- Tiểu Sử Đại Đức Narada
- Lời Mở Đầu
- Phần I - Đức Phật
- 01 Từ Đản Sanh Đến Xuất Gia
- 02 Chiến Đấu Để Thành Đạt Đạo Quả
- 03 Đạo Quả Phật
- 04 Sau Khi Thành Đạo
- 05 Cung Thỉnh Đức Phật Truyền Bá Giáo Pháp
- 06 Kinh Chuyển Pháp Luân - Bài Pháp Đầu Tiên
- 07 Truyền Bá Giáo Pháp
- 08 Đức Phật Và Thân Quyến 1
- 09 Đức Phật Và Thân Quyến 2
- 10 Những Người Chống Đối Và Những Vị Đại Thí Chủ
- 11 Những Đại Thí Chủ Trong Hàng Vua Chúa
- 12 Con Đường Hoằng Pháp
- 13 Đời Sống Hằng Ngày Của Đức Phật
- 14 Đức Phật Nhập Đại Niết Bàn
- Phần Ii - Phật Pháp
- 15 Phật Giáo Là Gì?
- 16 Vài Đặc Điểm Của Phật Giáo
- 17 Bốn Chân Lý Thâm Diệu, Hay Tứ Diệu Đế
- 18 Nghiệp Báo
- 19 Nghiệp Là Gì?
- 20 Sự Báo Ứng Của Nghiệp
- 21 Tính Chất Của Nghiệp
- 22 Khởi Thủy Của Đời Sống Là Gì?
- 23 Đức Phật Và Vấn Đề Thần Linh Tạo Hóa
- 24 Do Đâu Tin Có Tái Sanh
- 25 Thập Nhị Nhân Duyên
- 26 Những Hình Thức Sanh Và Tử
- 27 Những Cảnh Giới
- 28 Hiện Tượng Tử Sanh
- 29 Cái Gì Đi Tái Sanh? - Lý Vô Ngã
- 30 Trách Nhiệm Tinh Thần
- 31 Nghiệp Chuyển Lên Và Nghiệp Chuyển Xuống
- 32 Nghiệp Báo Và Tái Sanh Với Người Phương Tây
- 33 Niết Bàn
- 34 Đặc Tánh Của Niết Bàn
- 35 Con Đường Niết Bàn (I)
- 36 Con Đường Niết Bàn (Ii)
- 37 Chướng Ngại Tinh Thần
- 38 Con Đường Niết Bàn (Iii)
- 39 Phẩm Hạnh A-la-hán
- 40 Lý Tưởng Của Bồ Tát Hay Bồ Tát Đạo
- 41 Ba-la-mật
- 42 Tứ Vô Lượng Tâm
- 43 Tám Pháp Thế Gian
- 44 Những Vấn Đề Của Kiếp Nhân Sinh
- Phụ Bản:
- 45 Kinh Hạnh Phúc
- 46 Kinh Suy Đồi
- 47 Kinh Cùng Đinh
- 48 Kinh Tam Bảo
- 49 Kinh Từ Bi
- 50 Kinh Tứ Niệm Xứ
ĐỨC PHẬT VÀ PHẬT
PHÁP
Đại Đức Narada Maha Thera, 1980 - Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Nguyên tác: "The Buddha and His Teachings"
Buddhist Publication Society,
CHƯƠNG 35
Con đường Niết Bàn (I)
"Con đường Trung Đạo này dẫn đến trạng thái vắng lặng, sự thành tựu, sự giác ngộ và Niết Bàn." Kinh Chuyển Pháp Luân.
Con đường Niết Bàn là Trung Đạo (Majjhima Patipada) tránh xa hai cực đoan là lối sống khổ hạnh, làm giảm suy năng lực trí thức, và lối sống lợi dưỡng, làm chậm trễ tiến bộ tinh thần.
Trung Đạo gồm tám chi: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định.
Hai chi trên là Trí Tuệ (panna), ba chi kế là Giới Luật (sila) và ba chi cuối cùng là Định (samadhi):
Giới
Chánh Ngữ
Chánh Nghiệp
Chánh Mạng
Định
Chánh Tinh Tấn
Chánh Niệm
Chánh Định
Tuệ
Chánh Kiến
Chánh Tư Duy
Theo đúng thứ tự của lịch trình tiến hóa tinh thần, Giới, Định và Tuệ là ba giai đoạn trên đường dẫn đến Niết Bàn. Ba giai đoạn này được cụ thể trong kệ ngôn sau đây:
"Chấm dứt
mọi hành động bất thiện,
Phát triển những
hành động thiện,
Thanh lọc tâm,
Đó là lời dạy của
tất cả chư Phật" -- Pháp Cú
Ta gặt hái những gì chính ta đã gieo. Điều bất thiện đem lại đau khổ. Điều thiện, hạnh phúc. Đau khổ và hạnh phúc của ta là ảnh hưởng trực tiếp của những hành động thiện và bất thiện của chúng ta. Người có Chánh Kiến nhận thức rõ ràng định luật nhân quả - tức hành động và phản ứng của hành động - và tận dụng mọi khả năng để tránh xa điều ác, phát triển việc lành.
Làm như vậy, vì lợi ích riêng của mình và sự an lành của người khác, người có tránh kiến nhận thấy có bổn phận làm cho đời sống mình là một phước lành, cho mình, và cho tất cả những người khác.
Biết rằng đời sống thật vô cùng quí báu đối với mọi chúng sanh, và không ai có quyền hủy hoại sự sống của kẻ khác, người có Chánh Kiến nới rộng tâm Bi và tâm Từ của mình đến tất cả, dầu là những con vật bé nhỏ, và tránh xa mọi hành động sát hại hoặc gây thương tích cho bất cứ người hay thú.
Không có luật lệ nào bắt chúng sanh này phải làm mồi cho chúng sanh khác. Tuy nhiên người mạnh vẫn giết kẻ yếu để lấy thịt bày tiệc tùng. Đó là bản năng của loài thú. Đối với thú, hành động tương tự còn có chỗ tha thứ vì chúng không có ý thức được việc của mình làm, nhưng với ai có đầy đủ lý trí mà còn cố tình làm vậy thì thật là đáng trách. Dầu để ngon miệng, hay để giải khuây, không có lý do nào ta tự cho phép, hoặc nhờ tay người khác giết một chúng sanh. Nếu sát hại thú vật là sai lầm thì giết người còn đáng ghê tởm đến bậc nào - dầu giết từng cá nhân hay giết từng đoàn, từng nhóm, dầu dùng những phương tiện tàn bạo hay những phương pháp gọi là văn minh tân tiến và nhân đạo, dầu giết để đem lại hòa bình, giết vì mục tiêu tôn giáo, hay vì mục tiêu nào có vẻ đẹp đẽ nào khác.
Liêm khiết, chân thật và chánh trực cũng là đặc tính của người có Chánh Kiến. Người có Chánh Kiến tránh xa mọi trộm cắp, dầu là sự trộm cắp hiển nhiên, lộ liễu, hay trộm cắp vi tế, kín đáo, ẩn núp dưới một lớp gì khác. Người có Chánh Kiến cũng tránh xa mọi hành động tà dâm làm giảm suy giá trị con người. Người có Chánh Kiến tránh vọng ngữ, không nói thô lỗ đâm thọc và nhảm nhí, mà chỉ dùng lời lẽ chân thật, nhã nhặn, hiền hòa và bổ ích. Có nhiều loại thuốc và rượu làm tâm trí xao lãng và lu mờ. Người có Chánh Kiến cũng tránh xa các loại rượu mạnh, cố gắng trau giồi và mở mang trí tuệ.
Năm quy tắc sơ đẳng ấy - nhằm kiểm soát cả hành động và lời nói - rất cần thiết cho những ai bước chân vào con đường dẫn đến Niết Bàn. Phạm những giới ấy tạo trở ngại cho tiến bộ tinh thần.
Đã vững vàng tiến một bước hướng đến mục tiêu, bây giờ hành giả cố gắng thu thúc lục căn. Để chế ngự sự thèm thuồng vật thực và để cho tâm và thân được nhẹ nhàng khoan khoái, trong mỗi tháng nhịn ăn một ngày là tốt. Đời sống phải giản dị và thanh đạm. Sống xa hoa dẫn con người trở lên nô lệ của tham vọng. Nên ở độc thân, vì tất cả năng lực nhờ đó mà bảo tồn trọn vẹn, để có thể xử dụng trong việc trau giồi tinh thần và đạo đức, cho mình và cho người khác. Cũng nhờ đó, ta có thể tách rời ra khỏi những dây trói buộc của xã hội, những trở ngại cho mức tiến đạo đức. Hầu hết tất cả những vị giáo chủ đều có một cuộc sống khiêm tốn, độc thân giản dị, tự ý nghèo nàn, và tự kiểm soát chặt chẽ.
Trong khi tiến bộ từ từ và vững chắc, hành giả càng kiểm soát hành động, lời nói và thu thúc lục căn càng chặt chẽ hơn. Nghiệp lực của người hành giả tinh tấn bấy giờ thúc đẩy đương sự từ khước những lạc thú trần gian và chấp nhận đời tu sĩ. Những ý như sau phát sinh:
"Đời sống
tại gia là sào huyệt củra tranh chấp,
Dẫy đầy những vất
vả, những nhu cầu,
Nhưng đời sống của
bậc xuất gia,
Tự do và cao cả
như trời rộng mênh mông."
Nhận thấy rằng xa hoa vật chất là ảo huyền và thú vui vật chất không tạo hạnh phúc thật sự, hành giả tự nguyện bỏ tất cả sự nghiệp vật chất trên đời để khoác lên mình tấm y vàng và cố ghép mình vào nếp sống hòan toàn trong sạch.
Tuy nhiên không phải vì sắc tướng bề ngoài mà chính sự thanh lọc bên trong đời sống gương mẫu, làm cho con người trở nên trong sạch. Sự đổi thay từ trong ra ngoài, chớ không phải từ ngoài trở vô trong. Không tuyệt đối cần thiết phải rút và ẩn dật nơi hẻo lánh vắng vẻ và sống đời tu sĩ mới chứng ngộ được Niết Bàn. Đời sống tỳ khưu chắc chắn giúp sự tiến bộ tinh thần được thành đạt mau chóng và dễ dàng hơn, nhưng người cư sĩ vẫn có thể đắc quả Thánh.
Trước tất cả những quyến rũ của đời sống tại gia, người tu sĩ mà đắc được Quả A La Hán chắc chắn đáng được tán dương hơn vị tỳ khưu, cũng đắc Quả A La Hán, giữa khung cảnh tĩnh mịch an nhàn, không có gì làm cho tâm giao động.
Nhắc đến một vị đại thần đắc Quả A La Hán lúc ngồi trên lưng voi, trong một cái bành sang trọng, Đức Phật ghi nhận:
"Dầu trang
sức lộng lẫy, nếu người kia đi trong sự thanh bình an lạc,
Nếu giữ tâm yên
lặng thu thúc, vững chắc và trong sạch,
Và nếu người kia
tự chế ngự, không làm tổn thương bất luận chúng sanh nào,
Người ấy là Bà La
Môn, là sa môn, là tỳ khưu." (Kinh Pháp Cú, câu 142).
Có rất nhiều trường hợp người tu sĩ sống tại gia cũng chứng ngộ Niết Bàn. Vị thiện tín giàu lòng quảng đại và tâm đạo nhiệt thành của Đức Phật, Anathapindika (Cấp Cô Độc) là một vị Tu Đà Huờn (Sotapanna). Mahanama dòng Thích Ca là một vị Tư Đà Hàm (Sakadagami). Người thợ lò gốm Ghatikara đắc quả A Na Hàm (Anagami) và Đức Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) nhập diệt với Đạo Quả A La Hán.
Một vị Tỳ khưu phải giữ bốn loại Giới Luật Cao Thượng:
1) Patimokkha
Sila - Giới luật căn bản
2) Indriyasamvara
Sila - Giới luật có liên quan đến công trình thu thúc lục căn
3) Ajivaparisuddhi
Sila - Giới luật có liên quan đến đời sống trong sạch
4)
Paccayasannissita Sila - Giới luật có liên quan đến sử dụng "tứ vật
dụng", những vật cần thiết cho đời sống.
Bốn loại giới luật ấy gọi chung là Sila Visuddhi (Tứ Thanh Tịnh Giới, sự trong sạch của giới hạnh), là tầng đầu tiên trong bảy tầng trong sạch, Thanh Tịnh Đạo, dẫn đến Niết Bàn.
Giới tử đã thọ lễ xuất gia và thọ trì Upasampada (Cụ Túc Giới ) được gọi là Bhikkhu (Tỳ khưu). Tu sĩ hành khất có lẽ là gần nhất của danh từ "Bhikkhu", không phải trong ý nghĩa người đi xin, mà trong nghĩa đời sống bằng vật thực được tặng, bằng lòng quảng đại, bằng tâm trong sạch bố trí của người khác.
Một vị tỳ khưu không có lời thề phải sống bằng đời sống xuất gia cho đến chết. Giới tử tự nguyện để xin ghép mình vào giới luật để sống đời sống trong sạch, đời sống thiêng liêng cao thượng của vị tỳ khưu cho đến ngày, nếu muốn, cũng tự ý, bước chân ra khỏi Giáo Hội mà không bị một sự bị ràng buộc nào.
Nhưng ngày nào còn đắp trên mình bộ y vàng, vị tỳ khưu phải giữ trọn 220 giới chánh [1] và nhiều giới phụ khác. Bốn trọng giới có liên quan đến đời sống độc thân, đến sự trộm cắp, sát nhân và khoác loác khoe khoang rằng mình đã đạt đến một mức cao thượng mà thật ra mình không có, phải được gìn giữ trang nghiêm. Vị nào phạm một trong bốn trọng giới kể trên phải chịu tội Parajika (Bất Cộng Trụ) và đương nhiên không còn là tỳ khưu nữa. Nếu muốn, vị ấy có thể xuất gia Samanera (Sadi) trở lại.
Ngoài bốn trọng tội ấy, nếu vị tỳ khưu phạm nhầm giới nào khác, phải tùy nặng nhẹ mà sám hối chịu tội.
Những đặc điểm chánh của một vị tỳ khưu là trong sạch, hoàn toàn độc thân, tự ý sống nghèo nàn, khiêm tốn, đơn giản, vị tha phục vụ, tự kiểm soát, nhẫn nại, bi mẫn và thanh tao nhã nhặn.
Đời sống của
một tỳ khưu, hay nói cách khác, sự từ bỏ những thú vui và những tham vọng của
thế gian, chỉ là một phương tiện hữu hiệu để thành tựu quả Niết Bàn. Sự xuất
gia tự nó không phải là cứu cánh.
Chú thích:
[1] Ngoài ra, còn bảy điều diệt tránh (adhikaranasmatha dhamma), cộng lại là 227.