trở và hãy mở rộng tấm lòng ra để cùng nhau kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống bằng trái tim hiểu biết.
 
Đời sống con người luôn song hành hai phần thân và tâm, tức thể xác và tinh thần; nhưng đa số chúng ta chỉ chú trọng về phần vật chất cho thân  nhiều hơn mà quên lãng đi yếu tố tinh thần. Mặc dù chúng ta sống trong giàu có, tiện nghi vật chất đầy đủ, nhưng lại nghèo nàn phần tâm linh nên chúng ta thường làm tổn hại nhiều người khác. Lại có một hạng người tuy giàu có, dư dã, nhưng lại sống khổ sở hơn người nghèo vì chẳng dám ăn, dám xài, nói chi đem ra giúp đỡ cho người khác. Họ sống trong tham lam, ích kỷ, hẹp hòi, lao tâm nhọc sức để tích chứa cho riêng mình mà chẳng giúp ích gì cho ai.
 
Chúng ta muốn cho xã hội được phát triển vững mạnh và lâu dài, thì con người cần phải làm giàu tri thức và đạo đức. Tri thức giúp phát triển xã hội, đạo đức giúp con người sống có hiểu biết và yêu thương hơn. Tri thức và đạo đức như đôi cánh chim tung bay khắp cả bầu trời rộng lớn để cùng bồi đắp cho nhau sống có tình người bằng trái tim hiểu biết. Thiếu tri thức thì không làm được gì, có tri thức mà không có đạo đức thì dễ dàng bị tha hóa, tiêu cực, làm thiệt hại cho nhau.
 
Phật dạy: Con người là chủ nhân ông của bao điều họa phúc, bất hạnh hay khổ đau đều do mình quyết định. Chúng ta hãy vì tình thương của nhân loại mà bình đẳng giúp đỡ sẻ chia cho nhau, vì con người hơn hẳn các loài vật là có sự hiểu biết chân chính, nên chúng ta phải thiết lập tình thương theo nhịp cầu tương thân, tương ái bằng tình người trong cuộc sống.

Người tham muốn ăn uống ngon hợp khẩu vị, thì suốt đời lân la bên cạnh những món ngon vật lạ, quanh quẩn bên những tiệc tùng, tìm khoái khẩu trong những rượu ngon, vị lạ nên phải giết hại nhiều các loài vật để bồi bổ cho mình.

Chúng ta thử tìm hiểu xem, con người lúc vừa mới chào đời tuy chưa biết ăn nhưng ta biết khóc để đòi bú sữa mẹ, mà sữa mẹ là do đã ăn cơm uống nước cùng các loài sinh vật khác bị giết. Khi biết ăn ta đã ăn thịt cá từ bé đến giờ, nên gây đau khổ cho rất nhiều loài vật.

Tại sao ta phải giết chết các loài vật để ăn trong khi ta không cần giết chúng, mà vẫn có sự sống nhờ các loài hoa màu bằng thảo mộc, chúng vẫn có thể giúp ta giữ được sức khỏe và hạn chế tối đa việc làm tổn thương các loài có tình thức? Nếu sự sống của con người vẫn được tồn tại mà không làm chết các sinh vật khác thì cuộc đời an vui, hạnh phúc biết bao.

Tại sao con người giết sinh vật để ăn? Từ khi loài người có mặt trên thế gian này họ chỉ ăn các loại cây trái và hoa màu thiên nhiên. Lúc đầu, loài người chỉ ăn các loại nấm, hạt, hoa, lá, củ, quả, cây, nghĩa là chỉ ăn thức ăn bằng thực vật mà thôi, nhưng dần dần con người ăn thịt cá là do bắt chước các loài dã thú ăn nuốt lẫn nhau.

Ăn uống, tiệc tùng như thế lâu ngày đã trở thành văn hóa tín ngưỡng trong dân gian mà "phép vua cũng thua lệ làng". Nói cho cùng, ăn uống là một nhu cầu cần thiết và cũng là phương tiện để bày tỏ tình thân hữu hay mối quan hệ giữa con người với nhau trong xã hội, nhưng do lối văn hóa ăn uống của người Việt đã ăn thì phải ăn cho đã, đã uống thì phải uống cho say, ăn với uống phải no say.

Người đàn ông thường hay mắc phải thói quen rượu bia, mới đầu vì nhu cầu quan hệ đối tác làm ăn sau riết rồi trở thành thói quen, thành nghiệp nghiện rượu bia. Bữa nào lỡ không có chiến hữu tiệc tùng, thì sẽ cảm thấy bứt rứt khó chịu, bồn chồn trong người, đêm đó thế nào cũng ngủ không yên vì cơn thèm khát.

Con ma rượu bia này chính do mình tạo ra, nuôi dưỡng nên nó âm thầm phát triển cho đến khi ngày nào không có nó, ta cảm thấy khổ sở khó chịu là biết mình bị ma men xâm nhập. Khi chúng ta đã bị con ma men này xâm nhập rồi thì tai hại sẽ bắt đầu ụp đến, làm cho ta có thể tán gia bại sản, thân tàn ma dại. Khi cơn nghiện rượu nổi lên rồi thì mất tự chủ, cuối cùng có thể cướp của hay lường gạt của người khác để có tiền uống rượu.

Đối với thức ăn vật chất, Đức Phật dạy mọi người không nên ăn nhiều, chỉ ăn vừa đủ giúp cơ thể khỏe mạnh, không nên ăn những gì không thích hợp với cơ thể. Cách thức ăn uống của người Việt tương đối lành mạnh nhưng chế độ ăn uống thường mang tính cách theo thói quen, ngon miệng, hợp khẩu vị mà có thể thiếu các chất bổ dưỡng cần thiết hoặc dư chất bổ dưỡng.

Trong cuộc sống chúng ta thường chỉ lo ăn với uống cho đó là vấn đề chính yếu. Tối ngày chúng ta làm lụng vất vả chỉ để ăn với uống sao cho ngon miệng nên ta phải giết hại các sinh vật rồi tham đắm, dính mắc vào đó mà chịu quả báo xấu khi đủ nhân duyên. Ăn thì phải món ngon vật lạ hoặc cao lương mỹ vị.

Nhìn từ góc độ triết lý học Phật giáo, chúng ta thấy vô vàn, vô số địa ngục khác như các bệnh viện phòng cấp cứu, các nhà bếp của mỗi gia đình, các quán nhậu, các lò sát sanh, các chợ bán thịt cá, heo, bò, gà, vịt, các loài hải sản và cuối cùng là các nhà lưới bẫy đánh bắt.

Mỗi một ngày, vô số các loài bị phanh da xẻ thịt để cung cấp phục vụ cho loài người. Nhìn ở góc độ địa ngục trần gian, chúng ta còn có thể hình dung địa ngục trong tâm thức mỗi người, đó là tâm toan tính hại người, hại vật hoặc bị phiền não chi phối gọi là địa ngục tâm thức. Người tu nếu đạt đến giác ngộ giải thoát thì tâm sẽ an nhiên, tự tại dù thân có bị hành hạ, đau nhức chi phối.

Chúng ta ăn chay để tránh nghiệp báo bệnh tật và chết yểu, nhưng cũng có người cho rằng “cỏ cây cũng có sự sống”. Đúng! Cây cỏ cũng có sự sống, nhưng cây cỏ không có cảm giác, không có ý thức tham sống sợ chết, lo lắng sợ hãi, vui buồn khổ đau như các loài vật. Con người là một sinh vật có hiểu biết cao nhờ biết suy nghĩ và nghiệm xét, con người là vật tối linh trong các loài sinh vật.

Ăn chay đúng cách sẽ tránh được nhiều bệnh tật, các nhà khoa học chuyên nghiên cứu chất dinh dưỡng đều xác định rằng: “Không chỉ trong thịt cá mới có chất dinh dưỡng mà trong các loại rau đậu, củ quả cũng có rất nhiều”. Con người cần phải có ăn uống mới bảo tồn mạng sống, nếu ăn không đúng cách dễ sinh ra nhiều bệnh tật, do tâm tham muốn quá độ.

Ăn rau đậu, củ quả thì trong người cảm thấy nhẹ nhàng, còn ăn thịt cá thấy hôi tanh và cơ thể nặng nề. Chính vì thế, khi nấu nướng người ta thường cho gia vị thật nhiều để làm át mùi tanh hôi của thịt cá và tạo nên sự hấp dẫn, nhằm kích thích khẩu vị của mọi người.

Một bằng chứng cho thấy một số động vật chỉ ăn cỏ cây, hoa lá có thân hình thật to lớn, lại khoẻ như voi, trâu, bò, ngựa, dê,… Chúng chẳng bao giờ ăn thịt cá nhưng lại to lớn, khoẻ mạnh và có thể giúp nhiều cho con người.

Ăn chay là thể hiện lòng từ bi đối với các loài vật nên người Phật tử phải tập ăn chay từ một hai ngày mỗi tháng, đến khi đủ nhân duyên thì ăn chay hoàn toàn. Khi ăn chay chúng ta nên thay đổi thức ăn cho đỡ ngán, tất cả có thể cùng ăn với cơm, bánh mì, bún, hủ tiếu…v.v..

Nếu không biết nấu sẽ mất chất bổ, làm hại bộ máy tiêu hóa, lại không ngon miệng. Khi nấu luộc nên đậy nắp, không nấu luộc quá chín hoặc chỉ luộc sơ qua, chúng ta nấu luộc vừa chín tới để đảm bảo đầy đủ chất bổ dưỡng.

Tóm lại, vấn đề ăn mặn và ăn chay còn khá nhiều khía cạnh tế nhị khác, trong phạm vi hạn hẹp và có giới hạn chúng tôi không dám luận bàn nhiều, chỉ nhắc lại lời cổ nhân dạy: “Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn". Nghĩa là, con người sinh ra trên trái đất này, ngoài chuyện ăn uống để bảo tồn mạng sống, thì chúng ta còn phải làm tròn trách nhiệm đối với gia đình, người thân và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội.

Phật nói: "Chúng sinh sở dĩ đi không cách đất, không khỏi cỏ cây, ra vào không rời khỏi không khí, là bởi ăn những món do gieo trồng từ đất, nên thân thể rất nặng nề và chậm chạp. 

Người tham muốn ngủ nghỉ nhiều, thì quá nửa đời mình lẩn quẩn trên chiếc giường, bộ ván; ăn xong lại nghỉ chuyện đi nằm chẳng muốn làm gì hết, khi ngủ xong lại muốn ngủ nữa giống như các loài heo vậy đó, mất cả tự chủ và thể diện của mình. 
Con người vì không biết rõ thực tướng của vạn vật nên si mê chấp thân tâm làm ngã rồi dẫn đến chiếm hữu, lười biếng, ăn không ngồi rồi. Loài heo vì tham ăn ngon, ngủ kỹ nên mới bị đọa lạc như thế, tối ngày chỉ biết ăn rồi ngủ, ngủ dậy rồi ăn, chẳng biết làm gì.

Chúng được cho ăn món thượng hạng hằng ngày rồi nằm phè ra ngủ, thấy thế tưởng như ngon lành nhưng không ngờ đang gần kề cái chết mà không hay biết. Ăn ngon ngủ kỹ là căn bệnh trầm kha của nhiều người, đa số ai cũng thích như vậy từ chỗ si mê tham ái chấp trước mà ra.

Tóm lại, khi đã tham muốn quá độ, thì không bao giờ mình chịu bằng lòng với những gì đang có trong hiện tại. Nên ngạn ngữ có câu: "Bể kia dễ lấp, túi tham khó đầy". Thật đúng như thế, "lòng tham như giếng sâu không đáy", thì làm sao có thể đầy được? 
Để đối trị với lòng tham hưởng thụ quá đáng, Phật dạy chúng ta phải nên muốn ít, biết đủ. Trong kinh có nói: Người biết đủ, dù nằm trên đất cát vẫn an lạc, hạnh phúc trái lại, người không biết đủ, dù ở cung vàng điện ngọc cũng không vừa ý. Vậy muốn được sung sướng và an vui hạnh phúc, chúng ta cần phải biết bằng lòng với những gì mình đã có. 

Muốn ít là đối với cái chưa có, mà vì nhu cầu, mong cho có. Như muốn có cái nhà để ở nhằm đảm bảo việc ăn uống, ngủ nghỉ trong sinh hoạt hằng ngày. Biết đủ, là dù gặp hoàn cảnh nào cũng đều biết an phận trong hoàn cảnh đó, không bon chen đua đòi quá đáng.

Đối với việc ăn, mặc và ở, tự thấy mình có đủ dùng và dư dã chút ít để thủ hậu mai sau, thì ta sẽ không tham cầu nhiều hơn nữa để sống an lạc, hạnh phúc ngay bây giờ và tại đây. Người đời thường tham muốn những gì? Tham muốn tiền của dồi dào, tham muốn sắc đẹp và muốn có nhiều người đẹp, tham muốn danh vọng địa vị cao, tham muốn ăn uống ngon hợp khẩu vị, và tham muốn ngủ nghỉ thoải mái.

Những sự tham muốn quá đáng, làm cho con người mất hết cả tự chủ, và chỉ còn là nô lệ cho những thèm muốn của mình mà thôi. Một khi đã bị lòng tham dục điều khiển, thì con người sẽ gây rất nhiều tội lỗi, dám làm những chuyện tàn ác dã man.

Lòng tham muốn quá độ, khiến cho con người bị tối mắt trước những sự cám dỗ vật chất mà rơi vào con đường tội lỗi. Chẳng hạn một kẻ không có năng lực, đạo đức mà muốn được giàu có nhanh, họ lợi dụng quyền thế, dùng những mưu mô gian xảo, đen tối, để đạt được mục đích của mình.

Trong hiện tại lòng tham muốn quá độ, sự chạy đuổi theo ngũ dục đã làm tổn hại cho mình và nhiều người khác, khi phước hết họa đến thì bị đọa lạc vào ba đường khổ, để phải chịu thiếu thốn cả hai phương diện vật chất lẫn tinh thần. 

Đam mê ngũ dục khiến con người sinh tâm tham ái, chấp thủ, muốn sở hữu cho riêng mình, mà không nghĩ đến lợi ích chung, cho nên dễ dàng bị sa đọa. Ngũ dục được triển khai rộng hơn đó là sắc thinh hương vị xúc pháp.
Trong kinh Phật dạy, thuở quá khứ có một đàn vượn sống theo bầy đàn đi ăn. Vượn chúa ra lệnh cho tất cả vượn con phải đi chung đàn, không được tách rời khỏi hàng ngũ sẽ dễ bị đám thợ săn rình, bẫy, bắt. Trong đó, có một vượn con vì ham ăn, nên bèn tách ra khỏi đàn, đi riêng lẻ một mình kiếm ăn.

Đi được một lúc thì thấy miếng mồi thơm ngon quá, nó liền dùng tay phải để chụp lấy, không ngờ đây là cái bẫy của người thợ săn đã gài chất nhựa xung quanh, nên nó bị dính một tay. Bởi dính tay này nên nó vội vàng lấy tay kia gỡ ra, nên bị dính cả hai tay. Kế đến, nó lấy chân sau gỡ và cũng bị dính, còn lại một chân, nó cố bươi để thoát thân, nhưng chất nhựa làm nó dính luôn cả hai tay và hai chân.

Vượn thấy hai tay, hai chân đã bị dính, nên cố gắng lấy đuôi ngoe ngoe, mong cứu gỡ, nào ngờ càng dính thêm. Không còn cách nào khác, nó đành lấy cái miệng quặp để gỡ ra, nên bị dính luôn hết tất cả. Hai tay, hai chân, đuôi, miệng, cả sáu thứ đều bị dính, hết cục cựa, quậy quọ gì hết.

Cuối cùng, con vượn vì chút mòi ngon mà bị dính sáu chỗ, nằm rên la trong tuyệt vọng khổ đau. Chú thợ săn khoái chí đến bắt vượn ta, bỏ vô giỏ, quảy về để chuẩn bị làm thịt, xơi tái.
Đức Phật mượn hình ảnh thí dụ này để chỉ dạy cho người xuất gia và tại gia phải biết nương thầy lành, bạn tốt để học đạo hiền Thánh, không nên tách rời đại chúng quá sớm khi mình chưa đủ đạo lực.

Cuộc sống ở thế gian này, ai cũng tham muốn được hưởng thụ năm món dục lạc, sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngọt và thân xúc chạm êm ái là nhu cầu cần thiết mà ai cũng muốn khát khao tìm kiếm, nhằm để thỏa mãn sự khoái lạc của mình.

Cũng như chú vượn kia vì quá tham lam, nên đã tự ý tách bầy sớm, hy vọng có nhiều miếng mồi ngon, cũng vậy con người vì tham muốn ngũ dục quá đáng mà sống trong đau khổ lầm mê, không có ngày thôi dứt.

Đức Phật dụ cho miếng mồi ngon là sáu trần sắc-thinh-hương-vị-xúc-pháp. Một tay bị dính rồi thì cả sáu bộ phận sẽ bị dính theo hết. Khi sáu căn dính với sáu trần rồi, thì người thợ săn xách đi đâu cũng phải chịu.

Tóm lại, người Phật tử chân chính phải nên sáng suốt chọn thầy lành bạn tối để nương tựa tu học, giống như con vượn nương theo đàn, sẽ được bảo hộ chặt chẽ. Người tu chúng ta cũng vậy, dù ăn uống có thiếu một chút cũng không sao; còn muốn ăn ngon, thưởng thức cao lương mỹ vị, nên dễ bị mắc bẫy ngũ dục cám dỗ.

Hằng ngày, chúng ta mắt đối với mọi hình ảnh sự vật không dính mắc, tai đối với âm thanh không chạy theo, mũi đối với mùi thơm-hôi không chê bai hay thích thú, miệng đối vị ưa thích-ghét bỏ, thân xúc chạm với vật êm ái dễ chịu không luyến tiếc, đó là chúng ta biết tu trong mọi hoàn cảnh. Nếu còn dính kẹt chúng ta sẽ bị phiền não khổ đau, ta muốn tự tại, giải thoát thì tâm không dính mắc mọi trần cảnh.

Hạnh phúc theo lời Phật dạy là sống, ăn uống, ngủ nghỉ, sinh hoạt, làm việc, thấy, nghe, hay biết, đóng góp, phục vụ mọi người, mà vẫn không tham đắm, dính mắc ta, người, chúng sinh.

Ai làm người cũng đều có mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý, nó là sáu giác quan chủ lực của con người. Nếu ta biết sử dụng theo chiều hướng thượng, biết quay lại chính mình, làm chủ các giác quan, thì sẽ đóng góp lợi ích thiết thực cho mình và người khác. Ngược lại, các dục không thể làm thỏa mãn những tham muốn vô cùng tận của con người, nếu có chăng chỉ là sự thỏa mãn tạm thời, ngắn ngủi. Chính vì thế sự tham muốn, mong cầu quá đáng về các dục khiến cho con người khổ não nhiều hơn là an vui, hạnh phúc. Tất cả quý vị hãy nên chính chắn suy nghĩ, để làm hành trang tốt đẹp cho mình trong hiện tại và mai sau. 
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn