Như huyễn

11 Tháng Năm 201504:05(Xem: 7338)

NHƯ HUYỄN

Nguyễn Thế Đăng

Như huyễn là một chủ đề quan trọng của kinh Hoa Nghiêm, cho nên như huyễn được nói đến từ đầu cho đến cuối kinh. Ở đây, chúng ta tìm hiểu như huyễn ở hai phương diện: Như huyễn của pháp giới, và như huyễn là sự tu hành của cá nhân.

  1. Như huyễn của  pháp giới

Trong kinh Hoa Nghiêm, như huyễn được nói đến lần đầu như sau:

Phật thân vô tận như hư không

Vô tướng vô ngại khắp mười phương

Như huyễn như hóa khắp ứng hiện

Biến Hóa Âm Vương đã ngộ được.

                 (Thế chủ Diệu Nghiêm, thứ 1).     

Pháp giới là Phật thân, và Phật thân ấy “như huyễn như hóa khắp ứng hiện”. Phật thân ấy là Hóa thân của Pháp thân tánh Không “vô tận như hư không”. Như vậy, Pháp giới hay Hóa thân thì như huyễn như hóa vì hóa hiện từ Phật thân tánh Không.

Như Lai tạng pháp thân

Vào khắp trong thế gian

Dầu ở nơi thế gian

Mà không nhiễm thế pháp.

Ví như trong nước sạch

Hình bóng không đến đi

Pháp thân khắp thế gian

Nên biết cũng như vậy.

Thân, thế gian thanh tịnh

Lặng dừng như hư không

Tất cả không có sanh

Biết thân là vô tận.

Không sanh cũng không diệt

Chẳng thường chẳng vô thường

Thị hiện các thế giới

Pháp tánh không đến đi.

Chẳng chấp ta, của ta

Ví như nhà huyễn thuật

Hiển hiện các sự vật

Sự không từ đâu đến

Sự không đi về đâu.

Tánh huyễn chẳng hữu lượng

Cũng chẳng phải vô lượng

Ở trong đại chúng kia

Thị hiện lượng, vô lượng.

                   (Phổ Hiền hạnh, thứ 36).

Có hiện mà thật không hiện, không từ đâu đến, không đi về đâu, không sanh cũng không diệt, chẳng phải thường chẳng phải vô thường… thế nên như huyễn. Như huyễn vì tất cả xuất hiện trên nền tảng “pháp tánh không đến đi”, cho nên tất cả cũng không đến không đi, chẳng thường cũng chẳng đoạn, không từ đâu đến cũng không đi về đâu.

Sắc là có, dầu một cách quy ước tương đối, cho nên mới có danh từ sắc. Nhưng thật ra, “sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác sắc; sắc tức là Không, Không tức là sắc”. Như thế sắc là như huyễn, vì thật ra sắc tức là Không. Hơn nữa, “Không chẳng khác sắc, Không tức là sắc”, có nghĩa là sắc từ Không hóa hiện ra, hóa hiện mà vẫn có bản chất là tánh Không, cho nên sự hóa hiện ra sắc là như huyễn.

Sắc là chân lý quy ước, tương đối, là thế đế. Tánh Không là chân lý tối hậu, tuyệt đối, là chân đế. Chân lý quy ước, tương đối là như huyễn so với chân lý tối hậu, tuyệt đối. Tướng là như huyễn so với Vô tướng, Niệm là như huyễn so với Vô niệm, Trụ là như huyễn so với Vô trụ, Tác là như huyễn so với Vô tác.

Như Lai tạng, hay Phật Tỳ-lô-giá-na, tức là Phật Quang Minh Biến Chiếu, nghĩa là ánh sáng chiếu khắp cả. Trong ánh sáng nền tảng ấy, những sự vật là những “ảnh hiện” thì những ảnh hiện ấy phải là như huyễn, vì ảnh hiện có nền tảng là ánh sáng, hiện từ ánh sáng và tiêu tan trong ánh sáng. Những ảnh hiện ấy dường như khác với ánh sáng căn bản, nhưng thật ra chúng không khác, chúng chính là ánh sáng căn bản. Thấy khác mà không khác, cho nên chúng là như huyễn.

Trí Phổ Hiền thấy không gian và thời gian, tất cả vũ trụ là như huyễn. Thấy như huyễn là cái thấy pháp giới:

Chúng sanh, thế giới, kiếp

Chư Phật và Phật pháp

Tất cả như huyễn hóa

Pháp giới đều bình đẳng…

Rõ biết các thế gian

Như dương diệm như ảnh

Như vang cũng như mộng

Như huyễn, như biến hóa.

Tùy thuận nhập như vậy

Chỗ sở hành chư Phật

Thành tựu trí Phổ Hiền

Chiếu khắp pháp giới sâu.

Nhiễm trước chúng sanh, cõi

Đều hoàn toàn buông bỏ

Mà khởi tâm đại bi

Thanh tịnh khắp thế gian.

                   (Phổ Hiền hạnh, thứ 36).  

Thấy được các pháp không có sanh không có diệt, không chỗ đến không chỗ đi, nghĩa là như huyễn, tức là “thấy được Phật, chỗ sở hành của chư Phật”:

Các pháp không đâu đến

Cũng không có tác giả

Cũng không từ đâu sanh

Ở ngoài mọi phân biệt.

Tất cả pháp không đến

Vì thế nên không sanh

Vì đã không có sanh

Nên cũng không có diệt.

Tất cả pháp vô sanh

Tất cả pháp vô diệt

Nếu biết được như vậy

Người này thấy được Phật.

                   (Dạ-ma cung kệ tán, thứ 20).

Pháp thân tánh Không không hiện mà hiện sắc màu, nên sắc màu ấy là như huyễn. Do đó, thấy được như huyễn là thấy được pháp giới tánh, thấy được Phật:

Người muốn ca ngợi Phật

Sắc thân diệu vô biên

Hết cả vô số kiếp

Cũng không thể nói hết.

Ví như ngọc như ý

Hay hiện tất cả màu

Không màu mà hiện màu

Chư Phật cũng như vậy.

Cũng như hư không sạch

Không sắc, chẳng thể thấy

Dầu hiện tất cả sắc

Không ai thấy hư không.

Chư Phật cũng như vậy

Hiện khắp vô lượng sắc

Chẳng phải cảnh của tâm

Nên chẳng ai thấy được

            (Dạ-ma cung kệ tán, thứ 20).

Thấy tất cả pháp giới là không sanh không diệt, không đến không đi, không một không nhiều, không tăng không giảm… nghĩa là như huyễn, thì như huyễn này cũng là sự thanh tịnh của tánh Không, của pháp tánh, của bản tánh Niết-bàn. Đó là thấy Như Lai:

Nếu thấy được thân Phật

Thanh tịnh như pháp tánh

Với tất cả Phật pháp

Người này không nghi lầm.

Nếu thấy tất cả pháp

Bản tánh như Niết-bàn

Đây là thấy Như Lai

Rốt ráo vô sở trụ.

                    (Dạ-ma cung kệ tán, thứ 20).

           2. Như huyễn trong sự tu hành của cá nhân

Trong kinh Hoa Nghiêm có hẳn một phẩm nói về tu hành như huyễn, đó là phẩm Mười Nhẫn. Mười Nhẫn là: âm thanh nhẫn, thuận nhẫn, vô sanh pháp nhẫn, như huyễn nhẫn, như diệm nhẫn, như mộng nhẫn, như vang nhẫn, như ảnh nhẫn, như hóa nhẫn, như không nhẫn.

Các pháp trong thế gian

Tất cả đều như huyễn

Nếu biết được như vậy

Thì tâm không bị động.

Các nghiệp từ tâm sanh

Nên nói tâm như huyễn

Nếu lìa tâm phân biệt

Cõi hữu lậu diệt hết.

Ví như nhà huyễn thuật

Hiện khắp các sắc tượng

Cho chúng tham khát hảo

Rốt ráo vô sở đắc.

Thế gian cũng như vậy

Tất cả đều như huyễn

Vô tánh cũng vô sanh

Thị hiện có các thứ.

Độ thoát các chúng sanh

Khiến biết pháp như huyễn

Chúng sanh chẳng khác huyễn

Biết huyễn không chúng sanh…

Vật huyễn không tri giác

Cũng không có trụ xứ

Rốt ráo tướng tịch diệt

Chỉ theo phân biệt hiện.

          (Mười Nhẫn, thứ 29).

Quán như huyễn thì tự giải thoát vì “cõi hữu lậu diệt hết”, và giải thoát cho chúng sanh, bằng cách chỉ dạy họ biết pháp như huyễn, nhưng đồng thời cũng giải thoát khỏi việc độ thoát này, vì chúng sanh cũng như huyễn. Chỉ quán huyễn là làm trọn hạnh Bồ-tát, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.

Biết tâm như huyễn thì biết chư Phật “như huyễn như hóa khắp ứng hiện”. Đó cũng là biết pháp giới tánh:

Ví như họa sĩ kia

Phân bố những màu sắc

Hư vọng vẽ tướng khác

Nhưng đại không sai khác.

Trong đại không có sắc

Trong sắc không có đại

Cũng chẳng ngoài các đại

Mà có được màu sắc.

Trong tâm không màu vẽ

Trong màu vẽ không tâm

Nhưng chẳng rời khỏi tâm

Mà có được màu vẽ.

Tâm đó luôn chẳng trụ

Vô lượng khó nghĩ bàn

Thị hiện tất cả sắc

Đều riêng chẳng biết nhau.

Ví như một họa sĩ

Chẳng biết được tự tâm

Mà do tâm nên vẽ

Tánh các pháp như vậy.

Tâm như nhà họa sĩ

Hay vẽ những thế gian

Năm uẩn từ tâm sanh

Không pháp gì chẳng tạo.

Như tâm, Phật cũng vậy

Như Phật, chúng sanh đồng

Phải biết Phật và tâm

Thể tánh đều vô tận.

Nếu người biết tâm hành

Tạo khắp các thế gian

Người này thấy được Phật

Thấu rõ chân tánh Phật.

Tâm chẳng trụ nơi thân

Thân chẳng trụ nơi tâm

Mà làm được Phật sự

Tự tại chưa từng có.

Nếu người muốn rõ biết

Tất cả Phật ba đời

Phải quán pháp giới tánh

Tất cả duy tâm tạo.

                   (Dạ-ma cung kệ tán, thứ 20).

Quán tâm như huyễn là khi một niệm, một tư tưởng vừa khởi lên thì do biết tâm là tánh Không, không chỗ trụ, không chỗ đắc, nên biết tư tưởng khởi sanh từ tâm ấy cũng không chỗ trụ, không chỗ đắc; nghĩa là như huyễn. Một tư tưởng, một màu vẽ khởi sanh thì biết ngay “trong tâm không màu vẽ, trong màu vẽ không tâm”, nên tư tưởng, màu vẽ ấy là như huyễn. Tâm thì không chỗ trụ mà vẽ nên “thị hiện tất cả sắc”, nên tất cả sắc ấy không đến từ đâu, không đi về đâu, nghĩa là như huyễn. Tâm hay vẽ những thế gian, vẽ ra sanh tử, nhưng tâm ấy là vô tận, không đáy, không bản chất, nên thế gian, sanh tử là như huyễn.

Quán như huyễn như vậy khiến người ta giải thoát khỏi nghiệp thức đã vẽ nên, đã dệt nên thế giới sanh tử cho riêng mình. Rồi với lòng bi thấy người khác không thể nào ra khỏi thế giới sanh tử do chính họ dệt nên bèn chỉ dạy cho họ quán huyễn. Đồng sự với mọi người, làm việc với mọi người như vậy nhưng nhờ biết tất cả là như huyễn nên không nhọc mệt, oán than.

Quán như huyễn người ta dần dần giải thoát. Giải thoát không phải là thoát đi một nơi nào khác, mà giải thoát là thấy sanh tử như huyễn:

“Bồ-tát rốt ráo lìa tất cả tâm tưởng phân biệt kiến chấp điên đảo, được cái thấy chân thật, thấy thật tánh của pháp, biết tất cả thế gian như mộng như huyễn, không có chúng sanh, chỉ do lực đại bi, đại nguyện mà hiện ra trước chúng sanh để giáo hóa điều phục họ…

“Như hư không bao la, tất cả thế giới thành hoại trong đó, mà hư không vẫn chẳng phân biệt, bản tánh thanh tịnh không nhiễm, không loạn, không ngại, không chán, chẳng dài chẳng ngắn, tận vị lai kiếp gìn giữ tất cả các cõi”.

                (Nhập Pháp giới, thứ 39)

Vị Bồ-tát thấu rõ như huyễn thì sống trong pháp giới như huyễn, gọi là huyễn trụ:

“Chúng ta chứng được sự giải thoát của Bồ-tát có tên là Huyễn Trụ. Vì được môn giải thoát này nên thấy:

“Tất cả thế giới đều là huyễn trụ, do nhân duyên mà sanh khởi.

“Tất cả chúng sanh đều là huyễn trụ, do nghiệp phiền não mà khởi.

“Tất cả thế gian đều là huyễn trụ, do vô minh, hữu, ái, xoay vần làm duyên sanh khởi.

“Tất cả pháp đều là huyễn trụ, do những huyễn duyên, ngã kiến… mà sanh khởi.

“Tất cả ba đời đều là huyễn trụ, do những điên đảo, vọng tưởng, ngã kiến… sanh khởi.

“Tất cả chúng sanh sanh diệt, sanh lão bệnh tử, lo buồn khổ não, đều là huyễn trụ, do phân biệt hư vọng sanh khởi.

“Tất cả quốc độ đều là huyễn trụ, do tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo và vô minh hiện khởi.

“Tất cả Bồ-tát đều là huyễn trụ, do những hạnh nguyện hay tự điều phục và giáo hóa chúng sanh mà thành”. (Nhập Pháp giới, thứ 39).

Với sự thấy biết huyễn trụ như vậy, Đồng tử Thiện Tài đi vào lầu gác Đức Di-lặc, lầu gác đó chính là pháp giới trang nghiêm của chư Phật:

          “Khi ấy, Bồ-tát Di-lặc nói với Thiện Tài:

“‘Thiện nam tử! Pháp tánh như vậy, tính chất là không chỗ trụ, tất cả mọi sự được lập nên do trí huệ của chư Bồ-tát làm nhân duyên tụ tập mà hiện ra. Chúng vốn không thật, như huyễn, như mộng, như bóng ảnh phản chiếu, đều chẳng thành tựu…

‘Như nhà huyễn thuật làm những huyễn sự: không từ đâu đến, không đi đến đâu. Dầu không đến không đi nhưng do huyễn lực mà thấy rõ ràng. Cũng vậy, những sự trang nghiêm này không từ đâu đến, không đi đến đâu, nhưng do tu lực trí huyễn không thể nghĩ bàn và do lực đại nguyện xưa của Bồ-tát mà hiển hiện như vậy…

‘Chư Bồ-tát không đến không đi, như vậy mà đến, không đi không ở, như vậy mà đến. Không chỗ, không chấp, không mất, không hiện, không ở, không dời, không động, không khởi, không luyến, không nhiễm, không nghiệp, không báo, không khởi, không diệt, không đoạn, không thường, như vậy mà đến’.”. (Nhập Pháp giới, thứ 39).

Pháp giới Hoa Nghiêm là Chân Không Diệu Hữu. Diệu Hữu chỉ thật là Diệu Hữu khi Diệu Hữu ấy là như huyễn.

Văn hóa Phât Giáo số 223

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn